Văn xuôi · 19/01/2022

CÁCH BIỆT

 

 

   Tặng NYM và LHC,

                                                                                                          hai người bạn cũ

 

 

             Một

                                                                 

Chiếc máy bay A 320 của Hàng không Việt Nam từ từ lăn bánh trên đường băng, chạy lấy đà rồi tăng tốc và cất cánh.

Ngồi trên ghế bên cửa số, Hân không cưỡng lại được nỗi sợ cố hữu của mình mỗi khi đi máy bay. Anh còn nhớ, đã đọc được ở đâu đó rằng phần lớn tai nạn hàng không xảy ra là trong lúc máy bay hạ cánh. Còn lúc này, nó đang bay lên… Vậy mà nỗi sợ hãi mơ hồ nhưng rất thật, như một bàn tay vô hình vẫn bóp nghẹt lấy trái tim Hân, khiến anh hơi khó thở. Ơ, hay là ngược lại nhỉ? Hân không còn tin vào trí nhớ của mình nữa. Nhưng chẳng phải là đã khá nhiều máy bay bị rơi trong lúc cất cánh hay sao? Và có điều này thì Hân biết chắc, là trong chiến tranh phá hoại, sau khoảng thời gian ngắn bị bất ngờ vì sự xuất hiện của Không quân nhân dân Việt Nam, bọn phi công Mĩ đã tìm cách phục kích tít trên cao, nhè đúng lúc máy bay ta vừa mới bốc lên khỏi đường băng liền lao xuống, phóng tên lửa. Không tài nào tránh được. Có lẽ vì thế nên cứ mỗi khi ngồi trên máy bay Hân lại thấy sợ, nhất là khi nó rú ga, cất cánh rời mặt đất. Thế mà khi còn bé, anh đã từng ao ước làm phi công đấy.

Mơ ước tuổi thơ nhanh chóng lui vào dĩ vãng từ lúc nào chẳng biết. Nhưng sau này, do cuộc sống đổi thay, Hân đã được đi máy bay không chỉ một lần, cả trong và ngoài nước. Vậy mà nỗi sợ tai nạn vẫn luôn luôn thường trực trong anh, không xóa được. Cứ như kiểu trẻ con sợ ma khi đi trong bóng tối. Ngay cả lúc anh tự trấn an rằng trong tất cả các phương tiện giao thông thì máy bay vẫn là an toàn nhất. Nhưng tai nạn vẫn xảy ra ở khắp mọi nơi trên thế giới đấy thôi. Nói phỉ phui, nếu mình cũng gặp phải tình huống đó thì sao? Thì xong, chứ còn gì nữa! Chết hết. Chẳng ai toàn thây. Thật khó mà nhận dạng. Như cái vụ ở Đôn Mường[1], Thái Lan ấy. Chỉ một người sống sót là cơ trưởng của chiếc máy bay xấu số.

Hân nhắm mắt lại, cố gắng không nghĩ tiếp. Chắc cũng chỉ “oành” một cái thôi. Nhưng liệu tất cả chỉ giản đơn có thế? Đúng là theo lệ thường, khi một chiếc máy bay chở khách bị rơi thì thật khó mà có ai còn sống sót. Từ mấy nghìn mét trên cao, hàng chục độ dưới không lại còn cháy nổ… May mắn lắm thì tất cả sẽ diễn ra rất nhanh, nên mọi người không kịp sợ thôi. Hân chợt lấy làm lạ, không hiểu tại sao mình nghĩ thế.

Máy bay rung nhẹ lên một cái. Bánh xe đã được thu lại rồi. Ngoài kia, những đám mây mỏng manh trôi vun vút về phía sau. Những con đường, nhà cửa, dòng sông… nhanh chóng tụt sâu xuống dưới và nhỏ lại. Hân cảm thây yên tâm hơn một chút. Anh thở một hơi dài rồi vớ lấy quyển tạp chí ở lưng ghế đằng trước, giở ra xem.

Đã hơn một năm rồi, Hân mới lại có dịp vào công tác ở Sài Gòn. Cũng vẫn như mọi khi, anh sẽ có vừa đúng một tuần giảng dạy, tức là đủ năm ngày lên lớp, không kể thời gian đi và về. Nhưng đối với Hân, chuyến đi này mang ý nghĩa hơi đặc biệt. Anh định thu xếp thời gian để đến thăm Phương Linh, một người bạn cũ nếu có thể gọi được như thế từ thời còn đi học ở Liên Xô, xem cuộc sống của chị ra sao. Đây là dự định của Hân từ khá lâu, nhưng mãi vẫn chưa thực hiện. Không hiểu cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra như thế nào, liệu Phương Linh có nhận ra mình không? Hân tự hỏi rồi lại tự trả lời: cứ gặp đi rồi sẽ biết.  

 

*

*          *

 

Cho đến tận bây giờ, không hiểu tại sao Hân vẫn nhớ như in lần đầu tiên gặp Phương Linh ở Mátxcơva. Nhóm lưu học sinh trong đó có anh được đưa về khu kí túc xá dành cho sinh viên người nước ngoài để học ở Khoa dự bị trước khi vào năm thứ nhất của một trường nào đó trên toàn Liên bang Xô viết nói chung. Công trình kiến trúc này, có lẽ mới được khánh thành không lâu, cao đến hai mươi hai tầng, gồm hai tòa nhà riêng biệt gọi là korpux nối với nhau bằng một dãy hai tầng dài dằng dặc, có cửa hàng ăn, câu lạc bộ, rạp chiếu phim, bể bơi… Ngoài sức tưởng tượng của Hân, khi thấy người ta gọi đó là đôm, tức là nhà, ngôi nhà hoặc tòa nhà theo nghĩa được ghi trong từ điển.

Cũng giống như những ngôi nhà cao tầng khác, trong kí túc xá này có cả thang máy, thang bộ và cầu thang thoát hiểm ở đầu hồi. Mỗi tầng có hai dãy căn hộ quay mặt vào nhau với hành lang rộng thênh thang ở giữa. Các căn hộ đều giống nhau ở chỗ, ba phía là tường ngăn và cửa ra vào. Sàn được lát bằng những mảnh ván gỗ nhỏ theo hình dích dắc, đánh véc ni. Nhà tắm và vệ sinh ở liền kề với cửa, bên cạnh lối vào phòng. Vì thế, nó tạo ra một góc khuất như hình thước thợ cho khu vực bên trong. Đối diện cửa ra vào là bức tường lửng, phía trên lắp kính hai lớp để lấy ánh sáng và giữ nhiệt chạy hết chiều ngang của gian phòng. Chỉ có một ô nhỏ, rộng chừng năm sáu mươi xăng ti mét, mở ra đóng vào làm cửa sổ. Không ban công, không chấn song gì hết. Và trong mỗi căn hộ đều có hệ thống sưởi ấm bằng nước nóng, hoạt động vào mùa đông.

Trong kí túc xá, ở mỗi tầng đều có một gian bếp chung rộng đến ba bốn chục mét vuông, đun bằng điện công suất lớn. Khác hẳn với Việt Nam than củi, mùn cưa, rơm rạ… nóng bức, khói mù. Cách đó không xa là khu vực dành riêng cho việc tiếp khách với xa lông êm ái và phòng xem vô tuyến. Tuy chỉ là máy thu hình đen trắng nhưng cũng đã một trời một vực so với Việt Nam vì tuyệt đại đa số dân mình làm gì đã có được thứ sản phẩm văn minh này. Trừ một số cán bộ từ cấp nào đó trở lên được phân phối hoặc những người giàu có, mua từ miền Nam ra, chủ yếu là loại máy National cửa lùa mười bốn hay mười bảy inchs gì đó. Những chiếc máy được trân trọng nâng niu, gìn giữ như báu vật. Thậm chí, có người còn cẩn thận dùng dây xích, một đầu khóa vào tủ đựng máy, đầu kia gắn chặt vào tường để phòng trộm cắp. Và mỗi lần bật lên xem, lại có riêng một chiếc quạt con cóc[2] đặt phía sau cho mát máy trong khi chủ nhân chịu nóng.

Theo đúng tên gọi của nó được viết tắt, ĐAX có nghĩa là Khu nhà dành cho nghiên cứu sinh và thực tập sinh chứ không phải kí túc xá sinh viên. Nhưng không hiểu vì lí do gì người ta lại gom sinh viên dự bị người nước ngoài về đây ở. Có thể vì thiếu kí túc xá dành cho sinh viên, hoặc số lượng nghiên cứu sinh và thực tập sinh ít quá, bố trí vào đây chẳng bõ. Hân đoán vậy và anh nhận ra, cũng giống như những ngôn ngữ đa âm khác, tiếng Nga đầy những từ viết tắt, để người ta đỡ phải viết dài, đọc dài và nói dài. Ví dụ như CCCP mà người Việt Nam thường hồn nhiên đọc “xê xê xê pê” thật ra là ba chữ x và một r. Nếu viết và đọc đầy đủ các âm tiết thì sẽ thành một câu rất dài, dịch ra tiếng Việt là Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết. Chẳng biết ai là người đầu tiên chuyển cụm từ ấy sang tiếng Việt, đã ngắt chữ đầu tiên kết hợp với từ gần cuối để cho ra hai chữ Liên Xô, rất ngắn gọn và thuận tiện. Nhưng đến một lúc nào đó người ta lại chiết tự theo tiếng Việt thành Các chú cứ phá hoặc Càng cho càng phá để nói về việc Liên Xô giúp đỡ và viện trợ cho Việt Nam trong hàng bao nhiêu năm trời.

 

Chiều hôm ấy, giữa lúc đang mơ mơ màng màng trong căn hộ (gồm phòng ở và công trình phụ khép kín) bỗng Hân nghe thấy tiếng con gái lóe xóe ở bên ngoài. Một giọng nữ miền Nam, có lẽ là dân Sài Gòn chính hiệu. Qua cánh cửa mở toang theo thói quen chưa bỏ được của những người Việt Nam mới ra nước ngoài, Hân đoán cô gái ấy đang đứng ở hành lang, nói chuyện với một người bạn cùng phòng anh. Tuy câu được câu chăng, nhưng Hân cũng hiểu, cô về nghỉ hè bên nhà (một thông tin mới đây, vì theo như Hân biết thì lưu học sinh làm gì có phép), vừa sang. Cô xuống đây để làm quen với mọi người và hỏi thăm về một người bạn trai tên là Cường, mà theo hẹn thì hôm nay, cậu ta sẽ đến đây để gặp cô.

Không ngủ được nữa mà cũng chẳng muốn làm một kẻ nghe lỏm bất đắc dĩ cộng thêm chút tò mò muốn xem cô gái là người như thế nào, Hân trở dậy và đi ra cửa. Anh ngạc nhiên khi thấy một cô gái nhỏ xíu, chỉ cao chừng chưa đầy một mét năm mươi, trong bộ quần áo màu hồng có lẽ được may bằng lụa hay sa tanh gì đó. Bộ đồ theo kiểu Tàu, cúc vải, rất vừa vặn với thân hình của cô, chứng tỏ nó được may rất khéo và mặc dù để tóc ngắn (cũng lại theo kiểu Tàu?!), nhưng trông cô không có vẻ gì là Trung Quốc. Có thể vì Hân đã nghe thấy cô nói bằng tiếng Việt như thế nào, mà cũng có thể vì gương mặt trái xoan, đôi mắt to trong sáng với cái miệng nhỏ xíu và đôi môi mọng của cô chăng? Hân định tìm cách lướt qua hai người đang án ngữ ngay gần cửa để đi ra thì đã bị chặn lại bởi cái gật đầu tỏ ý thân thiện của cô gái chưa quen biết:

– Em chào anh ạ! – Cô gái chìa tay cho Hân. – Chắc là anh từ trong nước mới sang?

Hân lúng túng bắt tay cô gái và cảm nhận rất rõ là mình đang đỏ mặt, vì cả đời anh gần như chưa bắt tay một người con gái nào. Ngay lúc đó, Hân cũng thấy bàn tay cô lọt thỏm trong bàn tay không lấy gì làm to lắm của anh:

– Ờ… mình sang đây học chuyên ngành Văn học Nga Xô viết, nhưng mà phải thêm một năm dự bị.

– Em biết rồi! – Cô gái cười to. – Em tên là Phương Linh, ở tầng mười sáu trên này… Phòng mười sáu không hai. Lúc nào rảnh, các anh ghé qua chỗ em chơi nhé!

Lại còn thế nữa! Hân thầm nghĩ rồi xin lỗi vì anh đang vội, mặc dù thật ra anh nào có việc gì, mà chỉ đơn giản là muốn đi khỏi chỗ Phương Linh đang đứng vì không có chuyện gì để nói. Cái bản tính nhút nhát, rụt rè của Hân xưa nay khiến anh không dễ làm quen với những người khác giới, huống chi…

Dần dà, Hân mới biết Phương Linh là con của một nhà thơ khá nổi tiếng đã hi sinh trong chống Mĩ. Ông quê ở Nam Bộ và đã từng tập kết ra Bắc, đến năm sáu mươi nhăm mới trở lại chiến trường. Phương Linh và mẹ của cô được móc nối, đưa ra cứ, nơi nhà thơ công tác. Sau khi có Hiệp định Paris, Phương Linh ra Bắc học thêm văn hóa rồi được đưa đi đào tạo ở bên này. Cô theo học chuyên ngành tiếng Anh, và vừa kết thúc năm thứ nhất. Phương Linh đã hai mươi tư, có người yêu trẻ hơn cô bốn tuổi, học cùng khóa nhưng ở trường khác, chuyên ngành nhiếp ảnh.

Thật lạ khi Phương Linh sở hữu một cơ thể bé nhỏ, như không thể bé nhỏ hơn, thậm chí hơi gày nhưng vẫn cân đối và xinh đẹp. Cứ như một con búp bê sống hay nói cho đúng hơn, là một mẫu người đã trưởng thành được thu nhỏ lại. Một gương mặt thông minh, có cái gì đó trong sáng, không bợn chút lo âu, đến nỗi Hân lấy làm nghi ngờ về sự có mặt của cô ở chiến trường cho dù Linh chỉ là một nhân viên văn thư, đánh máy tại R[3]. Gương mặt ấy, thân hình ấy trong những bộ quần áo được cắt may đúng mốt khiến cho nhiều người, khi mới gặp gỡ lần đầu thường đoán Phương Linh mới mười sáu mười bảy tuổi. Vì thế mới có anh chàng mười tám, đôi mươi yêu cô chứ? Bởi vì, cứ theo cách nghĩ của số đông thì thời đại ngày nay không còn chỗ cho những mối tình kiểu Mác và Gienni nữa. Hơn thế, người yêu của Linh lại là dân Hà Nội gốc, thuộc loại con nhà.

Nỗi băn khoăn của Hân được giải tỏa ngay khi anh gặp Cường – người yêu của Phương Linh. Chỉ mấy ngày sau buổi làm quen của cô với những Hân sinh viên, phần lớn là bộ đội chuyển ngành đi học, thì Cường xuất hiện. Cậu ta có vẻ mặt sáng sủa, mái tóc để dài trùm gáy và mặc chiếc quần bò Levis. Cường đeo một chiếc túi đựng máy ảnh Nikon to tướng và những phụ kiện kèm theo, nặng đến lệch cả người. Sau này Hân mới biết đó là cả một gia tài và niềm mơ ước của ngay cả những nghệ sĩ đã thành danh ở Liên Xô: chỉ riêng chiếc máy thôi, đã tám trăm rúp; ống kính tê lê năm sáu trăm nhưng không có mà mua vì Liên Xô không nhập khẩu loại máy này từ Nhật. Rất đắt, nếu so với mức lương trung bình của một kĩ sư hay bác sĩ chỉ chưa đầy hai trăm rúp. Có lẽ nó chỉ là rẻ so với lương của Tổng bí thư vào khoảng tám nghìn[4].

Vui vẻ, hoạt ngôn và rất tự tin là điều mà ai cũng nhận thấy ở Cường. Qua câu chuyện làm quen, Hân biết Cường vừa mới đi thực tế sáng tác và chụp ảnh thời sự thông tấn từ công trường xây dựng đường sắt Baikal – Amur[5] về. Nghe tin người yêu mới nghỉ hè ở trong nước sang nên cậu đến tìm, nhưng tiếc là cô lại vừa chạy đi đâu đó. Vì thế, Cường đành phải vào ngồi tạm trong phòng của Hân một lát. Hỏi, biết được ngành học của Hân, cậu ta liền reo lên:

– À, hay quá! Thế thì anh em mình học cùng trường với nhau rồi! Hết dự bị, về kí túc xá của trường, anh sẽ ở trên tầng mười hai. Còn bọn em ở tầng hai. Thỉnh thoảng, anh xuống chỗ em chơi nhé! Kí túc xá mới của trường mình đẹp lắm.

Hân chỉ ừ hữ cho qua chuyện, vì thực tình, anh không phải là một người dễ hòa đồng. Bạn sẽ như thế nào đây, nếu luôn luôn ý thức được rằng trước hết, mình là một kẻ xấu trai

và hết sức vụng về? Hân cao một mét bảy mươi, nhưng chỉ nặng hơn năm chục ki lô gam, mái tóc bù xù và nước da đen cháy. Đã thế lại còn nghèo: ở Việt Nam, anh chưa sắm nổi lấy cho mình một cái xe đạp, dù chỉ là xe khung dựng[6]. Còn sang đây, có nằm mơ anh cũng không thể đào đâu ra được một chiếc quần bò như chiếc mà Cường đang mặc.

Tuy mới đặt chân lên Mátxcơva được mấy ngày, nhưng Hân cũng biết, giá tiền chiếc quần bò Thái vào khoảng một trăm bảy mươi rúp, nhưng nếu đem về các nước vùng Trung Á thì phải hơn hai trăm. Học bổng của dân Việt cộng[7] trong đó có Hân được chính phủ Liên Xô cấp cho mỗi tháng là bảy mươi rúp[8]. Số tiền này đủ mua được một bộ koxchium[9] loại xoàng; có thể giúp người ta sống thoải mái ít nhất trong một tháng, còn nếu mua bàn là thì phải được đến mười mấy chiếc! Mỗi chiếc bàn là đem về Việt Nam bán được khoảng hai trăm năm mươi đến ba trăm đồng, gấp bốn năm lần lương của một kĩ sư mới ra trường[10]. Mọi việc buôn buôn bán bán của người Việt Nam nói chung có lẽ bắt đầu từ sự chênh lệch giá cả như thế và một bên, mọi thứ đều bán tự do, muốn mua bao nhiêu cũng được. Còn bên kia vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh, cơ cực, đói nghèo. Đến nỗi từng cái kim sợi chỉ cũng phải mua bằng tem phiếu hoặc phân phối về các cơ quan, xí nghiệp mà nào có đủ! Vì thế, người ta phải tranh nhau ngay cả trong lúc bốc thăm.

Hân không thể biết được đất nước mình sẽ còn khó khăn, thiếu thốn đến bao giờ và người Việt Nam ở Liên Xô sẽ làm gì để cứu nước cứu nhà như anh và các bạn thường nửa đùa nửa thật với nhau. Nhưng trong cái nhìn của Cường, anh chàng cựu chiến binh đầy vẻ nhà quê này có cái gì đó hơi là lạ. Anh ta mặc một chiếc quần simili pha ni lông màu xanh cánh trả rất chi là ấn tượng và cứ đưa tay lên xem đồng hồ liên tục. Mặt mũi thì khó đăm đăm pha lẫn vẻ quan trọng, làm như cả thế giới này chỉ mình anh ta có đồng hồ đeo tay hay sao ấy! Chiếc đồng hồ Seiko cũ rích, chẳng biết đáng giá được bao nhiêu! Tuy suýt nữa phải phì cười trước bộ dạng của Hân, nhưng Cường vờ như không để ý vì sợ anh tự ái. Cậu ta đâu có biết, chiếc đồng hồ ấy do một người bạn từ thời ở chiến trường tặng Hân trước khi anh lên đường sang Liên Xô. Nhưng không hiểu vì lí do gì, ngay khi vừa mới đến Mátxcơva nó đã tự động lúc chạy lúc dừng, cho dù Hân cứ phải vung tay liên tục. Mà chữa, thì anh không biết phải đem đến đâu, hơn nữa cũng chẳng có tiền để làm việc đó. Còn chiếc quần thì đành chịu vì mảnh vải pha ni lông có màu như thế, không tài nào nhuộm thành màu khác được. Vứt đi thì tíếc.

 

Dù sao, Cường cũng không phải chờ lâu. Mới khoảng mười lăm hai mươi phút, đã nghe thấy cái giọng miền Nam chói lói của Phương Linh không lẫn vào đâu được rồi cô ào vào như một ngọn gió. Thì ra, Cường đã lên phòng cô từ trước và để lại một mẩu giấy nhắn tin, để cô biết chỗ mà tìm. Ngay lập tức, cô gái kéo người yêu ra cửa, miệng vẫn huyên thuyên một điều gì đó. Nhìn đôi trai gái ôm vai bá cổ bước đi một cách rất tự nhiên, Hân có cảm giác dường như họ sinh ra là để dành sẵn cho nhau: thật khó có ai đẹp đôi được hơn thế nữa. Nhưng chỉ mấy tháng sau, Hân đã thấy mình nhầm.

Đêm hôm ấy, phải rất khuya Cường mới rón rén leo lên giường, ngủ chung với một người bạn cùng phòng của Hân. Ra về lúc này là không thể, vì đã gần hai giờ sáng. Tất cả các phương tiện giao thông công cộng đều đã ngưng hoạt động, còn đi tắc xi thì tốn tiền. Vì thế, Cường đành phải làm cái việc mà đối với “bọn Tây” là tối kị: nằm chung giường với một người cùng giới. Tuy vậy, đến khi Hân thức dậy vào lúc bảy giờ sáng, sắp sửa đi học thì cậu đã không còn ở đó nữa rồi.

Rất nhanh chóng, phòng ở của Hân và mấy người bạn đã trở thành điểm hẹn của Phương Linh với Cường. Cứ mỗi chiều thứ bảy hằng tuần, nếu không phải là Cường đến tìm Linh, thì cô cũng ghé qua xem anh chàng đã đến chưa. Tất nhiên, nếu đã đến, bao giờ Cường cũng lên thẳng phòng cô; và nếu Phương Linh có nhà, thì chỉ một hai giờ sáng cậu ta mới lò dò xuống chỗ Hân để ngủ nhờ hoặc sẽ về luôn nếu như hôm đó, cặp tình nhân chia tay nhau sớm.

Cũng phải nói thêm, là khu kí túc xá đồ sộ này không phải dành riêng cho một trường nào. Tất cả các sinh viên nước ngoài, đủ màu da và tiếng nói, nếu học ở Khoa dự bị đều sống ở đây. Sau một năm, họ mới về các trường mà mình theo học để vào năm thứ nhất. Nhưng có một số trường chỉ bố trí được chỗ ở cho sinh viên từ năm thứ ba trở đi. Vì thế năm thứ nhất và thứ hai, sinh viên của họ vẫn ở khu kí túc xá tổng hợp này và Phương Linh là một trong số đó. Còn việc Cường và Phương Linh cứ phải hẹn tìm nhau, đôi khi phải qua người khác, thì đó là vì họ không thể làm cách nào khác được. Điện thoại công cộng trong kí túc xá tuy có đấy, nhưng sinh viên muốn gọi cũng nào có dễ đâu: phải hẹn nhau từ trước, vào một giờ nào đó. Khổ nỗi số lượng máy thì ít, người cần gọi lại nhiều nên lắm lúc phải xếp hàng hoặc tranh nhau, chờ đến sốt cả ruột.

Có một cách để đỡ mất công chờ đợi, là gọi vào máy của kí túc xá nhờ người ta nhắn tin lại giúp, vì mỗi một kí túc xá hoặc tòa nhà đều có một máy để bàn và người trực điện thoại. Tuy nhiên, cách này cũng không ổn lắm vì trực điện thoại thường là các bà già đã về hưu đi làm thêm, chúa hay quên. Lại nữa, ngay cả khi các bà đã viết ra giấy đặt trên bàn thì cũng chắc gì người cần nhận tin sẽ đọc được: các sinh viên thường bới tung mọi thứ lên để tìm thư từ hoặc thông tin dành cho họ, có giấy tờ gì rơi xuống đất cũng chẳng ai để ý. Vì thế, đến lúc người được nhắn gọi có biết thì cũng đã muộn rồi.

Tuy nhiên, đây cũng đã là điều quá tuyệt vời đối với sinh viên Việt Nam. Bởi vì ở trong nước, điện thoại vẫn là phương tiện thông tin liên lạc chỉ có ở các cơ quan, tập thể và dường như chỉ dành cho công việc. Muốn gọi đi đâu đều phải qua tổng đài. Và hãy coi chừng, nếu nói chuyện hơi dài hoặc lạc sang lĩnh vực riêng tư thì người ta có thể cắt ngang ngay lập tức: trên thực tế, cô nhân viên trực tổng đài, người rút và cắm phích (nối mạng) cho các cuộc gọi cũng là người mặc nhiên được nghe hay phải nghe tất cả! Còn điện thoại nhà riêng thì chỉ dành cho quan chức từ cỡ vụ phó, vụ trưởng gì đó trở lên. Vì thế mới có chuyện nhiều cán bộ phải đi gọi điện nhờ ở các cơ quan, và rất nhiều người Việt Nam cho đến khi ra nước ngoài vẫn không biết cách gọi điện thoại là như thế nào.

Ở Mátxcơva, không khó để tìm thấy những bốt điện thoại công cộng, trông như tủ kính trên hè phố với màu sơn đỏ và hình vẽ một chiếc điện thoại to đùng lại thêm dòng chữ telephon nữa. Chỉ cần bỏ vào đó hai côpếch[11] là đã có thể gọi đến bất kì số máy nào ở nội thành. Còn gọi đi các tỉnh và thành phố khác, tất nhiên sẽ phải dùng những đồng xu có mệnh giá lớn hơn và cũng mất thời gian hơn. Tuy nhiên, vẫn còn hơn Việt Nam chán vạn lần. Bởi vì bất kì ai nếu muốn thông tin nhanh đi đâu thì chỉ có một cách là đánh điện hay gửi điện chứ không thể nào gọi được. Người ta phải ra bưu điện để kê khai, đăng kí và trả tiền tùy theo loại điện khẩn hay thường, ít hay nhiều chữ. Nhân viên bưu điện sẽ dùng máy điện báo để chuyển nội dung bức điện ấy đi. Ở đầu kia, bức điện được in trên một băng giấy rộng cỡ vài milimét rồi cắt dán lên một tờ giấy theo mẫu in sẵn, sau đó mới giao cho các bưu tá chuyển đến tay người nhận.

Rắc rối là như vậy, nên một bức điện khẩn từ Hà Nội về Hải Phòng thường phải mất ít nhất là một ngày. Vào Thanh Hóa, Nghệ An thì lâu hơn. Còn nếu gửi thư thì phải mất hàng tuần lễ. Đó là chưa kể, nhiều khi điện hoặc thư bị chậm bởi hàng nghìn lí do, như mưa bão, tắc đường, thậm chí là… xe đạp của bưu tá bị hỏng. Và sẽ còn tệ hơn, nếu chẳng may người đưa thư (nhất là ở nông thôn) bị ốm, không có ai thay thế. Vì vậy mới có chuyện, vào cái năm một nghìn chín trăm bảy mươi bảy, một lá thư từ Hà Nội về Hải Dương cũng có thể mất đến bốn năm ngày hoặc lâu hơn.

 

*

*          *

 

Đang từ một đất nước đói nghèo và lạc hậu may mắn được sang Liên Xô, cái làm cho Hân ngạc nhiên nhất là ở chỗ, anh không hề cảm thấy xa lạ một chút nào với những cảnh vật, con người và cuộc sống ở nơi này. Từ ga tàu, đường phố, nhà cửa, quảng trường, vườn hoa… thảy đều có vẻ quen thuộc như anh đã từng biết đến lâu rồi. Cũng dễ hiểu, vì từ bao nhiêu lâu nay, cả miền Bắc gần như chỉ biết đến có phim ảnh và các tác phẩm văn học nghệ thuật của Liên Xô, còn các nước khác thì rất ít. Hân không quên, là giữa lúc máy bay Mĩ ném bom dữ dội Hà Nội, Hải Phòng… anh còn được xem những bộ phim như Ở xa Tổ quốc, Những kẻ báo thù không bao giờ bị bắt, Chiến hạm nổ tung ở cảng… Và trước khi lên đường đi học, là những Vua Xantan, Mười bảy khoảnh khắc mùa xuân, Họ đã chiến đấu vì Tổ quốc… Vì thế nên đến ngay cả những người đang đi trên hè phố Mátxcơva, Hân cũng có cảm giác là anh đã gặp ở một nơi nào đó.

Thành phố Mátxcơva rộng tới hàng ngàn ki lô mét vuông, với đường kính khoảng hơn bốn mươi ki lô mét, có tám triệu dân và hơn hai triệu khách vãng lai. Đi từ đầu nọ đến đầu kia phải mất hơn một tiếng đồng hồ. Những đường phố, đại lộ thênh thang có hàng cây trên dải phân cách. Những vỉa hè thoáng đãng, có chỗ rộng hàng trăm mét. Những vườn hoa, đài phun nước với đủ loại tượng đài, từ Lênin cho đến các nhà chính trị, quân sự kiệt xuất và các văn nghệ sĩ như Puskin, Maiacốpxki… nhưng tuyệt nhiên không thấy tượng Xtalin, trừ bức tượng bán thân duy nhất được đặt trước ngôi mộ của ông nằm ở phía sau Lăng Lênin trên Quảng trường Đỏ.

Không thấy một chiếc xe đạp nào trên đường phố. Người ta đi lại chủ yếu bằng các loại phương tiện giao thông công cộng như tàu điện, ô tô buýt và xe buýt điện. Tàu hỏa đường ngắn hay dài cũng đều chạy bằng điện hết, như một minh họa cho câu nói nổi tiếng của Lê nin: Chủ nghĩa xã hội là chính quyền Xô viết cộng với điện khí hóa toàn quốc. Có lẽ cũng vì thế mà trong suốt những năm học ở Mátxcơva, Hân thấy hầu như không mất điện bao giờ. Người ta có thể dùng điện để đun nấu và sưởi ấm một cách vô cùng thoải mái, chẳng phải lo như ở Việt Nam. Mà giá điện thì chỉ bốn, năm côpếch một ki lô oát.

Nhưng niềm tự hào chính đáng của người dân Xô viết nói chung và Mátxcơva nói riêng lại là ở hệ thống tàu điện ngầm có một không hai của họ. Được xây dựng và đưa vào sử dụng từ những năm ba mươi, mỗi ga tàu điện ngầm thật sự là một công trình nghệ thuật hoành tráng không lặp lại, rất khang trang và tiện lợi. Phong cách kiến trúc và những bức tranh, pho tượng… trang trí của mỗi ga cũng đều hòa quyện và làm nổi bật đặc điểm văn hóa, lịch sử của vùng đất mà nó đang đồ sộ nguy nga bên dưới. Chi phí cho mỗi lượt đi tàu điện ngầm là năm côpếch, không dùng vé. Hành khách chỉ việc bỏ một đồng năm xu bằng kim loại vào máy tự động là đã có thể theo thang cuốn chui vào lòng đất, bắt đầu cuộc hành trình từ ga này đến ga khác, tuyến này sang tuyến nọ, bao lâu cũng được. Người ta chỉ phải trả thêm một đồng năm xu khác sau khi đã nhô lên mặt đất, ra khỏi nhà ga. Nếu ai đó không có sẵn đồng năm xu bằng kim loại thì đã có máy đổi tiền tự động hoặc đến quầy bán vé. Và hệ thống tàu điện ngầm ấy theo thời gian, cứ tỏa rộng, vươn dài mãi về các hướng.

Hân chỉ hơi lạ khi thấy trên ô tô buýt, tàu điện và xe buýt điện lại không có người bán vé, mà thay vào đó là quầy bán vé theo kiểu tự giác. Hành khách bỏ tiền xu vào đó rồi tự xé vé cho mình. Không ít người, trong đó có Hân đã từng trốn vé để tiết kiệm mấy đồng xu, nhưng hãy coi chừng: nhân viên kiểm tra có thể xuất hiện bất cứ lúc nào và họ sẽ phạt nặng những hành vi gian lận.

Tuy nhiên, cái làm cho Hân thán phục và kính nể nhất đối với mạng lưới giao thông ở Mátxcơva lại là tính kết nối của nó và ý thức của người dân. Đi đâu cũng có thể bắt gặp những perekhôd – hầm đường bộ rộng rãi và thoáng đãng, đèn điện sáng trưng. Khách bộ hành có thể xuống đó, sang đường vào bất cứ lúc nào. Hân cũng không tưởng tượng được rằng ngay cả đêm khuya, nếu đèn tín hiệu giao thông đã chuyển sang màu đỏ thì tất cả các loại xe cộ đều dừng lại hết. Ban ngày, không có một chiếc xe vận tải nào chạy trên đường phố. Đặc biệt, là không hề nghe thấy tiếng còi xe bao giờ.

Trong các cửa hàng cửa hiệu sáng choang và đầy ắp mọi thứ ở Mátxcơva, có một cách bán hàng khác hẳn với Việt Nam. Người ta cứ đi thẳng vào trong quầy hàng, thoải mái chọn lấy bất kì thứ gì họ muốn rồi đem ra chỗ thanh toán. Giá tiền thì đã được in sẵn hoặc dán trên từng sản phẩm, không nhầm lẫn được. Không có nhân viên bảo vệ nào theo dõi. Đó chính là hình thức siêu thị mà hàng chục năm sau Hân mới thấy ở Việt Nam. Mua thực phẩm thì hơi mất thời gian hơn một chút. Khách hàng phải chỉ trỏ, chọn lựa, chờ người ta cân xong, báo giá. Đem tiền ra trả ở quầy thu ngân rồi mới quay lại, đưa hóa đơn và nhận hàng. Không có chen chúc ồn ào, chồm hỗm, gánh gồng, mặc cả. Thịt cá, bơ sữa, gà vịt đông lạnh… đều ở trong tủ kính có điều hòa nhiệt độ hẳn hoi. Riêng cá chép thì cứ bơi trong bể, ai mua mới vớt ra. Các nhân viên bán hàng đều mũ trắng, áo trắng cứ như y bác sĩ. Tem phiếu thì đã được xóa bỏ từ năm bốn mươi bảy, không còn khái niệm phân phối hay tự do gì nữa.

Nhưng cũng ngay từ những ngày đầu tiên ấy, Hân đã nhận thấy thật ra Liên Xô chưa giàu như anh tưởng và Mátxcơva không phải thiên đường. Cứ nhìn vào cuộc sống và thói quen sinh hoạt của người dân thì biết. Vẻ tất bật và hơi lam lũ của khá đông người dân không giấu đi đâu được. Thành phố rất nhiều công trình hiện đại cao chót vót, nhưng cũng vẫn còn không ít khu phố cũ được xây dựng từ trước Cách mạng tháng Mười, chật chội và thấp bé. Những ông già bà cả ăn mặc tồi tàn ngồi giết thời gian bằng cách đánh cờ, đọc báo hoặc cho chim bồ câu và sóc ăn ở chỗ này chỗ khác. Rất nhiều người đã về hưu còn phải đi làm tạp vụ, thu ngân, gác cửa… khắp mọi nơi. Không phải để cho vui, mà rõ ràng là nhằm mục đích trang trải thêm cho cuộc sống. Cũng dễ hiểu, vì cái siêu cường bao gồm mười lăm nước cộng hòa liên bang này phải gánh cả một trách nhiệm nặng nề, chia sẻ và giúp đỡ nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam. Nhưng tiềm lực kinh tế và tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của họ chỉ bằng khoảng một phần mười của Mĩ và thua xa so với Nhật Bản, Anh, Pháp, Tây Đức, vv… mặc dù dân số các nước này ít hơn. Sự phát triển của các nước cộng hòa trong Liên bang cũng chênh lệch nhau rất lớn. Trong khi đó, riêng vùng Xibir rộng tới chục triệu kilômét vuông, tức là gấp hàng mấy chục lần diện tích Việt Nam gần như vẫn ngủ yên, chưa được người ta khai thác.

 

Ở cùng phòng với Hân trong kí túc xá này có ba người, trong đó có hai, cùng lứa tuổi anh. Một, tên là Ánh, quê Bắc Giang vốn là dân trinh sát pháo binh. Anh này khá cực đoan, với tuyên bố hùng hồn ngay từ khi còn ở bên nhà là sẽ không để tóc dài và không có buôn bán gì hết, chỉ chuyên tâm vào việc học. Ánh nói như thế có lẽ vì lúc này, nam giới nếu để tóc dài sẽ bị coi là càn quấy, ảnh hưởng từ nếp sống đồi trụy, hư hỏng của chế độ cũ còn rơi rớt lại. Và tóc dài ở đây, tuy không có quy định cụ thể là như thế nào, nhưng hễ cứ trùm gáy, che tai, xõa trán… đều bị coi là dài hết. Dường như cả nước chỉ có mấy kiểu tóc cho nam giới từ trẻ đến già, là bốn bên nhẵn thín, trừ mỗi cái đỉnh đầu, hoặc ba phân như bộ đội và kiểu cắt cua dành cho những anh chàng ngổ ngáo. Lịch sự hơn một chút, có xanh mai trắng gáy, nghĩa là tóc mai để dài, còn gáy thì cạo nhẵn.

Về các kiểu đầu tóc thì Hân chẳng quan tâm gì lắm, tuy cũng phải công nhận rằng khá nhiều thanh niên để tóc dài trông rất đẹp. Nhưng cũng lắm anh tóc dài, trông thấy mà ghê với vẻ mặt bặm trợn, râu ria tua tủa… cứ như tướng cướp. Ấy là chưa kể, xà phòng thơm đâu mà gội đầu[12]. Riêng Hân, vì tóc anh đã xấu lại hay bị ngứa da đầu, nên chẳng cần ai cấm đoán hay quy định gì hết, tóc vừa hơi dài một tí là anh đã cắt. Phải mỗi tội không ít người coi việc để tóc dài là mốt hay muốn thể hiện bản lĩnh gì đó của mình nên mới đua nhau. Hệ quả là thỉnh thoảng ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng… công an lại mở đợt truy quét, tóm được anh nào tóc dài là dũi ngay một đường tông đơ từ gáy cho đến trán. Còn mặc quần ống loe, thì bất kể nam hay nữ cũng sẽ bị họ rạch từ gấu đến tận đùi, vào đúng đường li mới ác! Lạy van, xin xỏ thế nào cũng kệ. Chiếc quần, sau đó chẳng còn làm cách nào mặc được, cho dù mỗi năm nhà nước chỉ cấp phiếu để mua bốn hoặc năm mét vải, tùy theo đối tượng là cán bộ, công nhân viên hay dân thường. Số vải ấy, tùy theo khổ rộng hay hẹp khác nhau đủ may một bộ quần áo dài, cùng lắm là thêm được chiếc quần đùi. Chính vì thế mà ở thành phố, ai đó có được bốn năm cái quần đã được coi là giàu có lắm. Và hẳn cũng vì lí do này mà quần áo là thứ cứ luôn luôn bị mất trộm, ngay cả khi còn ướt, phơi trên dây hoặc đang ngâm trong chậu chưa kịp giặt.   

Tuyên bố không để tóc dài của Ánh xem ra được thực thi triệt để. Chẳng biết bằng cách nào, anh ta cắt đúng kiểu ba phân thật, như để tự khẳng định quyết tâm sắt đá của mình. Riêng khoản không đi buôn thì Hân không hiểu thế nào vì ở đây, giữa Mátxcơva này có mấy ai trong số các sinh viên Việt Nam lại không tìm cách mua và gửi cái gì đó về nhà. Nhỏ, thì ít viên thuốc bổ hay chữa bệnh. Lớn hơn chút nữa, là mét vải, chiếc bàn là. Còn các bậc cao thủ thì gửi từ xe đạp, đầu máy khâu các loại, radio kèm máy quay đĩa Rigônđa, đến ti vi, tủ lạnh… Thứ mua ở cửa hàng bách hóa, thứ lùng sục từ các cửa hàng đồ cũ theo cách gọi của người Việt Nam là cửa hàng “còm”.

Tiếng Nga, kommixionnưi magazin, là cửa hàng định giá hay giảm giá. Có thể bắt gặp ở đây từ pho tượng nhỏ, bức tranh sơn dầu, bộ quần áo cũ cho đến máy khâu quay tay và chiếc ấm xamôvar[13] cổ… với giá cả được cho là chỉ bằng một nửa hoặc hai phần ba giá gốc. Người dân Xô viết nào có thứ gì đó không muốn dùng nữa hoặc túng tiền thì cứ đem đến cửa hàng, thống nhất giá cả để người ta bày bán. Không loại trừ đồ đạc của cả những người đã chết, vứt đi thì phí. Nhưng cũ người mới ta, thế cũng còn tốt chán đối với dân Việt cộng cho nên khá nhiều người, đặc biệt là cán bộ nhân viên sứ quán và nghiên cứu sinh cứ đua nhau đi săn lùng đồ cũ (vì vốn đầu tư thấp) để gửi về Việt Nam hoặc bán lại cho nhau kiếm lời.

Để có tiền mua hàng, lẽ đương nhiên phải có cái gì đó đem đi từ bên nhà, như đồng hồ Nhật, máy ảnh, quần bò, áo phông…, vì đây là những thứ mà người dân Liên Xô rất chuộng. Bán ngoài chợ đen (phải rất cẩn trọng, nếu không, bị bắt thì chỉ có mà về nước sớm). Rồi tìm cách quay vòng, gửi mọi thứ về, sau đó lại bán và mua tiếp, dần dà hình thành những hệ thống đường dây hẳn hoi, mà cầm đầu lại thường là các cán bộ nhân viên sứ quán. Vì họ có sẵn xe cộ mang biển số ngoại giao lại thông thuộc đường sá, đặc biệt luôn luôn tiếp xúc với đủ loại người có điều kiện qua lại nơi này, tha hồ trao đi đổi lại. Mà cán bộ ta đi công tác ở các nước Đông và Tây Âu, quá cảnh Mátxcơva thì đông lắm. Nhờ đó các chú sứ, theo cách gọi của sinh viên, càng có điều kiện làm ăn thuận lợi. Phòng ở của các chú lúc nào cũng đầy ắp các loại hàng hóa, đồ đạc chất cao như núi.           

Đúng là trong suốt một năm học dự bị ở Mátxcơva, Ánh không bán gì thật. Có lẽ chỉ vì anh ta là con của một nông dân nghèo, lại không quen biết ai có điều kiện đi nước ngoài nên chẳng có gì để mà trao đổi. Nhưng mua, thì Ánh cũng không kém lắm, tất nhiên là nhờ vào khoản tiết kiệm từ học bổng. Thức ăn quen thuộc của anh ta là cá kinki[14]kho mặn; cơm luôn luôn được nấu bằng gạo loại xoàng độn mì sợi vì đã quen rồi. Chao ôi, cái sự quen của người Việt Nam! Suốt một thời gian dài buộc phải ăn cơm độn sắn, độn khoai hoặc ngô rồi bột mì, mì sợi… đến nỗi ra nước ngoài, vẫn đem cả thói quen ấy theo mình. “Còn ngon hơn ở nhà gấp nghìn lần ấy chứ!” – Ánh vẫn thường nói thế.

Hân biết, về điều này thì anh cựu trinh sát pháo binh ấy đúng. Ở Việt Nam, chẳng hiểu vì lí do gì mà những sợi mì đều đen thủi đen thui và hôi sì, gạo thì mỗi lần đem vo lại có thể đãi ra được hàng đống mọt nổi lềnh bềnh trong nước. Nhưng thế vẫn còn là may vì có thời gian, người ta còn phải ăn độn bột mì. Không bột nở, không lò nướng bánh mì, thôi thì đến bữa mỗi nhà lại đành nhào bột cho vào luộc. Cứng ngắc, nhai như nhai đá nên người ta mới gọi đó là món nắp tăng xê hay nắp hầm. Ở các bếp ăn tập thể cơ quan như quân đội, công an… cũng vậy.

Không chỉ thực hiện nếp sống khắc khổ như trong thời chiến, đến nỗi phải tự ra quy định mỗi tuần chỉ được phép ăn mấy bữa thịt, Ánh còn không bao giờ ăn trưa tại trường hoặc cùng lắm cũng chỉ lấy một cốc nước chè và mấy lát bánh mì, tổng cộng chưa hết đến mười côpếch. Thỉnh thoảng, anh ta còn chịu khó nhặt nhạnh những bộ quần áo cũ ai đó vứt đi, đem về giặt sạch rồi hồn nhiên giải thích, rằng gửi về quê cho mọi người dùng còn tốt chán. Lại một lần nữa, Hân phải thầm công nhận rằng anh bạn này nói đúng. Chỉ có điều, ngoài Ánh ra ở đây chẳng có ai lại dám làm như thế.

Khác hẳn với Việt Nam, ở đây mỗi tầng nhà đều có một căn phòng nhỏ làm nơi tập kết rác với họng rác có nắp đậy đàng hoàng. Ai muốn vứt cái gì, chỉ cần giẫm lên bàn đạp để mở nắp, bỏ vào đường ống là xong. Tất cả sẽ rơi xuống tầng một, nơi đặt các thùng chứa rất to, hằng ngày có xe đến cào xúc, chở đi vào buổi tối. Còn những thứ cồng kềnh như giường tủ, bàn ghế hay giá sách… thì cứ việc để gọn vào một chỗ, sẽ có người đến dọn. Quần áo, nhiều khi còn lành lặn và mới nguyên nhưng không mốt nữa, hoặc người ta không muốn đem theo vào lúc chuyển nhà cũng thường được vứt bỏ theo cách ấy.

Nhưng trời ơi, cái mùi cá kinki kho mặn của Ánh mới khủng khiếp làm sao! Trong gian bếp chung ở các tầng đều có tới bốn năm cụm bếp điện cho mọi người sử dụng. Mỗi cụm bếp lại có đến bốn bếp đun, nghĩa là cùng lúc, hơn chục người có thể tha hồ mà nấu nướng. Nhưng mỗi lần Ánh đem cá ra kho là các bạn Tây lại phải chạy dài vì cái mùi tanh của nó. Không thể đào đâu ra khế chua và giềng cũng chẳng có kẹo đắng, Ánh chỉ còn biết đốt cháy đường thành than để tạo màu. Xứ lạnh, thời tiết hanh khô, cái mùi đường bị đốt cháy khét lẹt và mùi cá kho kinh dị ấy ám luôn ngay vào chiếc áo len duy nhất mà anh ta vẫn mặc. Đến nỗi có lần, khi đứng gần Ánh, một cô người Nga phải thốt lên: “Quái, sao ở đây lại có mùi gì lạ thế?”. Anh chàng, hẳn biết rõ đấy là mùi gì liền mỉm cười bí ẩn, lẳng lặng đi ra chỗ khác.

Thêm một cái làm cho Hân và khá nhiều bạn Việt Nam khó chịu là ở chỗ, không hiểu tại sao Ánh lại kì công đem sang tận Mátxcơva một đôi dép nhựa Tiền Phong và rất lấy làm khoái chí lê nó đi khắp mọi nơi. Từ nhà ra bếp, dọc hành lang, vào thang máy đến phòng xem truyền hình, xuống dưới bàn bảo vệ tìm thư…, chỉ trừ lúc đến trường đi học. Tiếng dép cố tình khua rõ to, đầy vẻ tự hào “quẹt, quẹt”!… kết hợp với dáng vẻ nghiêm trang, long trọng một cách tức cười của Ánh khiến không ít bạn Tây cảm thấy lạ lùng nhưng không dám nói gì. Còn bạn ta có hỏi thì được trả lời, dép tôi, tôi đi, việc quái gì đến các ông! Rách việc! Sau này mới biết, đó là đôi dép lê đầu tiên mà Ánh sắm được ở chợ Đồng Xuân trước khi sang Liên Xô học tập, với giá tận mười hai đồng, trong khi giá phân phối của nhà nước là năm đồng bảy. Không dễ gì vứt đi cho được. Nhưng rồi đến gần hết năm học, có lẽ thấy mình hơi lạc lõng quá, nên Ánh đành phải ngậm ngùi gửi về lại Việt Nam cho ai đó, chứ đôi dép còn tốt thế này…

 

Về chuyện yêu đương của Ánh cũng có vài điều đáng nói. Số là, cùng đi học ở Liên Xô một đợt với nhau, ngoài đám đàn ông phần lớn đã kinh qua trận mạc, còn có hai cô bộ đội tuy không phải đánh đấm gì. Một, tên là Hiền, cựu y tá đường dây 559. Cô kia là Chi, quản lí tiểu đoàn, tức là người nắm giữ sổ sách giấy tờ, theo dõi cơm áo gạo tiền trong đơn vị. Chẳng hiểu thế nào, tuy ở cùng phòng với hai em gái là học sinh phổ thông, nhưng các chị, nhất là Hiền cứ cãi nhau liên tục và nói xấu người khác như hát hay, lại còn rình mò đủ thứ rồi đem cả ra cuộc họp đơn vị[15] mà phản ánh.

Cũng như Hân, hai cô này được hưởng chính sách ưu tiên đi học ở nước ngoài, nhưng mỗi người một tính một nết lại hay chấp nhặt nên mới sinh ra lắm chuyện. Tỉ như Hiền thường rất tự hào về quá khứ vẻ vang làm y tá của mình (được coi là có chuyên môn nghiệp vụ!) trong những năm tháng ở Trường Sơn và coi thường Chi ra mặt, vì “Cái con ấy nó chỉ suốt ngày chúi mũi vào đống nồi niêu xoong chảo, tương cà mắm muối thì biết cái gì!”. Còn Chi thì lại phản đòn bằng những lời lẽ được làm ra vẻ khiêm nhường: “Ừ, không biết gì mà người ta lại là thượng sĩ, quản lí của cả một tiểu đoàn mấy trăm con người. Còn mình thì suốt ngày bưng bô đổ vịt, cứ tưởng là danh giá lắm! Đã thế lại quân hàm trung sĩ, kém hẳn người ta một bậc”.

Hân biết, nữ thượng sĩ làm quản lí tiểu đoàn là rất hiếm. Chức vụ này thường được giao cho những người có quân hàm thiếu úy hay bét nhất thì cũng là chuẩn úy. Đó là một cấp bậc dường như để chờ ngày lên thiếu úy, từ đó mới có số hiệu sĩ quan, nhưng đến một lúc nào đó, cấp bậc này sẽ không còn nữa trong cả công an và quân đội. Hân cũng biết, trừ những trường hợp đột xuất, y tá dù ở đâu cũng không mấy khi bưng bô đổ vịt cho ai, vì đấy là việc của các hộ lí. Nhiệm vụ chính của y tá là đo huyết áp, tiêm truyền và phát thuốc hay trực theo dõi bệnh nhân ở các phòng, oai hơn hộ lí nhiều. Giỏi giang ra còn có thể chữa được một số bệnh thông thường và những vết thương không nghiêm trọng. Chẳng qua là do ghét Hiền, nên Chi mới “xuyên tạc” ra như thế thôi.  

Qua một năm học trong nước, phần lớn mọi người đã quen biết nhau, cả học sinh phổ thông lẫn cựu quân nhân. Vì thế, sang đến bên này khá nhiều người trong số đó đã thành đôi một cách rất tự nhiên bởi nỗi cô đơn trong cuộc sống xa nhà, ăn uống đầy đủ lại đang tuổi khao khát yêu đương và hoàn cảnh rõ là thoải mái. Cửa phòng luôn luôn đóng kín, nên chẳng ai biết được ai đang làm gì trong đó. Nhưng chỉ cần ra đến hành lang, trên đường phố, đi ô tô buýt hay tàu điện ngầm… là đã có thể bắt gặp những đôi trai gái ôm hôn nhau như để chọc tức các chàng và nàng người Việt. Hơn nữa, ở đây chẳng ai dòm dỏ, rình mò hay bắt tội gì những đôi trai gái ngủ với nhau như ở Việt Nam nên càng gợi cho người ta nhiều suy nghĩ. Thế là đua nhau yêu, thật tự nhiên. Nhiều đôi, nhất là những người học cùng trường và sống trong cùng một kí túc xá còn nấu ăn chung như những cặp vợ chồng thật sự. Phải mỗi tội là vẫn ở khác phòng.

Tuy nhiên, phần lớn những cặp tình nhân ấy vẫn là cựu quân nhân với nhau, hoặc học sinh phổ thông “thuần túy” chứ hiếm khi có người như Hân lại yêu được một cô mười chín đôi mươi hay ngược lại. Có lẽ bởi vì trong cách nhìn của những cô gái non tơ, các anh đã là cả một thế hệ khác rồi và tất cả đều giống nhau ở chỗ khó tính, hẹp hòi, khắc khổ. Làm sao mà thương cho được! Vì thế, các cô đều gọi những người như Hân là chú. Cũng là một cách để các anh già đừng xí xớn gì chăng?

 

Sống ở Mátxcơva được đến tháng thứ hai thì Ánh cặp đôi với Hiền. Đôi “trai tài gái sắc” ấy giống nhau ở chỗ cùng là đảng viên, cùng hai mươi lăm tuổi và ở chiến trường được ba năm, tuy nhiệm vụ mỗi người một khác. Với Hiền cũng như Ánh, màu vải đẹp nhất để may áo là màu xanh Sĩ Lâm và giữa Mátxcơva, cả hai từng bỏ thời gian đi tìm mua loại vải ấy mãi mà không được. Ánh thất vọng khi chợt nhận ra rằng, ở Liên Xô không phải cái gì cũng có. Còn Hiền thì chỉ tiếc cho việc mất bao nhiêu là thời gian và tiền lẻ, hết đi ô tô buýt lại đến tàu điện ngầm, qua bao nhiêu là chặng mà không kết quả gì. Biết thế, thà ở nhà đan nốt cái áo len cũ còn hơn.

Lúc đầu, Hân không hiểu cái màu xanh Sĩ Lâm ấy là như thế nào. Đến khi nghe Ánh giải thích, anh mới không khỏi phì cười. Thì ra đó là loại vải phin của Trung Quốc, có màu gần giống như màu xanh dương. Có thể, vào những năm tháng xa gần nào đó, hai đứa trẻ con nhà nghèo ở những miền quê rất khác nhau, tình cờ thấy có người mặc tấm áo may bằng thứ vải viện trợ mà chúng cho là đẹp quá liền mơ ước một lần được mặc. Niềm mơ ước rất đơn sơ này, qua suốt cuộc chiến tranh còn ám ảnh họ cho đến tận bây giờ, không thể xóa nhòa đi được.

Việc Hiền và Ánh yêu nhau, thật lạ, cũng trở thành chuyện đàm tiếu của một số người, nhưng với Hân thì không. Trái lại, anh còn lấy làm mừng cho họ vì cả hai đều không còn trẻ trung gì nữa, đáng được gọi là đã nếm đủ mùi gian khổ, đáng được hưởng hạnh phúc lắm rồi. Nhưng điều làm cho Hân không thể chấp nhận được, là cái cách mà họ yêu nhau thật chẳng giống ai.

Cả Ánh và Hiền dường như lúc nào cũng tận dụng cơ hội để khoe khoang tình yêu của họ, một thứ tình yêu mà có lẽ họ cho là thánh thiện, đẹp đẽ và cao cả theo đúng tinh thần cộng sản kiểu Thép đã tôi thế đấy[16]. Nếu có gì khác, thì đó là ở chỗ lúc này cả Ánh và Hiền không còn phải chiến đấu với ai, cũng chẳng gặp khó khăn gì nữa. Trái lại, lúc nào họ cũng có đôi; nấu ăn chung, đi học cùng, đến ngồi họp cũng không rời nhau ra được.

Hân không tưởng tượng được rằng, có một lần vớ được quyển Ca dao tục ngữ Việt Nam mà anh mượn của Phương Linh, Ánh liền vồ lấy đọc. Rồi không thèm nói năng gì hết, cậu ta đã đưa nó cho Hiền. Khoảng hơn một tuần sau, Hân giận đến tím người khi nhận lại quyển sách từ tay Ánh, trong đó có nhiều chỗ bị gạch dưới, đặc biệt là câu Chữ trinh đáng giá nghìn vàng bị gạch đến ba lần! Cậu ta muốn gửi thông điệp đến người yêu lí tưởng của mình đây! Nhưng than ôi, cái ngàn vàng kia của Hiền liệu có còn hay đã được đem cho không biết bao nhiêu người từ đời tám hoánh nào rồi! Sao lại có những kẻ điên khùng đến thế? Hân bỗng thấy cả một sự ngu muội rất điển hình trong hành vi của Ánh. 

Hân buộc phải đem quyển sách ấy trả lại Phương Linh sau khi đã tìm mua quyển khác để thay thế cho cô mà không được. Giữa Mátxcơva đâu dễ tìm ra sách Việt Nam! Ở phố Gorki có một hiệu sách ngoại văn, trong đó có quầy dành cho sách tiếng Việt, bày một số ấn phẩm made in Vietnam in tipô trên giấy bổi, bìa mềm xấu như điên. Đứng cạnh các loại sách của Ba Lan, Tiệp Khắc, Cộng hòa dân chủ Đức… sách ta cứ như những bông hoa rau muống giữa rừng tuylíp. Rõ là buồn cho hiện trạng nước mình. Cái nghèo, cái kém hiện hữu từ bìa sách trở đi… Hân đành phải muối mặt xin lỗi Phương Linh và ngượng chín cả người khi hình dung ra cảnh cô gái Sài Gòn trề môi giễu cợt gã trai cổ hủ đã gạch chân những dòng chữ ấy.

Dù sao, cũng phải công nhận là Ánh hết lòng vì tình yêu thật. Theo sự phân công từ bên nhà, lẽ ra anh ta học một chuyên ngành khác, ở Mátxcơva. Nhưng không biết do bị Hiền xỏ mũi hay tự nguyện mà chưa hết năm dự bị, Ánh đã lặng lẽ lên sứ quán chạy chọt, xin được chuyển sang học ngành lưu trữ của Hiền, để có cơ hội cùng người yêu đi đến một thành phố ở phía nam. Cũng là một nét lạ ở anh chàng. Có thể đối với Ánh, cứ đàn bà là đẹp hết và đã yêu là phải chung thủy đến tận cùng. Mọi lời lẽ của Hiền đều là chân lí. Nhưng, có một điều mãi mãi không bao giờ Ánh có thể biết được, là thực ra Hiền cũng chẳng lấy gì làm thánh thiện hay đáng tin như cậu ta vẫn thường huyễn hoặc. Ấy là chuyện xảy ra vào một hôm chẳng may Hân bị cơn sốt rét còn rơi rớt lại quật ngã, phải nằm nhà. Đang lúc mơ mơ màng màng, anh thấy Hiền lặng lẽ bước vào, không gõ cửa. Cô đi thẳng đến bên giường anh, ngồi ghé xuống bên rồi mới hỏi:

– Anh ốm à?

Hân mệt quá, không muốn trả lời một tí nào mà cũng chẳng muốn ngồi dậy nhưng theo phép lịch sự cũng đành phải cố nhổm lên, dựa lưng vào tường thở phì phò. Hiền đặt tay lên trán anh một lát:

– Anh đang sốt rồi đây này.

– Ừ… Hôm nay, em không đi học à? – Hân gắng gượng hỏi cho phải phép.

– Vâng, em hơi mệt nên xin nghỉ.

Cô gái ngồi đó, mặc cho Hân mệt chết đi được và chỉ mong cô biến đi cho rảnh. Đã hai ngày nay, anh không ăn uống được gì. Mà anh và cô có thân thiết gì đâu! Chỉ biết nhau khi đã sang đến Mátxcơva, học cùng Khoa dự bị. Đến quê của cô ở đâu, Hân cũng còn không rõ nữa là. Ấy là chưa kể, ngộ nhỡ có người về, nhìn thấy Hiền ngồi trên giường anh. Sẽ thành chuyện ngay lập tức, và ông cựu trinh sát pháo binh kia sẽ nghĩ gì? Vậy mà Hiền cứ lan man hết chuyện này sang chuyện khác, từ việc học hành, nỗi nhớ nhà, mâu thuẫn giữa cô và mấy bạn gái ở cùng phòng, đến tình yêu giữa cô và Ánh… khiến cái đầu óc vốn đang mụ mị của Hân chỉ chực vỡ tung ra. Tiếc rằng anh không thể trốn đi đâu được, cũng không thể phũ phàng đuổi cô về.

Qua những lời lẽ không đầu không cuối của Hiền, Hân loáng thoáng hiểu rằng cô sinh ra trong một gia đình nghèo, nhờ đi học nước ngoài mới lần đầu tiên được biết đến một chiếc áo len do Bộ Tài chính cấp[17]. Cô chê Ánh trẻ con, tính khí thất thường; rằng cô rất thương anh và kiểu người như anh thì chỉ hợp với cô thôi. Chứ anh không thể mà cũng chẳng nên tìm hiểu bọn học sinh phổ thông làm gì. Chúng nó trẻ con lắm, lại hay nhõng nhẽo, đã biết gì về cuộc sống đâu; yêu vào có mà khổ cả một đời! Còn cái Chi ấy à, nó ghê gớm lắm chứ không phải của vừa đâu! Anh biết không, lúc nó ra quân có cả một ba lô toàn những vải vóc, đường kính và mì chính nhé! Lại còn cả đá lửa này, chỉ khâu Trung Quốc này… Em hỏi anh, những của ấy không tham ô, bớt xén thì lấy ở đâu ra? Quản lí, chả lo cơm áo gạo tiền mà, lại còn dẻo mồm nịnh nọt các thủ trưởng nữa thì việc gì chẳng xong! – Hiền nói cứ như là thật.

Không hiểu những người khác, nếu chẳng may phải nghe những lời tâm sự ấy của Hiền thì sẽ nghĩ thế nào nhưng Hân chỉ cảm thấy hơi lợm giọng. Liệu có phải do anh đang  bị sốt, ruột gan cứ như lộn tùng phèo hết lên không? Nhưng rõ ràng là Hiền vẫn đang lù lù ngồi đó, quần lụa đen, áo nữ quân nhân hai túi chéo và dáng vẻ hoàn toàn nghiêm túc, chứng tỏ rằng cô đã cân nhắc kĩ càng những điều mình nói.

Nhìn cô gái tuổi hăm lăm với nước da xám, trán dô, đôi lông mày hơi rậm và mái tóc khô xơ xác, Hân chợt nghĩ nếu ở quê, cô đã bị liệt vào loại gái già khó lấy chồng rồi. Chứ đâu còn có thể ngồi mà thuyết giảng, trắng trợn mồi chài anh như thế. Cứ làm như cô không có một gã người yêu đang lù lù bên cạnh hay sao ấy. Và quả thật, tuy biết mình thừa sức để được xếp vào loại xấu trai, nhưng Hân cũng chưa bao giờ nghĩ rằng anh có thể yêu một người như Hiền. Lại còn quá khứ làm y tá của cô ở đường dây 559… Biết là hơi khắt khe và cũng chẳng có lí do gì để đánh giá hay phán xét ai, nhưng Hân vẫn không thể nào xóa đi được những định kiến đã ăn sâu vào tiềm thức từ bao giờ chẳng rõ.

Không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua nhưng cuối cùng thì Hiền cũng đành đứng dậy, không tỏ thái độ gì rõ rệt. Hân chỉ chờ có thế liền lăn queo ra giường, trùm chăn kín đầu trong lúc toàn thân nóng ran và nhớp nháp mồ hôi. Chỉ đến khi không thể nằm thêm được nữa, buộc phải bò dậy đi tiểu, Hân mới nhìn thấy gói bánh bích quy Hiền để lại trên bàn. Quà đi thăm người ốm đây. Tận mười hai côpếch nhé! Anh lặng lẽ bỏ gói bánh ấy vào thùng rác vì nó rất khô, không thể nào ăn nổi.

Mấy hôm sau, khi đi học trở lại Hân hơi ngạc nhiên thấy Hiền tỏ ra hết sức lạnh nhạt đối với anh. Cứ như là không hề có một lần, mới cách đó vài ngày, cô đã từng than thở đủ điều và nói rằng thương anh lắm. Hân cũng không biết từ đó, Hiền âm thầm mở một chiến dịch nói xấu anh mọi lúc, mọi nơi nhằm ngăn chặn bất kì mối quan tâm nào của Hân đối với các cô gái trẻ cùng đơn vị. Điều này cũng lí giải, tại sao ánh mắt của Ánh bỗng lóe lên nghi kị khi Hân buột miệng khen một em hồi này trông xinh quá. Có lẽ trong cái đầu óc tối tăm, đầy những sự ghét ghen ganh tị của cậu ta và Hiền, hình như Hân sắp sửa tỏ tình với cô gái kia đến nơi! Vì thế, họ phải ra tay ngăn chặn. Như rất nhiều người khác vẫn làm trong hoàn cảnh tương tự là phải phá cho chúng nó không thể yêu nhau được. Hừ, già khú đế, hai mươi bảy hai mươi tám tuổi rồi lại còn định cưa một em mới mười chín hai mươi à? Đừng có mà hòng!

 

Hết năm dự bị, mọi người chia tay nhau đi các ngả. Hân thở phào nhẹ nhõm vì không còn phải ở gần Ánh và Hiền. Chỉ có điều, mấy tháng sau đôi tình nhân ấy đã dắt díu nhau lên Mátxcơva, xin Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô cho phép họ làm đám cưới. Lúc đó, bụng Hiền đã lùm lùm ba bốn tháng và theo quy định chung, lẽ ra cả hai sẽ bị kỉ luật, đuổi về nước. Người ta cho các anh các chị đi học nước ngoài là để về xây dựng Tổ quốc, kiến thiết đất nước, chứ cho đi để mà đú đởn với nhau đến ễnh cả bụng ra à!

Nhưng có lẽ vì cả Ánh và Hiền đều là đảng viên, cán bộ đi học lại “yêu đương chính đáng” nên họ được ở lại, tiếp tục học hành. Đám cưới của hai người trở thành đám cưới đầu tiên của sinh viên Việt Nam tại Liên Xô được Sứ quán ta cho phép trong thời gian ấy và ít nhiều cũng gây chấn động trong cộng đồng người Việt. Nhưng Hân chỉ thấy nó thật bẽ bàng và không hiểu họ sẽ xoay xở ra sao để nuôi con với một trăm bốn mươi rúp học bổng của hai người một tháng, trong kí túc xá vốn không dành cho trẻ sơ sinh, cũng chẳng có bà nội bà ngoại nào ở bên để trông cháu cho bố mẹ nó còn đi học!

Lâu lắm về sau Hân được biết, đến một lúc nào đó, Ánh cũng lao vào buôn bán như điên, lúc được lúc thua; cũng đua đòi ăn diện lại còn đánh vợ. Chẳng biết lúc ấy, anh ta còn nhớ gì đến thái độ của mình khi hai người mới yêu nhau. Đến khi tốt nghiệp, về nước, cả hai lại cùng công tác ở một cơ quan. Được đâu độ dăm bảy năm gì đó, Ánh dính vào chuyện đầu cơ vàng, bồ bịch lung tung rồi cuối cùng bị bắt vì tội tham ô và lừa đảo trong cơn sốt đất, chiếm dụng tiền của nhiều người.

Kết cuộc, đôi trai gái “yêu nhau vì lí tưởng” ấy phải li hôn. Hiền làm gì và sống như thế nào thì Hân không biết mà anh cũng chẳng quan tâm. Nhưng thật đáng ngạc nhiên là một hôm, anh tình cờ thấy bài viết đăng trên báo Công an nhân dân nói về thành tích của một trại giam trong quá trình giáo dục, cảm hóa người tù, với bức ảnh màu chụp Ánh. Vẫn mái tóc quen thuộc ngày nào, anh ta cười rất tươi, tự tin nhìn thẳng vào ống kính. Cánh tay áo sọc đeo băng đỏ chỉ cho người ta đọc được chữ Ự QUẢ còn chữ T ở đầu và N cuối thì bị khuất. Hẳn là Ánh đã cải tạo tốt lắm nên mới có được vinh dự đó, chứ nếu không thì sức mấy! Có lẽ khối anh bạn tù đã chết dưới tay của cái thằng Tự quản này đây! Ái chà chà! Tinh thần đảng viên vẫn được phát huy mọi lúc mọi nơi chăng? Ngay cả khi nó không còn là người của Đảng!

 

*

*          *

 

Nhân vật thứ hai ở cùng phòng với Hân là Kha, quê ở Thái Bình. Con trai một, lại có bố là liệt sĩ nên anh ta không phải đi bộ đội. Hết lớp mười, Kha được ưu tiên đi học nghề hàn điện ở mãi tận bên Trung Quốc. Nhưng sau khi về nước, không cam phận làm công nhân nên anh ta nộp đơn thi đại học như một thí sinh tự do, được điểm cao và đi học ở Liên Xô. Có lẽ nhờ quá khứ rất đáng tự hào từng xuất ngoại học nghề nên trong tất cả những câu chuyện hằng ngày, bất kể lúc nào Kha cũng đều mở đầu bằng câu “Hồi tôi còn đang học ở bên Trung Quốc…” hoặc “Ăn thua gì, ở bên Trung Quốc ấy à…”

Không ai biết được lúc Kha học tiếng Tàu ở bên Trung Quốc thì như thế nào nhưng rõ ràng là với anh ta, tiếng Nga là cả một cực hình. Chả thế mà Kha phải đánh vật với nó suốt ngày dài sang đêm thâu, mùa thu rồi mùa hạ. Trong phòng kí túc xá chật chội và nóng bức, ngoài gốc cây xà cừ ở sân trường. Dưới ánh đèn đường lúc mờ lúc tỏ… Tay cầm quyển vở nhàu nát, miệng cứ lẩm bẩm như người bị ma làm. Và trong khi Hân cùng những người khác đã ngủ rồi thì đến tận mười một mười hai giờ đêm, Kha vẫn còn hoa chân múa tay với những động từ tiếng Nga hóc búa. Nhưng kết quả mà anh ta thu được xem ra rất khiêm nhường. Thầy Việt, chủ nhiệm lớp phải gọi đùa là anh hùng Trần Kha vì lối phát âm khó nhọc, đầy mồm lưỡi, cách nói bất quy tắc và không thèm chia hoặc chia sai động từ của anh ta. Rồi sau một năm chiến đấu tận tình với ngôn ngữ xa lạ ấy, Kha được mười sáu điểm cho ba môn thi (chấm điểm mười), đủ để lên đường sang Liên Xô học tập.

Nói cho đúng ra, học ngoại ngữ có bao giờ lại dễ, nhất là với những người đã trưởng thành. Thêm vào đó là hoàn cảnh thực tế ở miền Bắc. Trong suốt nhiều năm, học sinh các cấp không được làm quen với bất kì ngoại ngữ nào khác, còn tiếng Nga và tiếng Trung chỉ dừng lại ở mức độ dường như đủ để nói Ét tơ má ma, ét tơ pá pa[18] hoặc Nỉ hảo, lảo sư hảo[19] và… chấm hết! Không thể đòi hỏi gì hơn vì việc đưa hai thứ tiếng ấy vào dạy và học ở trường phổ thông chưa được bao lâu thì cuộc chiến tranh phá hoại do Mĩ gây ra đã bùng nổ trên miền Bắc; các thầy cô và đủ loại học trò kéo nhau đi sơ tán hết. Nhiều thứ bị bỏ qua, dành thời gian cho những gì thiết thực hơn. Không ít giáo viên nam dạy một trong hai thứ tiếng này đã được gọi đi bộ đội để làm phiên dịch cho các chuyên gia quân sự của Liên Xô và Trung Quốc.

Tiếng Anh và tiếng Pháp thì đã bị loại bỏ khỏi các trường phổ thông, theo một sắc lệnh từ năm một nghìn chín trăm bốn mươi sáu. Không được dùng để giảng dạy và học tập đã đành, người ta còn gạt nó luôn ra khỏi chương trình ngoại ngữ ở tất cả các cấp học. Do đó, nếu ai muốn thì chỉ có cách thi vào Trường đại học Ngoại ngữ may ra mới thỏa mãn được nhu cầu. Bằng không, phải tìm đến các lớp buổi tối mà nhà nước không hề khuyến khích tuy cũng không ngăn cấm và hãy coi chừng, kẻo công an theo dõi: anh học để làm gì? Lại muốn đi theo địch hở? Bao nhiêu người dân miền Bắc có cần phải biết tiếng Anh tiếng Pháp gì đâu mà vẫn làm được việc đấy thôi!

Một thầy giáo cấp ba ở Nam Định, chỉ vì dám đề nghị nhà nước nên đưa tiếng Anh và Pháp vào giảng dạy trở lại ở trường phổ thông mà đã bị khép vào tội âm mưu “ôm chân thực dân đế quốc”, bị đuổi ra khỏi ngành giáo dục. Nhiều nơi khác thì chẳng ai quan tâm đến cái gọi là ngoại ngữ. Tiếng ta là quá đủ rồi! Vì thế, nên dưới chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa đã có đến mấy thế hệ cán bộ, trí thức cách mạng gần như mù hai ngoại ngữ này (trừ những người đi học ở nước ngoài). Mãi đến tận năm bảy ba, Thủ tướng chính phủ mới kí một văn bản cho phép đưa thêm cả tiếng Anh và Pháp vào trong trường phổ thông. Nhưng học như thế nào, làm sao cho có hiệu quả, thì không dễ có câu trả lời ngay được. Lại phải mất thêm vài ba mươi năm nữa…

 

Cũng giống như nhiều người khác, Hân chỉ biết đến những chữ cái tiếng Nga đầu tiên sau khi anh đã vào học ở Khoa Lưu học sinh, Trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội. Khó, nhưng không đến nỗi mãi mới rặn ra được một từ như Kha. Trái lại, anh phát âm tương đối chuẩn các từ, nguyên âm và phụ âm, cả hữu thanh và vô thanh của thứ ngôn ngữ luôn luôn biến đổi theo giống, số, thì, thức và cách, cực kì phức tạp này. Cái thứ tiếng, hễ cứ mở miệng ra là đã phải chia động từ, không được quên các loại bất quy tắc, có khi viết thế này nhưng đọc lại thế kia, các giới từ rồi lại dấu cứng dấu mềm đủ kiểu. May mà bảng chữ cái của tiếng Nga hoàn toàn riêng biệt, không giống với các ngôn ngữ khác nên không thể nào nhầm được.

Hân không hiểu tại sao trên các loại văn bản, giấy tờ, người Nga lại gọi nhau bằng họ chứ không phải tên, và cái tên của mỗi người cũng thường chỉ được dùng trong sinh hoạt hằng ngày, tùy theo cách gọi thân mật, âu yếm hay thông tục mà thay đổi. Nhưng nếu muốn bày tỏ sự kính trọng thì cứ phải lôi tên của đương sự và tên bố người ta ra mà gọi. Lạ thế! Ví dụ như họ tên đầy đủ của Lênin là Vlađimir Ilích Uljanốp. Vlađimir, con của ông Ilja (hay Ilin nhỉ?!) họ Uljanốp. Cách gọi kính trọng là Vlađimỉr Ilích, đọc liền một mạch. Tên thân mật là Vôlôđja. Còn tên âu yếm là Vôlôđenka hay gì thì… chịu!

Hân đem thắc mắc về văn hóa xưng hô ấy của người Nga chia sẻ với thầy Việt, chủ nhiệm lớp, hơn anh một tuổi. Ông thầy đẹp giai ngời ngời, không hề kinh qua đời lính một ngày nào chỉ cười cười, nửa đùa nửa thật:

– Tại người ta thích thế!

           Vào cái thời điểm ấy, Hân chưa biết rằng không lâu nữa anh sẽ được các bạn Xô viết gọi là Khanska, Khanchiska hay Khanniska vì tiếng Nga không có chữ H, và “khan” phiên âm tên của anh sang tiếng Nga có nghĩa là hãn, thống soái ngày xưa của quân Mông Cổ. Vì thế mới có bạn Nga hỏi đùa anh rằng ông là hãn thật đấy à? Còn cách gọi kính trọng, đối với người Việt Nam học tiếng Nga thì chẳng khác nào một sự đánh đố. Sau này, mất đến tận ba bốn năm trời, Hân cố gắng tập phát âm cho thật trơn tru tên và phụ danh của bà giáo chủ nhiệm lớp anh để dùng trong những khi cần mà than ôi, kết quả là vẫn không trôi chảy! Hân cũng không khỏi ngạc nhiên khi lần đầu tiên thấy một cô gái Nga cao khoảng một mét bảy mươi, bảy hai, nặng chừng tám chín mươi cân vẫn được anh bạn trai âu yếm gọi là con bồ câu nhỏ. Vậy thì con bồ câu to sẽ thế nào?!

 …Đoàn lưu học sinh trong đó có Hân sang Liên Xô bằng chuyên xa, không đón thêm hay trả khách nào ở dọc đường. Qua Mãn Châu Lí, ga cuối cùng trên đất Trung Quốc, trong khi Hân và mọi người thò hết cả đầu ra ngoài cửa sổ, háo hức trầm trồ trước thiên nhiên đất nước Nga thì Kha vẫn dửng dưng, khinh khỉnh: “Ăn thua gì!”. Cũng lạ, Hân không hiểu tại sao chỉ cách nhau đúng một cái rào chắn, mà đất với trời của Liên Xô đã hoàn toàn khác. Và cũng vừa mới nhìn thấy cái chòi gác được làm bằng gỗ, hàng cây bạch dương với những người lính biên phòng Liên Xô mặc quân phục màu cỏ úa đội mũ kêpi, đi ủng da đến gần đầu gối, là Hân đã thấy có cảm tình. Tất nhiên, anh vẫn nhớ rằng hai ông anh của Việt Nam đang ở trong tình trạng thù địch và họ đã từng đánh nhau ở cấp sư đoàn, chết rất nhiều người. Còn ngay tại đây, nơi biên giới này là những hàng rào dây thép gai chạy dài như vô tận. Dưới chân hàng rào, những dải đất nâu đen không một ngọn cỏ, chắc là đủ các loại mìn.        

Đến Mátxcơva, khi chiếc xe buýt chở mọi người từ ga về vừa dừng lại trước cửa khu kí túc xá, giữa lúc tất cả còn đang ngơ ngác trầm trồ thì Kha lại buông ra điệp khúc: “Ăn thua gì! Ở Thượng Hải ấy à, có đến hàng trăm ngôi nhà như thế này nhé”! Và trong khi mọi người bắt đầu xách đồ đạc xuống xe, để gọn vào một chỗ chờ làm thủ tục, thì anh ta đã hiên ngang tiến thẳng đến một khung cửa kính trong suốt. “Bốp”!, một tiếng động vang lên khô khốc, rõ to. Kha đập ngay cả trán vào lớp kính rất dày và gần như bật ngửa, đánh rơi chiếc va li xuống đất. Ai đó hét lên, lao tới đỡ Kha dậy thì thấy trên trán anh ta đã mọc ngay lên một cái bướu to gần bằng quả ổi. Thì ra, vị “anh hùng” không vào đúng cánh cửa, nơi có dòng chữ to màu đỏ, vkhôđ nghĩa là lối vào, mà lại đâm đầu vào bức tường kính kề bên. Và trong khi Hân còn nhìn Kha ái ngại thì Ánh đã ngoác miệng ra cười giễu cợt:

– Ồ, ăn thua gì! Ở Thượng Hải ấy à, người ta toàn đi như thế nhé!

Tất cả đều phá lên cười ầm ĩ. Riêng Kha chắc vẫn còn đau lắm, tay bưng trán, cố chữa thẹn bằng một câu ngớ ngẩn:

– Tại tôi không để ý…

– Cả ở Bắc Kinh người ta cũng vẫn đi như thế! – Ánh vẫn cười hô hố.

Được xếp ở cùng phòng với Ánh và Kha, Hân chẳng thấy hào hứng gì nhưng cũng đành chấp nhận vì được thế này đã là tốt lắm rồi. Với lại, tất cả cũng chỉ có gần một năm thôi mà. Trong thâm tâm, anh còn lấy làm kính nể cho sự chuyên cần của chàng trai quê lúa. Dường như không bao giờ Kha lại không có một quyển sách hay cái gì đó trong tay để đọc. Không hút thuốc, không rượu chè, đến cả chuyện phiếm với các bạn cùng phòng cũng không. Ăn uống cực kì đơn giản, và cũng chẳng hề để ý đến một cô nào. Họa hoằn lắm vào những khi cao hứng, anh ta mới buông lời khen các em dễ thương như con dê non. Hân cười khì khì mà cãi lại rằng “Như một con dê già thì có!”. Ngay lập tức, Kha liền im bặt. Nhưng rõ ràng là sau vụ đập mặt vào vách kính, không bao giờ anh ta còn nhắc đến Thượng Hải hay Bắc Kinh gì nữa.

Không cả đi chơi và xem phim, Kha gần như sống một mình một kiểu. Và tối tối, cứ khoảng mười, mười một giờ, khi các bạn cùng phòng không còn nhu cầu sử dụng toa lét nữa, anh ta lại chui vào đó học. Nhiều hôm phải đến bốn, năm giờ sáng, khi những chuyến tàu điện đầu tiên đã chạy ở xa tít dưới đường, Kha mới lặng lẽ lên giường. Vậy mà chỉ độ sáu rưỡi, bảy giờ anh ta đã dậy đánh răng rửa mặt và ăn sáng. Tám giờ, ra khỏi nhà để kịp vào tiết đầu tiên, lúc tám giờ bốn mươi lăm phút.

Có lẽ cũng phải nói thêm rằng, tualét trong tiếng Nga hoàn toàn không giống với khái niệm nhà vệ sinh, hố xí hay chuồng chồ trong tiếng Việt. Đã có lúc hơi lẩn thẩn, Hân tự hỏi, chẳng biết cái toilet nguyên thủy của người Nga là như thế nào, và của người châu Âu, châu Mĩ ra làm sao. Nhưng với người Việt Nam thì khác lắm. Hân không hiểu tại sao nhà tắm hay hố xí của cả dân tộc mình, đất nước mình dường như chỉ gợi nên cảm giác về một cái gì đó cực kì tạm bợ và bẩn thỉu. Chỉ rặt nhũng tranh tre nứa lá, mảnh ni lông hoặc bao tải rách, thậm chí không có cả mái che, lấp ló đâu đó bên chuồng trâu hay góc vườn, nồng nặc mùi phân và nước tiểu. Ngay cả ở các cơ quan công sở, đơn vị quân đội cũng vậy; tuy tường xây, mái ngói nhưng cũng chẳng sạch sẽ hơn gì. Hình như đấy là nơi ai cũng cần phải đến, nhưng lại ít được quan tâm nhất.

Hân vẫn chưa quên cảm giác ghê cả người mỗi khi anh buộc phải đi vệ sinh trong thời gian học tại Trường ngoại ngữ. Nằm ở ngay gần cổng chính của trường, quay lưng ra phía con đường đắp bằng xỉ than đen sì và những ruộng rau muống, khu nhà vệ sinh ấy không có nổi lấy một cánh cửa nào còn nguyên vẹn. Nước tiểu đọng váng, ngoằn ngoèo bò ra tận ngoài lối đi được bắc vài viên gạch vỡ. Ai muốn vào đó cũng phải cầm theo tờ báo cũ hay cái gì đó để che chắn trong lúc ngồi chồm hỗm mà giải quyết nỗi buồn. Khái niệm hố xí tự hoại nghĩa là dùng xong, giật nước cho trôi đi mới chỉ xuất hiện ở rất ít nơi; không phải cư dân nào của Thủ đô cũng biết. Đó là chưa kể nhiều hôm sáng ra, trong khi các sinh viên nam nữ xếp hàng chờ đến lượt mình, còn bắt gặp những người dân địa phương đi xúc phân, múc nước tiểu gánh nghễu nghện về bón ruộng, có khi làm rơi vãi cả ra đường. Ai vô ý giẫm phải thì chỉ có khóc, vì biết lấy nước ở đâu ra mà rửa!

Sang đến Liên Xô, đặc biệt là khi đã ở trong khu kí túc xá hiện đại này, Hân thật sự ngỡ ngàng khi thấy tualét là sự kết hợp giữa nhà tắm và hố xí, thậm chí còn là nơi trang điểm, gồm có bồn tắm bằng sắt tráng men, vòi sen, chậu rửa mặt, gương soi…, sạch đến không ngờ. Cái sạch sẽ ấy được duy trì nhờ những phụ nữ đứng tuổi làm lao công, ngày ngày đến lau chùi quét dọn, phun thuốc khử trùng. Các bà còn cẩn thận hướng dẫn mọi người cách giữ vệ sinh chung, rồi căn dặn phải báo ngay cho ban quản lí kí túc xá nếu thấy có rệp. Lần đầu tiên nhìn thấy tua lét trong phòng, Kha đã thốt lên:

– Có thể nằm ngủ ở trong này được!

Tất nhiên, không ai lại ngủ trong tua lét nhưng chính vì thế mà anh hùng Trần Kha mới có thể độc chiếm nơi này để học lúc đêm khuya. Thật không còn chỗ nào tốt hơn thế nữa: vừa sạch sẽ, sáng sủa lại vừa yên tĩnh, không lo ảnh hưởng đến giấc ngủ của mọi người. Tha hồ sôi kinh nấu sử! Khát thì cứ việc mở vòi nước lạnh ra mà uống. Hoàn toàn yên tâm về mặt vệ sinh, không sợ đau bụng đau bão gì và đây cũng chính là một trong những điều khác biệt so với Việt Nam, nơi không chỉ nước ao hồ tù đọng, mà ngay cả nước máy cũng không thể tin được là đã sạch.

 

Bẵng đi một thời gian rất dài không có quan hệ gì với nhau nên Hân không biết Kha ở đâu, làm gì và có cuộc sống như thế nào. Chỉ nghe phong thanh, sau khi tốt nghiệp về nước, anh ta còn quay lại Liên Xô làm nghiên cứu sinh, lấy được bằng phó tiến sĩ rồi tiến sĩ[20]. Tình cờ, gần hai mươi năm sau, khi đã trở thành một ông giáo già ở trường đại học, Hân gặp lại Kha tại phòng giảng viên của nhà trường trong giờ giải lao. Vẫn con người ấy, khuôn mặt ấy nhưng dáng vẻ thì hơi bệ vệ và tóc đã sợi đen sợi bạc. Com lê cà vạt đàng hoàng, tuy một nét nhà quê vẫn không lẫn đi đâu được là chiếc răng bằng kim loại sáng chóe một bên miệng Kha mỗi khi anh ta cười nói.

Hân cố ý không chào hỏi trước, thử xem liệu anh ta có nhận ra người quen cũ hay không. Kết quả là đang giữa câu chuyện với một người khác, bất chợt Kha quay lại và chỉ đến lúc này mới nhìn thấy Hân. Anh ta “a” lên rất ngạc nhiên rồi vỗ vỗ lên trán mình mấy cái:

– Ái chà, lâu lắm rồi không gặp! Hồi xưa, bọn mình cùng học với nhau mà…

Hai năm, Hân thầm nghĩ. Một, ở Ngoại ngữ Thanh Xuân. Một, ở Khoa dự bị Trường Lômônôxốp… Anh chủ động chìa tay ra bắt:

– Tôi tên là Hân. Ông lâu nay có khỏe không?

– Thảo nào… Biết ngay mà! Khỏe, khỏe! Ông bây giờ là giảng viên ở đây à?

Vẫn là cái giọng đầy mồm lưỡi, hơi khó nghe như những ngày đầu tiên Kha đánh vật với tiếng Nga, những xíttuđentơ, urốc, phábờrica, mư iđium vơ sờcốla[21]thật tức cười. Hân chỉ ngạc nhiên khi biết bây giờ, Kha đang là viện phó và sắp tới sẽ lên ngôi viện trưởng của một viện khoa học xã hội được xếp vào hàng danh giá nhất Việt Nam. Chà, “Thiên tài là chín mươi tám phần trăm mồ hôi và nước mắt” đây ư? Anh mỉm cười, lại nhớ những ngày còn đi học… Hay đây chỉ đơn giản là nhờ quan hệ tốt với các thầy cô cũng như nhà trường của bạn và chạy rất giỏi như nhiều người khác?

Câu chuyện giữa Hân và Kha diễn ra nhạt nhẽo, vì có gì nhiều để nói đâu! Chẳng lẽ lại nhắc đến những ngày ở Thanh Xuân, mất điện. Ban đêm, nằm ngủ mà mồ hôi của người nằm giường trên rỏ xuống cả người nằm tầng dưới. Rồi những lúc mấy anh cùng nhau góp mỗi người một hai hào mua nước phở bán ở quán ngoài cổng trường để chan cơm nguội… Có lần, Hân và Kha mua được một cái đầu ngan, chẳng biết người ta đã ninh đến bao lâu để lấy nước dùng, nhưng đem về loay hoay mãi vẫn không tài nào bổ được nó ra, lấy cái óc ở bên trong. Cuối cùng, Hân phải vác cái then cài cửa bằng sắt to tướng, đập liền mấy nhát… Hay những ngày đầu tiên ở Mátxcơva, cả bọn rủ nhau đi hái trộm táo ở vườn thí nghiệm của Trường đại học Lômônôxốp. Khổ nỗi, táo còn xanh quá, rất chua, không tài nào ăn được nên đành phải vứt đi. Bây giờ nhắc lại thì có mà ngượng chết. Tiến sĩ khoa học, cán bộ cấp cao kia mà! May sao, chuông reo, báo hết giờ nghỉ giải lao. Hai người đàn ông đứng tuổi bắt tay nhau tạm biệt. Kha trở lại với chuyên đề mà anh ta được mời đến giảng. Còn Hân thì lặng lẽ ra về vì anh đã xong công việc của mình.

 

*

*          *

 

Người cuối cùng ở cùng phòng với Hân là Vượng, học sinh phổ thông, con một ông cốp[22] đi nước ngoài như đi chợ. Có lẽ vì thế mà cậu ta luôn luôn bận rộn, lẩn như chạch suốt ngày. Lúc thì đi “gặp bố em mới sang công tác”, lúc đi nhận quà ở bên nhà mới gửi sang, lúc lại lên gặp các chú trên sứ quán… Và sau mỗi lần như thế, Vượng lại đem về những túi to trĩu nặng, để sau đó lại xách đi. Toàn là những áo phông, quần bò Thái, kính râm các loại – những mặt hàng bán đắt như tôm tươi ở các chợ đen trên toàn Liên bang Xô viết.

Có lẽ vì quá nhiều việc phải lo nên thời gian Vượng dành cho việc học hành là không đáng kể. Nhiều đêm, cậu ta ngủ lại đâu không biết rồi sáng hôm sau phóng thẳng đến trường hoặc bỏ học luôn. Được cái, các thầy các cô cũng dễ tính, hẳn vì họ quá thông cảm và ưu ái sinh viên ngoại quốc nói chung và dân Việt cộng nói riêng. Còn đối với sinh viên Liên Xô thì lại khác. Cô cậu nào học hành lơ mơ, chỉ cần bị một điểm ba thôi là chết ngay. Cả học kì tiếp theo sẽ bị cắt học bổng và như vậy cũng có nghĩa là không được cấp bằng đỏ khi tốt nghiệp.

Sẵn có nhiều tiền (hẳn là như thế rồi!), Vượng tha hồ ăn diện, chơi bời đến nỗi Hân phải ngạc nhiên, không tin nổi cậu ta mới vừa mười chín tuổi. Đặc biệt là Vượng chỉ quan hệ với các cô gái Nga hoặc châu Âu nói chung, chứ tuyệt nhiên không ngó ngàng gì đến đám con gái Việt. Cậu ta giải thích, làm như vậy để tránh những rắc rối phiền hà, khỏi lo chuyện chẳng may các cô lại có thai hoặc bắt phải cưới… Có thể đây chính là bài học kinh nghiệm mà Vượng thừa hưởng được từ người cha đầy quyền uy, từng tốt nghiệp đại học ở đây mười mấy năm về trước? Chỉ rất lạ, với tầm vóc bé nhỏ gày gò so với người châu Âu nói chung, Vượng vẫn có một sức hút lạ thường nào đó khiến nhiều cô gái không cùng nòi giống vẫn phải chết mê chết mệt, tuy chẳng cô nào gắn bó được đến vài ba tháng với anh chàng Việt Nam loẻo khoẻo. Không phải các cô chán Vượng đâu, mà ngược lại. Bằng chứng là có cô rất xinh đẹp hẳn hoi, xa cậu ta rồi còn biên thư, gửi ảnh và quà tặng.

Tuy không phải là kẻ trống mồm trống miệng nhưng đôi lúc cao hứng lên, Vượng cũng khoe khoang với Hân chiến tích cảu cậu ta. Chẳng hạn như có lần, Vượng rủ được hai cô người Hunggari vào khách sạn cùng một lúc. Nửa đêm, cậu ta làm tình với một cô. Ba bốn giờ sáng lại leo lên bụng cô nằm ở giường bên cạnh. Không những thế, Vượng còn cho Hân xem những tấm ảnh cậu ta chụp một cô gái Nga từng học trung cấp múa ba lê. Cô gái khỏa thân, đúng là đẹp thật, làm cho Hân phải sững sờ. Có thể thấy, với sở thích hơi bệnh hoạn, Vượng bắt cô đứng dạng chân để cậu ta nằm ngửa dưới sàn nhà, chụp hất ngược lên. Chùm đèn trên trần đã nói lên điều đó và bức ảnh sắc nét đến từng chi tiết! Nhưng điều đáng ghê tởm nhất ở Vượng lại là chẳng biết vì lí do gì, hơn một lần cậu ta dùng từ “lũ lợn Nga” để chỉ những công dân của Liên bang Xô viết. Cái cụm từ tỏ ý khinh bỉ mà ngày xưa, chỉ có bọn phát xít Hítle mới dám dùng. Cứ như thể cậu ta thuộc vào một chủng tộc nào đó cao quý lắm chứ không phải là kẻ đang tá túc ở nước Nga, ăn bám người Nga và vục mặt vào gấu váy của các cô gái Liên Xô hay sao ấy!

Không chỉ tỏ ra là một bậc thầy trong chuyện gái trai, Vượng còn biết đến cả thú vui thư giãn ở nhà tắm hơi và massage của người Nga, cái mà phải hàng chục năm sau ở Việt Nam mới có. Do lối sống vô tư, “học tiếng Nga trên bụng gái Nga” cộng thêm một chút năng khiếu trời cho, nên Vượng nói năng rất giỏi, với vốn từ cũng vào loại siêu phàm. Hơn thế nữa, cậu ta còn biết đủ loại tiếng lóng, nói tục chửi bậy, thành ngữ tiếng Nga; có thể cãi nhau tay đôi với các bà già lắm điều bán hàng ở chợ nông trường[23] hoặc những gã lưu manh đầu đường góc phố. Các bạn Xô viết thường dùng đúng một từ “Tuyệt vời!” với ngón tay cái giơ lên và khẳng định, chưa bao giờ họ thấy một người Việt Nam nào học ở trường này lại giỏi tiếng Nga đến thế, mặc dù kết quả học tập của Vượng chỉ luôn luôn dừng lại ở mức trung bình.

Đến năm thứ ba, không ai ngờ Vượng lại chết ở vũng lầy. Cô bạn người Nga của cậu ta có thai. Cái anh chàng Đông Gioăng Việt Nam thời hiện đại không bỏ rơi cô nàng thì chớ, trái lại còn tỏ ra săn sóc từng li từng tí, nhưng chẳng biết tại sao đứa trẻ cứ ốm đau, quặt quẹo luôn. Đến tháng thứ tám hay chín gì đó, sự kết tinh của hai dòng máu xa lạ ấy lìa bỏ cõi trần. Vượng như già sọm hẳn đi, râu ria tua tủa, khác hẳn phong thái thường ngày. Cuối cùng, cậu ta và cô gái người Nga ấy cũng chia tay, và phải đến tận tám chín năm sau khi du học tại Mátxcơva, Vượng mới rời Liên Xô về nước, sau khi đã không còn cách nào để ở lại lâu hơn được nữa.

Chẳng bị kỉ luật hay nhắc nhở gì, Vượng nhanh chóng có được việc làm tử tế, cưới vợ là con của một ông to. Họ sinh được một đứa con trai, rồi chuyển vào sống ở Sài Gòn. Khoảng hơn chục năm sau, một buổi tối ngồi xem chương trình thời sự trên truyền hình, Hân ngỡ ngàng thấy Vượng to béo và bệ vệ đang nói gì đó tại diễn đàn Quốc hội với cánh tay giơ lên chém xuống rất hùng hồn và đậm tác phong lãnh đạo. Như thể khẳng định một điều gì đó. Con người ta có số phận thật chăng?

 

*

*          *

 

Trong hoàn cảnh như thế, Phương Linh chỉ còn biết nói chuyện với Hân, người duy nhất trong phòng có thể sẵn sàng lắng nghe cô bất cứ lúc nào và trao đổi về đủ loại đề tài. Từ các tác phẩm của Víchto Huygô đến Mikhain Sôlôkhốp, Xtêphan Xvaigơ, Anna Zêgớc hoặc O’ Henri…, tranh của Lêôna đờ Vanh xi, Vangốc và Gôganh, Picátxô; Lêvitan và Siskin, Rêpin…, âm nhạc của Béttôven, Sôstacôvích rồi Đanuýp xanh của St’raus… Từ Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố đến Vũ Trọng Phụng, Nam Cao…, chuyện về nhóm Nhân văn – Giai phẩm và những thứ linh tinh khác.

Tất nhiên, sự biết ấy của Hân có được là do anh đã đọc hoặc nghe nói đến. Hơn rất nhiều người khác chẳng biết gì. Như Ái, như Kha hay Hiền… chẳng hạn. Cô gái miền Nam không hiểu, một thanh niên hai mươi bảy tuổi đời, ba năm làm công nhân, sáu năm bộ đội lại vào sống ra chết ở chiến trường thì lấy đâu thời gian cho việc học và việc đọc. Nhưng Phương Linh thấy Hân không hấp dẫn một chút nào. Có lẽ vì ở anh thiếu đi một cái gì đó thật sù sì nam tính nên dễ nhòe lẫn vào với bao nhiêu người khác. Nhưng trong lúc cô có thể yên tâm chia sẻ cùng Hân nhiều thứ thì ngược lại, anh không đến phòng cô để tán chuyện bao giờ.

Tại sao Hân không lên chỗ Phương Linh? Anh ngại. Ngại vì nỗi biết cô sống cùng một bạn gái người Nga, tự nhiên có một gã Việt Nam xuất hiện có thể gây bất tiện, mà anh cũng không muốn vào phòng của những người khác giới. Thêm vào đó, Hân không biết Phương Linh ở nhà vào lúc nào, vì lịch học của cô khác với anh. Lại nữa, người yêu của cô sờ sờ ra đấy… Hân sợ những chuyện hiểu lầm và đồn đại mà dân mình rất giỏi. Mặt khác, anh cũng hơi dè chừng trước tác phong và lối sống của các cô gái miền Nam. 

Sau khi bị thương, được chuyển về tuyến sau công tác ở một đơn vị tham mưu, đã có lần Hân bị rơi vào một tình huống thật tức cười. Cô văn thư của cơ quan, quê ở đâu miệt Đồng Tháp hay Bến Tre gì đó đi tắm. Nhà tắm nữ, nếu có thể gọi được như thế nằm ở một góc rừng, không có mái che và cũng chẳng còn lành lặn nữa.

Không hiểu tại sao hôm ấy mọi người lại biến đi đâu hết và đúng vào lúc Hân đi ngang qua chỗ đó, bỗng anh nghe thấy giọng con gái rất dễ thương cuống quýt vọng ra:

– Anh Hân, anh Hân, lại đây cho em nhờ chút!

Hân ngạc nhiên, không hiểu một cô gái đang tắm thì có thể nhờ mình việc gì. Nhưng trong lúc anh còn đang ngơ ngác không biết tính sao thì cô đã lại giục thêm lần nữa:

– Anh lấy giùm em chiếc áo phơi ngoài dây kia. Chiếc này bị rớt, ướt hết rồi… Anh!

Xung quanh hoàn toàn vắng vẻ nhưng Hân biết, anh đang đỏ lựng cả mặt lên vì khó xử. Chưa bao gờ anh động đến quần áo của một người khác giới. Lại còn nỗi lo bị người ta bắt gặp. Biết giải thích thế nào? Giọng cô gái lại vang lên, lần này như đã có pha thêm nước mắt:

– Lẹ lên, anh! Em đứng trong này lâu quá trời rồi!

Hân tặc lưỡi, nhắm mắt nhắm mũi làm theo yêu cầu của cô. May sao, bên cạnh dây phơi có một cái sào tre. Anh liền ngoắc chiếc áo của cô lên đầu cây sào rồi đẩy nó về phía bên trên nhà tắm. Thời gian như đọng lại, và Hân có cảm giác như chết đứng khi nhìn thấy gương mặt của cô gái với cánh tay nõn nà vươn lên, đón lấy chiếc áo. Thấp thoáng qua những chỗ rách của ni lông là những mảng da thịt trắng ngần đang chuyển động như khiêu khích, như mời gọi…

Hân không biết cái gì sẽ xảy ra nếu anh bước vào trong nhà tắm hoặc đơn giản hơn, là đưa áo cho cô qua cánh cửa được che chắn sơ sài. Nhưng đúng là phải khó khăn lắm anh mới rời khỏi được chỗ ấy với một phần cơ thể bỗng cứng đơ và cái đầu như bốc lửa, cổ họng thì khô không khốc.

Chuyện chẳng có gì, thế mà không hiểu tại sao mọi người cũng biết và đem ra bàn tán, trêu cợt Hân đến cả tháng trời. Người thì chê là Hân ngu quá, mỡ đã kề miệng mèo mà lại không ăn, thật uổng. Người lại bảo, thế là khôn chứ ngu gì. Léng phéng, nó lại túm ngay lấy rồi bắt phải cưới thì có sống cũng khác gì đã chết, rồi làm sao mà ra ngoài Bắc được. Người khác thì chỉ cười nhạt, cho rằng Hân thế là may đấy. Nhưng tất cả đều giống nhau ở chỗ cùng tra khảo Hân: “Mày đã nhìn thấy cái gì của nó chưa?” và cho dù Hân nói thế nào, dường như cũng chẳng ai tin lời anh hết. Hân cũng không biết là sau vụ ấy, cô gái kia đã có lần buông sau lưng anh một câu gọn lỏn: “Đồ cù lần!”. Nghĩa là hâm, theo cách nói của người miền Bắc.

Sau này nhớ lại, Hân không hiểu tại sao mình lại có hành động như thế. Ham muốn thì ai chẳng giống ai, vậy mà trong rừng toàn một lũ đàn ông. Có khi hàng tháng trời không nhìn thấy bóng dáng đàn bà. Ở những cơ quan hậu cần hoặc quân y thì có đấy, nhưng rất ít. Một số người là vợ của các thủ trưởng gốc miền Nam. Gái trẻ lại càng hiếm hơn và xung quanh các cô lúc nào cũng có biết bao nhiêu người săn đón; cánh lính tráng như Hân làm sao mà đến lượt!

Thiếu thốn quá, dù chỉ là một giọng nói tiếng cười của những người khác giới nên đám trai trẻ như Hân lúc nào cũng thèm khát ước ao, mỗi thằng một kiểu, có lúc gần như hóa rồ. Nhìn thấy quần áo của những người khác giới phơi trên dây đã xốn xang trong dạ. Không ít anh còn rình mò lúc chị em đi tắm. Có anh bị bắt quả tang và đem ra kiểm điểm. Nhiều anh khác đành phải lén lút tìm cách tự giải tỏa cho mình…

Theo Hân nghĩ, con gái miền Nam thường yêu một cách nồng nàn, thậm chí hơi dữ dội. Vậy mà không ít cô lại thích những anh “bộ đội Bắc kì”, có lẽ vì tính cách của họ dễ thương chăng? Nhiều trường hợp, các cô đã chủ động yêu và lấy chồng là dân miền Bắc cho bằng được. Từng xảy ra chuyện, khi trung đoàn của Hân xuống Long An. Một số đơn vị phải phân tán ở nhà dân trong lúc chuẩn bị vào trận đánh. Chẳng biết thế nào, một chàng thư sinh Hà Nội lại lòng thòng được ngay với một cô du kích địa phương vừa già vừa xấu. Xong chiến dịch, lúc đơn vị sửa soạn rút về, cô gái liền chủ động lên báo cáo với ban chỉ huy của anh này về quan hệ giữa hai người. Một cuộc họp nhanh chóng diễn ra. Anh chàng nọ không cãi được lấy một câu. Đến khi quan tòa hỏi, đồng chí tính thế nào bây giờ, thì anh ta vừa khóc hu hu vừa nói: “Thôi thì đành phải cưới vậy chứ còn biết làm thế nào”!

Đám cưới được tổ chức ngay sau đó và nhờ thế mà chú rể thoát khỏi án kỉ luật bị giáng xuống làm lính thường, mặc dù lúc ấy anh ta mới chỉ là trung đội phó. Chẳng biết có phải vì cái vụ ấy hay không, nhưng sau đó anh chàng đánh đấm rất hăng, được kết nạp Đảng, được thưởng Huân chương chiến công, nhanh chóng vượt cấp lên đại đội trưởng rồi tiểu đoàn phó, được bồi dưỡng để trở thành anh hùng.

Nhưng cuộc đời, ai mà biết trước được sẽ ra sao. Ở chiến trường, điều ấy lại càng rất vô thường. Sự thăng tiến của anh ta đột nhiên chấm dứt vì một lí do lãng xẹt. Một buổi trưa ở hậu cứ, ông tiểu đoàn phó đang lúi húi chăm mấy con gà (vì mong muốn cải thiện bữa ăn cho vợ) thì bị trúng một quả đạn pháo mà nhiều người gọi là pháo đĩ. Có tên gọi như thế vì cũng như Mĩ, các đơn vị quân đội Sài Gòn thường có gái điếm đến phục vụ. Cao hứng lên, các cô xin những người lính Cộng hòa cho bắn thử một phát. Ồ, súng Mĩ, đạn Mĩ thiếu gì lại đang ở vùng chiến sự! Huống hồ, có biết bao nhiêu là khu vực được tự do oanh kích. Các anh lính chiều ngay. Thế là “oành”! một cái. Gã trai Hà Nội chết mà không kịp chứng kiến sự ra đời của đứa con, lúc đó mới đang tượng hình trong bụng của người vợ hơn anh ta mấy tuổi.

Nghe chuyện ấy, Hân chỉ thấy có một cái gì đó thật ngậm ngùi. Lại nhớ đến lời than thở của anh ta khi còn sống: “Chỉ tại mấy cái hôm nằm hầm bí mật thôi, không thì làm sao nên nỗi”! Tại mấy cái hôm nằm hầm bí mật, vì cô du kích kia chịu trách nhiệm cơm nước cho chàng, rồi nhiều lúc mắc kẹt luôn dưới đó. Hầm thì chật, làm sao tránh khỏi va chạm cọ xát vào nhau và kiểu gì, cô cũng vẫn là người khác giới; nào vú, nào đùi, tóc tai vướng vít… Hơn nữa, khi người phụ nữ đã đóng vai trò chủ động thì cánh đàn ông có mà chạy đằng trời! Tuy vậy, Hân nghĩ anh này vẫn còn may mắn chán, vì dù sao cũng biết mùi đời, rồi ra sẽ có một đứa con. Còn hơn biết bao nhiêu người khác đến lúc chết đi vẫn không kịp biết đến một nụ hôn chứ đừng nói gì đến cơ thể đàn bà.

Một lần khác, Hân đi công tác lẻ. Trưa nắng, đường xa miệng khát, anh tạt vào một nhà dân ở ven đường xin nước uống. Đó là lúc Hiệp định Paris đã được kí kết, đôi bên tạm ngưng cuộc chiến, nên người dân từ khắp nơi kéo về dựng nhà, lập ấp bên các trục đường. Tuy chỉ là tranh tre nứa lá, vườn tược trống trơn, nhưng dấu hiệu của một cuộc sống mới thì hiện rõ qua từng nụ cười, gương mặt và cả những rẫy khoai mì[24] đang lên xanh tốt.

Đôi vợ chồng chủ nhà khoảng trên dưới ba mươi đon đả rót nước mời Hân rồi chỉ cho anh chỗ mắc võng ngoài hiên mà nghỉ tạm. Họ lui vào buồng trong, nhưng thật ra cũng chỉ cách mấy bước chân, được ngăn cách với bên ngoài bằng những tấm phên tre rất sơ sài. Và đúng vào lúc Hân vừa mới chợp mắt thì bỗng nghe thấy tiếng cười rúc rích của đôi vợ chồng nọ vọng ra. Có lẽ anh chồng đang gạ gẫm vợ, muốn làm một cái, còn cô vợ thì tỏ ý ngại ngần vì có chú bộ đội nằm kia. Anh chồng liền đứng dậy ghé mắt nhòm qua kẽ liếp rồi khẽ thì thào nhưng chẳng biết tại sao vẫn đủ cho Hân nghe thấy:

– Nó ngủ rồi!

Hân suýt nữa phát phì cười, may mà còn kịp nén lại được. Đúng vào lúc mình vừa nhắm mắt! Liền đó anh nghe thấy tiếng hôn hít, tiếng chiếc giường tre cọt kẹt liên hồi như thể nó sắp sửa sụm xuống đến nơi và tiếng cô vợ thít lên sung sướng. Máu trong người Hân như dồn hết cả lên đầu trong khi trí tưởng tượng của anh bỗng nhiên có cớ để mà làm việc. Có vẻ như cuộc giao hoan của đôi vợ chồng đã lên đến cao trào. Và… bỗng rầm một tiếng, cái giường tre sập xuống thật cùng với tiếng kêu “ối” lên của người phụ nữ.

Hân ngao ngán tháo vội cái võng, nhét đại vào ba lô rồi đi thẳng, không cả chào tạm biệt trong khi vợ chồng nhà ấy phá lên cười như nắc nẻ. Những tiếng cười giòn tan bật ra một cách rất hồn nhiên, cứ như là mọi sự chẳng liên quan gì đến họ mà chỉ đơn giản là do một tình huống bất ngờ từ trên trời rơi xuống.

 

             Hai

 

Qua những câu chuyện rời rạc của Phương Linh, Hân hình dung ra được phần nào tình yêu giữa cô và Cường khi hai người học chung một lớp tiếng Nga ở Trường Ngoại ngữ.  Đó là lúc Đảng và nhà nước rất quan tâm đến công tác đào tạo cán bộ nguồn cho miền Nam nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Phương Linh và một số bạn cùng trang lứa có hoàn cảnh như cô được chọn, đưa ra miền Bắc bồi dưỡng văn hóa để đi học ở nước ngoài. Lúc này Phương Linh đã sang tuổi hai mươi hai. Cường, cũng giống như nhiều thanh niên vừa tốt nghiệp cấp ba, mới mười tám. Vì thế, lúc đầu cậu vẫn gọi Phương Linh là chị, xưng em giống như các sinh viên khác. Nhưng rồi chẳng biết tự bao giờ, Cường lặng lẽ chuyển tông, gọi Phương Linh bằng tên không và tự xưng tên mình thay vì sử dụng đại từ nhân xưng “tôi” hay gì đó.

Thấy Cường thay đổi như thế, lúc đầu Linh chỉ lấy làm lạ chứ cũng không để ý gì. “Ơ, cái ông nhóc này”… Nói cho ngay, Linh cũng thấy hơi ngạc nhiên một chút, vì khoảng cách hơn kém nhau đến tận bốn tuổi giữa một cô gái và chàng trai đâu phải ít ỏi gì. Mặt khác, Linh từ trong rừng ra, còn Cường là một cậu ấm Hà thành vốn chỉ quen mài quần trên ghế nhà trường. Nhưng rồi với kinh nghiệm của một người con gái đã trưởng thành, Linh mơ hồ cảm thấy có một cái gì đó sẽ xảy ra trong quan hệ của cô đối với Cường, mặc dù theo chiều hướng như thế nào thì chưa biết. Tuy nhiên, tình yêu lại chính là cái mà Linh không nghĩ tới. Bởi vì cô đã từng có mối tình đầu khi mới mười sáu tuổi, trước khi ra “cứ” và mối tình thứ hai, với một cán bộ dân chính[25] đẹp trai, hát hay, đàn giỏi.

Bất kể hương vị của hai mối tình ấy thơ mộng hay nồng nàn thế nào, thì chúng vẫn cứ đem lại cho Linh cảm giác của một người từng trải, với những rung động từ khóe mắt làn môi đến những cái ôm ghì và nụ hôn cháy bỏng. Nhưng cả hai mối tình ấy, tiếc thay, đều bị đứt ngang. Một, là do ba của Linh từ trên R nhờ người móc nối, đưa cả hai mẹ con cô lên cứ. Linh chỉ có được hơn một tiếng đồng hồ để thu xếp lên đường. Đến nỗi không làm cách nào từ biệt được người bạn trai học trên cô một lớp; ngay cả viết một mẩu giấy cũng không. Đó là chuyện xảy ra sau đợt hai Mậu Thân, năm sáu tám. Sau giải phóng, khi Phương Linh cùng gia đình trở lại Sài Gòn, cô mới hay tin chàng trai ấy đã vượt biên, không biết sống chết thế nào vì ba của anh được xếp vào loại kẻ thù của cách mạng, ở lại chắc khó mà sống nổi. Còn mối tình thứ hai của cô thì đau xót hơn nhiều.

Chẳng biết do điều kiện sống kham khổ, thiếu thốn hay thế nào mà vào năm thứ ba ở rừng, Linh bị liệt hai chân. Lúc đầu, chỉ thấy tê tê rần rần như có kiến bò. Sau đó, vào một buổi sáng khi cô vừa thức dậy, từ trên võng bước xuống thì té ngã. Mẹ Linh và những người khác hốt hoảng đưa cô sang bệnh xá điều trị đúng lúc bọn địch mở cuộc càn vào khu căn cứ. Mọi người vừa phải tìm cách đánh trả, vừa lui dần sang phía Campuchia. Cô gái mười chín tuổi là Linh khi đó đành cắn răng nuốt nước mắt để mấy chị cùng cơ quan dìu đi. Ngoái lại phía sau, còn thấy người yêu cô cũng xách khẩu AK như một người lính bất kì nào khác. Và hình ảnh cuối cùng của anh mà cô lưu giữ được trong trí nhớ là một thanh niên gày gò mảnh khảnh, cổ quấn tấm vải dù vừa ôm súng chạy theo đồng đội vừa sửa lại cặp kính cận trên sống mũi.

Hơn một tháng sau, khi tình hình đã yên ổn trở lại và do bị gạn hỏi quá nhiều, mấy chị cùng cơ quan mới cho Phương Linh biết, người yêu của cô đã hi sinh như thế nào. Một trái bom nổ rất gần đã hất anh bay tung lên khỏi mặt đất rồi đập xuống thân cây bị đổ ngang. Phải mấy ngày sau khi địch rút, người ta mới quay lại chôn cất được. Thân thể anh nát bươm, bị thú rừng ăn nham nhở và đang phân hủy, cặp kính cận cũng bay đi đâu mất. Nhưng đôi mắt của anh, bị kiến bu đầy vẫn mở trừng trừng, không làm cách nào cho nó nhắm lại được. Những người làm nhiệm vụ đành phải tháo tấm vải dù trên cổ anh, phủ lên mặt trước lúc đem chôn. Ai đó kiếm được chiếc lọ pênêxilin cũ, đã ghi tên tuổi, quê quán và đơn vị của anh rồi nhét vào ngực áo người đã chết. Nghe đến đó, Phương Linh bỗng lăn ra ngất xỉu.

 

Đến một lúc nào đó, Phương Linh được Cường mời chụp ảnh. Lúc này, tuy chỉ là dân nghiệp dư và chưa biết sẽ theo học ngành gì ở Liên bang Xô viết nhưng Cường cũng đã có một chiếc máy ảnh hiệu Pentax đủ để cho người khác phát thèm. Có cô gái nào lại không thích được chụp ảnh chứ, nhất là khi cô gái ấy tự biết mình cũng vào loại xinh đẹp. Với Linh, còn hơn thế nữa: cô đã từng là nhân vật trong tác phẩm khá nổi tiếng của một nhà nhiếp ảnh Quân giải phóng, được giải thưởng và giới thiệu trên các báo và tạp chí, có mặt cả trong một số triển lãm trong nước cũng như quốc tế.

Về bức ảnh nổi tiếng ấy, Linh không khỏi mỉm cười mỗi khi nhớ lại. Các cơ quan ở R vốn dĩ đóng rất gần nhau; tối tối các anh có thể đứng ở lán bên này gọi sang bên kia rủ nhau uống trà hoặc chia thịt khi đi săn được con thú nào đó. Còn các chị, các cô thì có thể “tám” đủ các loại chuyện trên đời. Trong khung cảnh ấy, một buổi chiều, nhà nhiếp ảnh nọ rủ mấy chị em ở cơ quan ra chụp ảnh. Đâu có đèn flash hay tấm phản quang phản kiếc gì! Bấm được vài kiểu, bỗng nhiên ông chợt nhớ ra:

– Trời, không có súng thì chụp cái nỗi gì!

Mấy khẩu cạc bin, AR 15 và CKC được đem ra, khoác lên vai các cô người mẫu. “Làm như vầy cho nó giống quân du kích!” – nhà nhiếp ảnh kia giảng giải. Tấm hình được in ra, rất đẹp. Bốn cô gái (chỉ đơn giản là các cô kị chụp ba), mỗi cô một vẻ, người đội mũ tai bèo, người mái tóc dài tha thướt, cổ quấn khăn rằn đang cười rất tươi. Phía sau họ là rừng cây với ánh nắng xiên xiên như dát vàng, tạo thành những vệt sáng ven trên gương mặt, trên mũ và mái tóc của các cô. Sau đó, bức ảnh được đăng báo với lời chú thích khá dài dòng: “Nữ du kích miền Đông Nam bộ đang trao đổi kinh nghiệm sau một trận đánh”. Cả mấy chị em chuyền tay nhau tờ báo và phá lên cười. Riêng Phương Linh, cô gái trẻ nhất và có tầm vóc khiêm tốn nhất trong số đó thì rút ra kết luận: Nghệ thuật là như thế đấy!

Sau mỗi lần chụp ảnh, Phương Linh lại được Cường mời đi chơi, ăn kem Tràng Tiền hoặc Thủy Tạ (đúng ra phải gọi là Thủy Tọa) và xem phim. Lúc này, Hà Nội chưa hề có nổi lấy một chiếc xe máy nào của Nhật. Miền Nam còn chưa được giải phóng; cả miền Bắc vẫn đi bộ và xe đạp. Tuy vậy, nhờ thân thế của người cha, Cường vẫn có được chiếc mobyllete để chở Phương Linh, không đến nỗi phải gò lưng đạp xe đèo bạn gái, lưng áo ướt đẫm mồ hôi nhưng vẫn phải cười. Rồi đến những động chạm đầu tiên có vẻ vô tình và ánh nhìn khác lạ của Cường khiến Phương Linh thích thú và bối rối…

Đúng như dự cảm của Phương Linh, trong buổi xem phim Người cá của Liên Xô chiếu ở rạp Công Nhân, đến cảnh đêm ánh sáng từ màn ảnh yếu đi, Cường đã lần tìm bàn tay cô, nắm chặt. Linh định rút tay mình ra nhưng không được vì cậu bé dứt khoát không rời. Cô gái bỗng trở nên hồi hộp, trống ngực đánh thình thình đến nỗi không còn xem phim được nữa. Sau đó là nụ hôn đầu tiên và lời tỏ tình của Cường đối với Linh, hay nói cho đúng hơn là câu hỏi bất ngờ:

– Linh có yêu Cường không?

Không hiểu tại sao lúc ấy Phương Linh chỉ muốn phá lên cười, nhưng cô buột miệng, đáp lại như cái máy:

– Yêu!

Rồi cô bỗng giật mình như muốn kêu lên: “Trời, sao lại thế này?”. Quả thật, chưa bao giờ Phương Linh lại nghĩ mình sẽ yêu một người miền Bắc. Không phải là sự kì thị bắc nam hay địa phương chủ nghĩa gì, chỉ đơn giản là cô không nghĩ đến thôi. Nhưng với một số bạn bè của Phương Linh thì khác. Có người đã nói thẳng ra rằng, với dân Bắc kì ấy à, tao thì tao đánh dấu thập!

Đánh dấu thập ư? Sao lại thế? Một sự phủ định thật phũ phàng. Nhưng vì lí do gì? Dựa vào đâu mà các cô tự cho mình cái quyền được coi thường người khác? Các cô nghĩ mình thuộc về một đẳng cấp khác chăng? Các cô có biết, những người dân miền Bắc đã chịu đựng gian khổ, hi sinh như thế nào không? Mà sự hi sinh gian khổ ấy là để làm gì? Nỗi tự ái như một người bị xúc phạm khiến Hân chỉ muốn hỏi những cô gái chưa từng gặp kia ngay những câu như thế.

Chuyện yêu đương của Phương Linh nhanh chóng lan ra khắp trường và trở thành đề tài bàn tán của nhiều người. Mới đầu, kể cũng hơi mắc cỡ khi đi tới đâu cũng bắt gặp những cái nhìn đầy vẻ hiếu kì và những lời lẽ xì xào. Sau đó là cảm giác bực mình. Cuối cùng, Phương Linh bất chấp, cho qua hết. Sao lại có người kì vậy chớ! Ừ thì tôi yêu người nhỏ tuổi hơn mình đấy thì đã sao?  Có luật nào cấm người ta không được yêu như thế không? Tại sao người con trai có thể yêu những cô gái trẻ hơn mình bao nhiêu tuổi cũng được, còn con gái thì không? Mà Cường chỉ kém tôi bốn tuổi! Chuyện riêng tư của người ta, can cớ gì các người phải xía vô!

Từ đó, cứ buổi chiều thứ bảy, học xong Phương Linh lại thản nhiên quặp hai chân ngồi lên phía sau chiếc mobyllete của Cường, đi chơi đến tận đêm khuya mới về. Cái kiểu ngồi khiến nhiều nữ sinh trong trường lộn ruột, vì họ chỉ quen ngồi vắt chân sang một bên. Phương Linh học vẫn giỏi và cuối khóa, thi tiếng Nga được hai mươi tám điểm cho ba môn nghe ghi, nói và viết. Trong khi đó, có những cô chẳng yêu ai hoặc không được ai yêu chỉ dừng ở ngưỡng mười chín, hai mươi điểm.

Sau này, mỗi khi nghĩ lại Phương Linh vẫn không hiểu tại sao lúc đó mình lại có thể yêu đương một cách đắm say đến thế. Như quên cả đất và trời đi vậy. Quên cả nỗi chiến tranh còn chưa kết thúc và nhiệm vụ của cô là phải học cho thật giỏi để sau này còn trở về xây dựng quê hương, như lời mấy ông tuyên huấn vẫn thường dạy dỗ. Lạ lùng thay, người đốt lên ngọn lửa đam mê dữ dội trong Phương Linh lại là một gã trai Hà Nội vừa mới tới tuổi trưởng thành. Cậu ta làm lu mờ luôn cả những mối tình ngắn ngủi trước đó của cô. Đến độ, Phương Linh còn đâm ra hoài nghi kí ức của chính mình: chẳng lẽ nó, những gì đã xảy ra trong cuộc đời cô khi ở Sài Gòn cũng như lúc đã lên rừng, lại có thể gọi là tình yêu đích thực hay sao?

Nhưng thiên đường thật sự trong tình yêu giữa Phương Linh và Cường lại là Mátxcơva, khu kí túc xá dành cho sinh viên quốc tế. Bởi vì ở nơi đây, điều kiện sống đã hoàn toàn khác. Không có cha mẹ, anh em hay người thân nào quản lí, nhắc nhở gì. Càng không có người nhòm ngó hay theo dõi. Hết sức tự do. Mà Mátxcơva thì rộng mênh mông, đi đâu cũng gặp vườn hoa, chỗ nào cũng có thể là nơi tình tự tuyệt đối an toàn. Chỉ cần đóng cửa lại là đã có ngay một thế giới riêng rồi…

 

*

*          *

 

Tuy đã lên kế hoạch hẳn hoi nhưng sau khi vào đến Sài Gòn, Hân vẫn chưa liên hệ được ngay với Phương Linh. Bởi vì ngoài cái địa chỉ của gia đình chị ở quận I, anh chẳng có gì khác. Chỉ biết Linh, sau cuộc hôn nhân ngắn ngủi với người chồng đầu tiên đã đi bước nữa với một người thuộc vào hàng danh gia vọng tộc ở Sài Gòn, sinh đươc một đứa con trai và hiện nay là trưởng phòng tiếng Anh của một nhà xuất bản. May sao trong lớp tại chức mà Hân vào giảng lần này, có người làm việc cùng một chỗ với Phương Linh. Không chỉ cung cấp số máy điện thoại của chị ở cơ quan (vì anh ta không có số nào khác), học viên này còn cho Hân biết, Phương Linh thường làm việc đến tận bảy, tám giờ tối mới về.

Như một thông lệ, ngay sau ngày học đầu tiên, lớp đã có nhã ý mời thầy Hân đi ăn tối. Thầy, sau khi từ chối không được đành phải ngồi lên xe của anh lớp trưởng, đến quán Nhớ nổi tiếng Sài Gòn. Chao ôi là những bữa trưa bữa tối mà các lớp tại chức ở khắp mọi miền đất nước chiêu đãi các thầy cô! Đã có lúc Hân cứ băn khoăn tự hỏi liệu có nước nào trên thế giới có tình trạng này không. Chứ ở Việt Nam, nhiều khi anh phát sợ những tiếp đón kiểu này và cầu mong giá như đừng ai mời mọc thầy cô gì hết! Bởi vì đằng sau những chén tạc chén thù ấy, có biết bao nhiêu điều tế nhị. Tốt, mà trường hợp này rất ít, thì xuất phát từ việc người ta thông cảm với các thầy cô trong lúc xa nhà, hoặc để làm quen. Nhưng thường gặp hơn, lại là một cách lấy lòng hoặc mua chuộc để thầy cô khỏi gây khó dễ cho học viên khi thi cử.

Đã có lần Hân choáng váng vì sau khi được mấy nữ học viên mời ăn trưa, một cô ghé tai anh nói nhỏ: “Thầy phải cho em điểm cao đấy nhé”! Ngượng quá, nhưng còn biết làm sao, vì há miệng mắc quai rồi. Hân vừa xấu hổ, vừa hối hận. Đến lúc thi hết môn, anh phải cố tìm bài của cô bằng được mặc dù theo quy định, bài thi đã được rọc phách, chẳng biết ai vào với ai và cho chín điểm. Vậy mà sau khi biết kết quả thi, cô học viên ấy còn gọi điện cho anh, chất vấn: “Sao nhiều người được điểm chín thế hở thầy”? Cứ làm như ở lớp ấy, cô là người giỏi nhất không bằng. Hân đắng lòng, không hiểu cái gì sẽ xảy ra nếu cô chỉ được năm hay sáu điểm. Cũng từ đó, anh thấy mình rất nên thận trọng trước những lời mời mọc của các cô ở bất kì đâu.

Qua những lần giảng dạy ở các lớp tại chức, Hân biết là nếu lớp có một trăm người thì ít nhất phải chín mươi chin người không đi học đầy đủ vì lí do này hoặc khác. Cá biệt, có vị còn không thèm đến lớp lấy một ngày mà thuê hoặc nhờ người khác học thay. Có ông đeo lon thượng tá công an không dự một giờ nào môn học của Hân mà vẫn được ai đó cho tám điểm. Thì ra anh này cũng giỏi đường quan hệ với khoa và phòng đào tạo của nhà trường. Hân còn có thể làm gì được nữa! Anh đành phải cho qua vì không muốn bị mang tiếng là người gây chuyện. Cũng không lạ gì suy nghĩ của phần lớn học viên. Thì chúng tôi đã phải nộp đủ các loại tiền nong, chi phí, mời ăn mời uống rồi lại còn quà cáp lúc tiễn các thầy cô ra về, phải liệu đường mà châm chước chứ!

Đã từng có trường hợp học viên nam mời thầy đi mát xa, bia ôm hoặc thậm chí cả… đi chơi gái. Điều tưởng chừng như rất khó tin ấy, hóa ra lại là có thật. Một vài học viên nữ đã có chồng con thì lại sẵn sàng đi uống cà phê, hát karaoke, chấp nhận cho thầy ôm ấp hay vuốt ve tí chút để được điểm cao. Nhưng cái điểm cao ấy dùng để làm gì thì có trời mới biết! Có thể chị em hi vọng nhờ thế mà được đánh giá như một người học hành nghiêm túc, giỏi giang. Cũng có thể, điểm cao dễ được đề bạt hơn. Mà cũng có thể, đơn giản chỉ là con gà tức nhau tiếng gáy. Tuy nhiên, đâu phải học viên nào cũng giàu có, sẵn sàng đóng góp cho việc đãi đằng. Rất nhiều lớp tại chức lại đầy những học sinh phổ thông, vì không thể thi đỗ được vào hệ chính quy đại học nên đành phải chạy chọt, mượn danh cơ quan nào đó để mà tại chức!

Với các bà cô, những người vốn không quen nhậu nhẹt cũng chẳng cần gái làm gì, thì các học viên nữ nhanh chóng tìm ra giải pháp, như vải may áo dài, lụa tơ tằm hay mĩ phẩm. Chẳng có bà cô nào từ chối được. Thế là vui vẻ cả. Lớp tại chức nào cũng đều tốt nghiệp “chăm phần chăm”, và vẫn còn đó lời mỉa mai “Dốt chuyên tu, ngu tại chức”. Cái vòng luẩn quẩn cứ xoay tròn. Người bỏ tiền đi học thì thản nhiên coi đó là việc mua bằng. Các cơ sở đào tạo tích cực mở lớp thì chẳng bao giờ công nhận là họ đã bán bằng. Nhưng cải thiện đời sống cho cán bộ, giảng viên thì có. Cũng là một cách đáp ứng nhu cầu xã hội chứ sao! Lại nữa, từ trung ương xuống đến địa phương có biết bao nhiêu là cán bộ của các cơ quan ban ngành, sở nọ, ty kia… cần tấm bằng để hợp thức hóa cái ghế ngồi của họ. Mà ghế nào cũng đại diện cho quyền, quyền sẽ đẻ ra tiền, và tiền sẽ đem lại danh vọng cũng như tất cả mọi thứ có tên và không tên khác.

 

Bây giờ tại quán Nhớ, trong khi chờ người ta đem thức ăn ra, Hân nghĩ hay là thử gọi cho Phương Linh xem thế nào. Ngộ nhỡ cô ấy đi công tác vắng hay bận việc gì? Thậm chí, cô ấy không muốn gặp thì sao? Mọi thứ đều có thể xảy ra lắm chứ!

Thấy Hân băn khoăn không biết điện thoại công cộng ở đâu, lớp trưởng liền chìa ra chiếc Motorola Star Tac[26]:

– Thầy gọi bằng máy này đi thầy!

Anh ta hỏi số điện thoại mà Hân muốn gọi, bấm nhoay nhoáy, áp vào tai nghe thử rồi mới đưa cho Hân. Tín hiệu kết nối đường dây vang lên, nhưng phải một lúc sau mới có người nhấc máy:

– A lô, tôi nghe.

Trái tim Hân bỗng nhói lên một cái. Gần hai mươi năm! Biết bao nhiêu vật đổi sao dời. Giọng nói của Phương Linh cũng không còn lảnh lói, trong veo như trước. Nhoáng lên trong tâm trí của Hân là câu hỏi, Phương Linh nghĩ gì về cuộc gọi này; liệu có đường đột quá không? Anh biết, có những người luôn luôn lo ngại bị làm phiền, bị quấy rầy hoặc nhờ vả một điều gì đó từ những quan hệ cũ. Đời mà! Hân chợt lấy làm tiếc vì sự vội vàng hấp tấp của mình. Bao nhiêu lâu không một sợi dây liên lạc, bây giờ đùng một cái lại gọi điện thế này…

– A lô, ai đấy ạ?

Giọng nói ở đầu dây bên kia hình như đã có vẻ hơi sốt ruột vì khoảng lặng kéo dài ở bên này. Đúng là Phương Linh rồi, không thể nào nhầm được. Tuy vậy, Hân vẫn ngần ngừ một lát rồi mới nói theo kiểu cầu âu như một người xa lạ, cốt để xem phản ứng của chị thế nào.

– A lô, chị Phương Linh phải không ạ? Tôi tên là Hân, ở ngoài Hà Nội mới vào…

– Trời, anh Hân! Anh đang ở ngoài quán nhậu phải không? Anh có khỏe không? Anh vào lúc nào? Anh vào trong này công tác hả? Được lâu không?

May mà cô ấy không hỏi lại, Hân nào? Anh thầm nghĩ. Ừ, tiếng ồn như thế này, làm sao Linh lại không đoán được anh đang ở đâu! Hân cũng nhận thấy Linh vẫn dùng những từ miền Bắc, có lẽ do ảnh hưởng của một thời. Đúng như thông tin từ trước, gần bảy giờ tối chị vẫn còn ngồi ở văn phòng và vì thế mới nghe được điện thoại của anh. Chứ như những người khác thì lúc này họ đã về tới nhà từ lâu rồi. Hân ngắn gọn trả lời những câu hỏi của Phương Linh rồi cúp máy sau khi đã có lời hẹn của chị rằng trưa ngày kia, anh có thể đến cơ quan gặp chị hoặc tốt nhất, vào đầu giờ chiều. Vì “Lúc đó em mới rảnh”.

Hân trả lại chiếc điện thoại di động cho lớp trưởng. Một sản phẩm văn minh, tiện lợi nhưng hơi tốn tiền, anh nghĩ. Năm, sáu triệu đồng một chiếc loại trung bình[27], tùy từng nhãn hiệu chứ có ít đâu! Có loại còn hơn chục triệu, bằng ba bốn tháng lương của anh rồi. Vì thế, cái vật dụng nhỏ bé này cũng phần nào nói lên đẳng cấp của người dùng chúng, như xe máy và ô tô vậy.

Không đến nỗi quá căn cơ, nhưng Hân vẫn chưa dám cho phép mình chơi sang với cái tiện ích xinh xắn ấy. Vả chăng, anh đâu phải là người quảng giao hay dân làm ăn buôn bán gì mà có nhu cầu phải gọi đi và nghe đến thường xuyên. Công việc của một giảng viên văn học Nga Xô viết như anh thật ra có khác nào mấy ông công chức sáng cắp ô đi, tối cắp về thậm chí còn nhàn hơn vì nhiều hôm anh không phải lên lớp, chỉ nằm nhà đọc sách hoặc làm gì tùy ý.

Hân gọi cho Phương Linh, một phần là do cậu lớp trưởng quá nhiệt tình trước nhu cầu của ông thầy và anh cũng chẳng biết điện thoại công cộng ở chỗ nào. Nhưng Hân giữ ý, chỉ nói những gì cần thiết nhất. Không thể quên là tiền cước điện thoại di động mỗi phút gọi đi phải mất tám, chín ngàn đồng[28]… Cước máy để bàn cũng không hề rẻ. Vì thế nên mới có chuyện, không ít ông giáo sư tiến sĩ hẳn hoi, nảy ra sáng kiến tận dụng máy của cơ quan chứ không phải là của gia đình. Tiết kiệm được khối tiền! Có vị đã nói thẳng ra như vậy và mỗi khi vừa mới đến trường, quẳng cặp xuống xong là tranh thủ gọi điện đi khắp nơi cái đã. Máy ở nhà chủ yếu dành cho các cuộc gọi đến thôi.

Phương Linh nhận ra Hân với một chút khó khăn và cả sự bất ngờ. Bởi vì chị về nước trước anh hai năm và từ đó bặt tin luôn. Chỉ nghe nói là sau khi tốt nghiệp, Hân về làm giảng viên của một trường đại học tại Hà Nội, khá lâu sau mới lấy vợ rồi lại chuyển sang trường khác nhưng gia cảnh không lấy gì làm sung túc.

Như vẫn thường thấy trong những trường hợp tương tự, hình ảnh của người bạn cũ ấy cứ nhạt nhòa dần rồi mất hút trong tâm trí Phương Linh. Phải đến lúc nghe Hân xưng tên, chị mới nhớ ra và bộ nhớ của chị, như thể được kích hoạt trở lại, cho thấy hình ảnh xa xưa của một anh chàng trên dưới ba mươi với thân hình cao gầy và vẻ mặt hơi khắc khổ. Không hiểu giờ đây, sau một thời gian dài xa cách, anh ấy muốn gặp mình để làm gì? Có đơn giản chỉ là hỏi thăm về cuộc sống, gia đình hay còn việc gì khác nữa? Phương Linh biết, có rất nhiều người bình thường không lấy gì làm thân thiết, lại xa cách nhau lâu ngày bỗng nhiên đùng một cái xuất hiện, than đủ thứ khó khăn và nhờ giúp đỡ. Liệu cái anh Hân này có định đẩy mình vào hoàn cảnh ấy không?

Người đàn bà đứng tuổi hơi băn khoăn một chút. Nhưng rồi chị lại nghĩ, chưa biết như thế nào mà đã từ chối gặp thì cũng kì. Hơn nữa, trước đây Hân đã từng là một người khá đàng hoàng. Còn bây giờ, dù có thế nào thì quyền quyết định vẫn là ở mình kia mà. Thôi thì cứ thử xem sao đã; gặp ở cơ quan đâu có gì đáng ngại. Nhưng cũng không nên nhận lời ngay kẻo anh ta lại nghĩ mình dễ dãi hoặc sẵn sàng muốn gặp… Phương Linh ngẫm nghĩ một hồi như thế trước khi cho Hân cái hẹn vào buổi chiều ngày mốt, là thứ sáu.

 

Thức ăn đồ uống đã được bưng ra. Mọi người cười nói ồn ào. Mấy cô phục vụ váy ngắn, chân trần khoe đủ các loại đùi to nhỏ, ngắn dài, đen trắng… Rót bia, thêm đá, lấy ớt, tiếp chanh… Hân cũng buộc phải cụng li chúc tụng, cảm ơn cho phải phép chứ không hào hứng gì vì anh không uống được bia hay rượu. Mọi cuộc liên hoan, chiêu đãi ở cơ quan, nếu có thể bỏ qua, anh đều bỏ. Không trốn được thì anh cũng chỉ tham gia chiếu lệ, gọi là… Điều đó khiến một số người cho rằng Hân kênh kiệu hoặc kĩ tính, không muốn hòa đồng. Nhưng rồi mãi, không thấy anh thay đổi được gì nên họ đành phải cho qua vậy.

Hân biết, có khá nhiều ông thầy bà cô luôn luôn tận dụng cơ hội được cử đi dạy các lớp tại chức để vòi ăn, vòi uống, vòi quà rồi còn đòi cả đi đây đi đó tham quan hay tắm biển. Lẽ đương nhiên, những chuyến đi hay cuộc vui như thế đều do các học viên móc tiền túi của mình ra mà đóng góp chứ thầy cô thì sức mấy! Chỉ thương cho những học viên muốn học hành nghiêm chỉnh. Đến khi tốt nghiệp, thấy mấy năm trôi qua mà gần như chẳng có thêm được chút kiến thức nào và số tiền dùng để mua bằng quá đắt.

Nhưng về phía các thầy cô, đâu phải ai cũng để ý thực tế này. Thậm chí có ông ở cùng khoa với Hân, trước khi nhận quyết định về hưu đã ngồi đần mặt ra tính toán bị mất đến gần một phần ba thu nhập. Trong đó, theo ông gồm có tiền giảng dạy, tiền quà cáp, cúng biếu từ các lớp tại chức và cả những bữa không phải ăn cơm nhà! Đó là còn chưa kể đến những khoản vui chơi, du hí, v.v. 

Đêm ấy trong căn phòng khách sạn, máy lạnh chạy êm ro mà Hân vẫn không ngủ được. Có lẽ vì buổi chiều nay uống hơi nhiều nước chè. Anh bật ngọn đèn bàn, lấy cuốn Văn Tâm điêu long của Lưu Hiệp đem từ nhà đi để đọc. Tác phẩm kinh điển của Trung Quốc nói về nghệ thuật văn chương. Nhưng chỉ một lát sau Hân đã thấy mình chẳng hiểu gì vì không tập trung được vào trang sách. Anh khẽ thở dài, đặt Lưu Hiệp xuống giường.

 

*

*          *

 

…Phương Linh đến phòng của Hân ngày một thường xuyên hơn, không hẳn vì cô muốn biết Cường có đến đó hay không. Rất có thể, nhiều khi cô cũng buồn. Irina, gọi thân mật là Ira, bạn cùng phòng của Linh thì đi suốt. Mà ở trên cái tầng mười sáu ấy, chỉ có mỗi mình Linh là người Việt Nam, còn lại toàn dân da đen và Trung Đông, muốn nói chuyện với ai cũng khó, thậm chí là hơi sợ. Những thân hình to cao, lực lưỡng với nước da sậm màu hoặc đen sì như nhọ nồi và gương mặt đầy bí ẩn. Những bộ răng trắng kinh hồn. Cả cái mùi gây gây toát ra từ cơ thể và áo quần của họ quyện lẫn với mùi nước hoa nồng nặc…

Có lần trong thang máy đầy những người như thế, Hân đã phải lắc đầu, nửa đùa nửa thật với Phương Linh:

– Dân Nga giỏi chịu đựng thật!

Phương Linh chưa kịp bày tỏ thái độ gì thì anh đã bồi thêm:

– Em có hiểu không?

– Hiểu! – Phương Linh đỏ mặt, phì cười đáp.

Qua Phương Linh, Hân biết thêm rằng Ira đang yêu một người đàn ông đã có vợ con lại bị cụt một chân do tai nạn giao thông. Thế mà cô sinh viên ấy vẫn yêu anh ta đến hết mình; mỗi lần anh ta từ mãi tít dưới thành phố Rôxtốp, quê hương của hai người lên Mátxcơva, Ira lại bỏ hết mọi việc để đến với anh, có khi đến tận mấy ngày không thèm ló mặt về nhà. Chỉ sau khi anh ta đã đi rồi, cô mới xuất hiện trở lại, mặt mũi tóc tai bơ phờ, nhưng đôi mắt cứ như cháy bừng lên hạnh phúc.

Phương Linh rất ít nói chuyện với các cô gái cùng đơn vị Hân, có lẽ vì giữa họ hầu như không có điểm tương đồng. Thì cứ nhìn diện mạo, thói quen, cách sống của các cô là đủ biết. Trong khi Linh lúc nào cũng tỏ ra vui vẻ và cởi mở thì các cô cứ khó đăm đăm. Linh có thể trò chuyện được với tất cả mọi người thì các cô dường như chỉ tìm cách thu mình lại dù là trong cuộc họp. Đối ngược với cách chi tiêu hào phóng của Linh, các cô luôn luôn phải tính toán từng đồng. Phương Linh có thể ăn uống ngon lành các món ăn Nga ở buphét hoặc xtalôvaia[29] còn các cô chỉ chăm đi chợ, nấu cơm độn mì sợi, luộc rau và kho thịt. Các cô cũng không dám đụng đến món xúc xích vì “Em không biết ăn”, nhưng có lẽ chỉ tại cái hình dáng của nó khi được bày lên đĩa. Trụi thùi lụi ngay một đoạn dài dài tròn tròn màu đỏ sẫm! Hân ngỡ ngàng khi hiểu được điều bí ẩn này. Thì ra các cô cũng giàu sự liên tưởng linh tinh đấy chứ!

Ở Mátxcơva, các cô còn rất tỉ mẩn đan áo hay khâu tay một chiếc quần (vì không có máy khâu, mà nếu có thì chắc gì đã biết cách dùng). Nhưng làm thế nào được, bởi vì người Việt Nam tầm vóc nói chung là quá nhỏ bé, không dễ chọn được cho mình quần áo may sẵn. Ra hiệu may thì các cô không dám vì quá tốn tiền. Bài học kinh nghiệm của những người đi trước, là cứ đến cửa hàng Dzetxki mir – Thế giới thiếu nhi – không áp dụng được với các cô, mặc dù ở đó không thiếu một thứ gì, giá lại rẻ so với các cửa hàng dành cho người lớn. Nam giới thì đỡ hơn vì có thể tìm được những thứ tương đối phù hợp với mình. Dài rộng một chút cũng không sao. Nhưng một chiếc sơ mi ở cửa hàng này, tuy được coi là thấp, nhưng ít nhất cũng năm, bảy rúp. Loại tốt, phải nhiều hơn. Chiếc quần dài, mười lăm hai mươi rúp[30]. Không đơn giản chút nào so với học bổng của sinh viên. Nhưng ở đây chẳng ai chấp nhận được việc chỉ có vài ba bộ áo quần.

Để có được ít tiền, nhiều sinh viên Việt Nam trong đó có Hân thường phải đi làm thêm trong dịp hè. Công việc thì rất dễ tìm nhưng chủ yếu là lao động giản đơn, như giặt là vải trải giường, đóng thùng gỗ để đựng hàng, khuân vác ở các bến tàu hoặc trong nhà máy… Khá là cực nhọc, với tiền công mỗi ngày bảy rúp. Muốn kiếm được nhiều hơn, có người đã phải làm tận hai ca hoặc theo các đội xây dựng đến những vùng xa xôi hẻo lánh như Xibir chẳng hạn. Hân không muốn đi xa mà cũng chẳng ham kiếm nhiều tiền, nên đã chọn cho mình việc đóng thùng. Chứ công việc ở nhà máy giặt là, anh không kham nổi do tiếng máy chạy ầm ầm, mùi xà phòng và chất tẩy trùng sặc sụa, khó mà thở được. Các “công nhân nghiệp dư” Việt Nam, hai người một máy, căng từng tấm vải trải giường đã được giặt sạch, cho vào lô cuốn. Hai quả lô nóng cứ chầm chậm quay. Sang đến bên kia, tấm vải đã khô và phẳng, sẽ có người đón lấy rồi gấp lại. Người khác, xếp vào xe đẩy, chuyển đi.

Việc đóng thùng không có gì là khó. Người ta lấy những thanh gỗ đã được xẻ sẵn theo quy cách, dùng đinh đóng thành những chiếc thùng đựng hàng, đúng kích thước và theo định mức. Nhưng vừa mới làm được mấy ngày, Hân đã hậu đậu thế nào táng ngay một nhát cật lực vào ngón cái của bàn tay đang cầm đinh. Chỉ nghe thấy “bộp” một tiếng. Anh quăng vội chiếc búa, suýt nữa thì hét lên vì đau đớn. Đến khi tháo được chiếc găng tay bảo hộ ra, thì ngón tay đã tím lịm và sưng to như quả chuối mắn. Không biết kêu ai mà cũng chẳng biết đi khám ở đâu, Hân đành mặc kệ nó (!), đồng thời cũng bỏ việc luôn. May mà không đến nỗi giập xương.

Mùa hè năm sau, Hân đi làm công nhân khuân vác ở một nhà máy rượu. Công việc không lấy gì làm vất vả, có thời gian nghỉ giải lao đàng hoàng và qua những ngày đi làm ấy, Hân mới có điều kiện hiểu thêm về cuộc sống của những người dân Xô viết. Họ làm việc rất cầm chừng, dường như không có động lực gì mà cũng chẳng thấy tinh thần thi đua lao động cộng sản ở đâu. Tất cả cứ vật vờ như chiếc bóng. Liệu đây có phải là một cái nhìn phiến diện quá không? Hân không biết, nhưng thực tế ở những nơi mà anh đã đến làm thuê thì đúng là như vậy.

Có lẽ vì lao động như thế, nên bữa trưa của những người công nhân cũng hơi đạm bạc. Vào nhà ăn, mỗi người thường chỉ lấy cho mình đĩa xúp, một món thứ hai (nhưng lại là món chính) là mì sợi với thịt hay gì đó, vài lát bánh mì đen và cốc nước hoa quả. Nhiều người lại đem thức ăn từ nhà, gồm một hai quả trứng luộc, mấy quả cà chua hay dưa chuột, vài lát giò thái mỏng và bánh mì. Kể ra như vậy cũng đã là sang đối với rất nhiều người Việt, nhưng với người dân châu Âu nói chung và Liên Xô nói riêng thì đó chỉ là những bữa ăn xoàng xĩnh. Thuốc hút của cánh đàn ông là loại Kadơbêk, quá nửa điếu là ống giấy rỗng như ống chỉ, mười bốn xu một hộp, không có loại rẻ hơn. Kì vọng của Lênin về tinh thần cộng sản, kỉ luật tự giác và tính tổ chức sẽ đem lại năng suất cao, chất lượng tốt dường như vẫn còn là một cái gì đó thật xa vời.

Ở nhà máy rượu, thực chất chỉ là nơi sang chiết, đóng chai dán nhãn các loại rượu được chuyên chở đến từ các nước cộng hòa, nam công nhân thường say xỉn suốt trong khi làm việc. Họ uống không cần thức nhắm, mỗi lần tợp một cái là hết bay luôn nửa cốc to. Mà cônhắc bán ở cửa hàng, xoàng ra cũng mười bảy, mười tám rúp một chai nửa lít. Như vậy có nghĩa là lượng rượu mà các bác mugích này tiêu thụ hằng ngày còn nhiều hơn tiền công của họ, nhưng chẳng thấy ai nhắc nhở gì trừ trường hợp lấy về nhà. Và cứ thế, họ chệnh choạng khiêng vác những két rượu lên xuống cầu thang, chất lên băng chuyền hoặc xe tải mà không vấp không ngã bao giờ.

Quả thật, uống rượu từ lâu đã là một thói quen thâm căn cố đế của người Nga, cả nam lẫn nữ, trẻ cũng như già. Vì thế mà họ không thể thiếu được thứ chất lỏng cay nồng này trong cuộc sống hằng ngày. Và giữa thủ đô của của một siêu cường, người ta vẫn có thể thường xuyên bắt gặp những đệ tử lưu linh say khướt, bước đi lảo đảo và cả những gã đàn ông vạ vật nằm ngủ ngay trên hè phố hay bất kì chỗ nào mà họ tưởng là giường hoặc lấy làm giường.

Đã có lần giữa mùa đông tháng giá, tuyết phủ trắng trời, Hân ngạc nhiên thấy chiếc tàu điện mà anh đang đi bỗng khựng lại ở giữa đường. Bà lái tàu to béo phục phịch mở cửa buồng lái, làu bàu chửi rủa rồi bước xuống. Thì ra có một ông say rượu đang nằm ngủ vắt ngang đường ray. Bà lái tàu bực mình, ì ạch lôi cái xác sống ấy sang một bên, đá cho mấy cái, thế mà ông ta vẫn ngủ. Con tàu lại chuyển bánh, và Hân thấy ông ta còn trở mình trên mặt tuyết. Nhưng như vậy cũng vẫn chưa ghê bằng những người đàn bà say rượu. Hơn một lần nhìn thấy họ, trẻ có già có, người ít học có và sinh viên cũng có, Hân cảm thấy thật đáng thương cho những phụ nữ này. Lúc ấy, tất cả đều giống nhau ở chỗ đầu tóc rũ rượi bù xù, nói năng lảm nhảm, không làm chủ hành vi của mình được nữa.

Chẳng biết có ai ốm đau hoặc lăn ra chết sau khi ngủ trên đường phố hay không, nhưng chưa bao giờ Hân thấy có ai bị bắt bớ hay nhắc nhở gì về tội say rượu. Và người ta có thể mua đủ các loại rượu ở bất kì đâu: trong cửa hàng thực phẩm, tại các tiệm ăn, khách sạn, nhà hàng… Cũng có quy định là các loại rượu mạnh như vốtka, cônhắc, uýtxki… chỉ được bán từ sau mười một giờ trưa cho những người từ mười tám tuổi trở lên nhưng chừng ấy cũng vẫn là quá đủ cho người ta say xỉn.

Có nhiều cách lí giải cho việc uống rượu của người Nga, trong đó có mùa đông khắc nghiệt. Nhưng các quốc gia ở vùng bắc bán cầu cũng lạnh kinh hoàng đấy chứ! Phải chăng đây là do tính cách dân tộc và rất có thể, cả những nguyên nhân xã hội mà Hân không biết? Hoặc giả, chỉ đơn giản là người ta ưa nhậu nhẹt thôi. Hay họ uống để quên đi nỗi thất vọng chán chường nào đó trong cuộc sống? Hân chợt nhận ra, cũng như ở Việt Nam, những người nghèo, ít học hoặc bế tắc gì đó thường hay say rượu nhất. Còn những loại khác, có lẽ là uống có chừng mực hơn và kín đáo hơn. Nhưng thật khó mà nghĩ rằng Liên bang Xô viết lại có thể sụp đổ, một phần bắt nguồn từ lệnh cấm rượu mà Goócbachốp áp đặt chẳng dựa theo một cơ sở khoa học nào sau khi ông ta lên cầm quyền.

Ngay sau khi đặt chân lên Mátxcơva chưa được bao lâu, Hân đã được nghe những chuyện tiếu lâm chính trị, bôi bác từ ông tổ cách mạng vô sản của nước Nga là Lênin cho đến các vị lãnh đạo đương thời; từ chủ nghĩa xã hội đến chủ nghĩa cộng sản, từ sự bất bình đẳng xã hội đến nạn tham nhũng và mất tự do… Toàn những chuyện mà nếu lực lượng an ninh Liên Xô nghe được, thì rất có thể người kể sẽ bị bắt ngay lập tức. Ai biết được, đằng sau vẻ hào nhoáng bề ngoài, với đủ những khẩu hiệu rất kêu về Đảng, về dân và chủ nghĩa xã hội phát triển theo lời của Brêgiơnhép, cái cơ thể Liên bang Xô viết đã mục ruỗng và thối nát đến thế nào.

Làm sao có thể tưởng tượng được rằng sẽ đến một ngày, Ủy viên Bộ chính trị Enxin vứt bỏ thẻ đảng ngay giữa Đại hội và ngang nhiên tuyên bố, ông ta không còn là đảng viên cộng sản, để trở thành Tổng thống đầu tiên của nước Nga. Rồi Goócbachốp, Tổng bí thư kiêm Tổng thống Liên Xô ra lệnh giải tán Đảng, vĩnh viễn chôn vùi một thể chế và một quốc gia được xây dựng nên với biết bao mồ hôi, xương máu của hàng chục triệu con người. Hệ quả, là có thời gian đất nước ấy không còn cả quốc kì, quốc ca gì nữa! Và rất nhiều người Nga đi đến đâu cũng bị coi thường, thậm chí là hạ nhục.

Mỉa mai và cay đắng biết bao, khi hàng loạt Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy, rồi Đảng bộ, chi bộ… từ trung ương đến địa phương trên toàn Liên bang Xô viết tranh nhau bước lên phía trước, ném thẻ đảng thành từng đống, tưới xăng, châm lửa đốt. Còn đâu  nữa, lời thề tuyệt đối trung thành với Đảng và lí tưởng cộng sản ngày nào! Còn đâu nữa, những tuyên ngôn vì nước vì dân! Rồi khẩu hiệu rất quen thuộc, “Đảng với dân là một”. Hành động của các chức sắc ấy lúc này như một tuyên ngôn dứt khoát đoạn tuyệt quá khứ để được giữ nguyên vị trí của họ trong chính quyền mới (do toàn những cán bộ cũ của Đảng dựng lên), nhằm tiếp tục kiếm chác và hưởng lợi. Chỉ khổ cho rất đông đảng viên, cán bộ cấp thấp suốt đời tin Đảng và đi theo Đảng đến tận phút cuối cùng mới nhận ra cái lí tưởng mà mình hết lòng tôn thờ, phụng sự rốt cuộc là như thế nào và bọn ăn trên ngồi trốc trong Đàng bao nhiêu năm qua có bộ mặt ra sao!

 

*

*          *

 

Cái gì khiến Phương Linh bỏ qua những cách biệt để cô có thể tự nhiên và cởi mở đối với Hân? Câu trả lời là ở anh có cái gì đó dễ gần và tin cậy được. Nhưng hơn hết, có lẽ là do Hân biết chấp nhận những người có quan điểm sống khác với mình, mặc dù anh không dễ hòa đồng với họ. Hân không hề ngả theo lối sống của Phương Linh, nhưng anh cũng không phản đối hay bài bác, trái lại còn coi như một lẽ đương nhiên. Phương Linh quý anh cũng vì điều đó. Tuy nhiên, Hân không phải là mẫu đàn ông hấp dẫn được cô. “Anh thì cái gì cũng biết nhưng nói chuyện với anh chán quá”! Đã có lần, Linh buột miệng nói với Hân như thế. Anh không hề tự ái mà chỉ hơi cười cười, chẳng cãi lấy một lời.

Phương Linh không biết rằng Hân sinh ra ở một làng quê miền Bắc đói nghèo. Bố anh là một ông đồ nho lứa cuối cùng trước Cách mạng tháng Tám, suýt nữa thì chết vì những lời tố điêu trong cải cách ruộng đất. Tuy sau đó người ta đã sửa sai nhưng ông vẫn bị o ép đủ điều, đến nỗi phải bỏ hết cả ruộng vườn nhà cửa, ra thành phố oằn lưng kiếm miếng ăn. Ở đó, ông và gia đình tá túc trong một căn nhà lá tồi tàn cuối ngõ sâu hun hút. Mỗi khi trời mưa to, cả cái sân bị ngập sâu như một cái ao, ông lại phải bắc gầu sòng tát ì oàm cho nước thoát ra đường.

Để có thể tồn tại được, ông đồ Hương phải đi làm công nhân ở một nhà máy gỗ và không bao giờ đọc sách báo, nghe đài hay xem phim gì hết. Đến khi có truyền hình, ông cũng chẳng quan tâm. Như một người cố bịt mắt bưng tai, trốn chạy sự đời cho dù thời cuộc có thế nào. Sau mỗi ngày làm việc, ông thường nhấm nháp đôi ba chén rượu, đến kì lương lại khao vợ con một bữa ăn tươi. Riêng những dịp giỗ, tết bao giờ ông cũng cúng bái cực kì cẩn thận. Những bài văn khấn bằng chữ nôm của ông đọc lên dài dằng dặc và nghe rất buồn cười, Hân chẳng bao giờ hiểu được. Nhưng anh không hỏi bố xem ý nghĩa của nó là như thế nào, mặc dù ông thật sự là một pho từ điển sống về phong tục thờ cúng, làng quê, họ mạc và biết bao nhiêu chuyện từng xảy ra trong quá khứ.

Nói đến việc ông đồ Hương, bố Hân bị hàm oan. Anh sẽ chẳng bao giờ tin nếu như không tận mắt chứng kiến từ đầu đến cuối. Chính vì thế mà anh không hiểu được, tại sao mọi chuyện lại diễn ra một cách vô lí đến lạ lùng như vậy. Có người tố cáo với đội cải cách ruộng đất rằng ông đồ Hương là người của Việt Nam quốc dân đảng, từng giết chết hai cán bộ Việt Minh. Ngay lập tức, không cần chứng cứ gì hết người ta đã bắt ông và suốt đời không bao giờ Hân quên được chuyện đó, tuy lúc ấy cậu mới lên sáu tuổi.

Chiều tối mùa đông, đúng lúc cả nhà đang sửa soạn ăn cơm, hay nói cho đúng hơn là chia nhau mỗi người lưng bát ngô bung ăn với dưa muối bằng ngó rau cần, thì một nhóm du kích (sau này gọi là dân quân) ập vào bắt ông đồ. Một người chẳng nói chẳng rằng, giật lấy bát ngô từ tay ông, ném ra ngoài sân làm cái bát vỡ toang, những hạt ngô bắn ra tung tóe. Con chó nhà, lúc thường rất hay sủa bấy giờ bỗng sợ đến xanh le mắt, chui tọt vào gầm giường nằm im thin thít. Ông đội trưởng du kích hất hàm đầy vẻ uy quyền:

– Đi!

Ông đồ, người vẫn được gọi là cò Hương vì cái dáng cao gầy, không hiểu nghĩ ngợi thế nào, hỏi lại:

– Đi đâu cơ ạ?

Gã đàn ông nhếch mép, cười khinh bỉ:

– Cứ đi đi rồi sẽ biết!

Cũng lạ, là ngô thì không cho ăn nhưng đám du kích ấy vẫn chờ để ông đồ kịp mặc xong chiếc áo the, đội khăn xếp đàng hoàng rồi mới trói giật cánh khuỷu ông lại, dẫn đi. Bà Hương và mấy anh chị em Hân lăn ra khóc thì bị một gã du kích quay lại, chĩa súng ngay vào mặt, quát:

– Câm! Chờ hôm nào đem ra bắn rồi tha hồ mà khóc!

Anh chị em Hân đứng lặng đi vì sợ hãi trong lúc bà Hương chỉ còn dám sụt sùi ở một góc nhà. Hôm sau, rồi những hôm sau nữa, Hân được theo anh và chị đi đưa cơm cho bố vì nhà nước không có cơm đâu mà nuôi lũ Việt gian phản động. Ngôi đình, vốn là nơi rất tôn nghiêm dùng để thờ cúng thành hoàng làng và các chúng thần, cũng là nơi tế lễ, mở hội, họp hành… đã bị biến thành nơi giam giữ hàng chục con người, đầy mùi phân và nước tiểu.

Hân bước vào góc đình bẩn thỉu, suýt nữa thì vấp ngã vì mắt chưa quen bóng tối. Mãi, cậu bé mới nhận ra, có hai dãy người bị cùm chân lại với nhau, lưng dựa vào tường. Những chiếc cùm bằng gỗ lim, chẳng biết người ta lấy từ đâu ra, dài khoảng ba bốn mét, hẳn là rất nặng. Thân cùm gồm hai nửa, khoét lỗ hình bán nguyệt. Nửa dưới được cố định xuống sàn, còn nửa trên có thể nâng lên hạ xuống như lưỡi kéo để phạm nhân đưa cổ chân vào. Tất cả đều bị cùm một chân và khoảng bốn, năm tiếng đồng hồ người ta lại mở cùm cho phạm nhân đổi chân này sang chân khác. Đêm ngủ thì cứ việc ngả lưng ra sàn, với những chăn chiếu do người nhà mang đến. Mặc cho muỗi đốt vì không có màn mà nếu có, cũng không cách nào mắc được. Có ai tháo cùm cho họ đứng dậy làm việc ấy đâu, và dây nào đủ dài để mắc màn!

Lớn lên một chút, nghe bố kể lại Hân mới biết ông bị người ta bịa chuyện, đẩy vào chỗ chết chỉ vì một vụ mua bán đất đai từ đời nảo đời nào. Ông nội anh do chịu khó làm ăn, dành dụm được ít tiền, nên mua của nhà nọ hơn năm sào ruộng. Giấy tờ, văn tự đủ cả và suốt mấy chục năm vẫn canh tác bình thường, không có điều qua tiếng lại gì. Đến lúc nào đó, ông cụ lại mua chức hương lí do triều đình của Khải Định bán, chỉ để cho mở mày mở mặt với dân làng. Nào ngờ, lúc “Đội” (từ dùng để gọi các cán bộ của đội cải cách ruộng đất cũng như chỉ huy của họ) về phát động phong trào, khuyến khích người dân đấu tố bọn Việt gian phản động, địa chủ cường hào gian ác thì bà Lam, con gái của người bán ruộng ngày xưa được gọi đến.

Bà ta mù chữ, lúc đó ngoài năm mươi, được Đội cho biết chính bố con lão cò Hương đã lừa gạt, chiếm đoạt ruộng đất của gia đình bà, đẩy bà vào cảnh suốt đời chỉ biết cày thuê cuốc mướn. Mọi sự đói khổ là ở đấy chứ đâu! Bà không lấy được chồng cũng là do nó chứ không à? Rõ ràng là lão cò Hương, thấy bà còn có ba sào ruộng, cũng lập mưu cướp nốt chứ mua bán gì bố con nhà chúng nó! Rồi lại còn thuê bà cày bừa cấy hái trên chính những thửa ruộng ấy nữa, làm ra vẻ ta đây tử tế. Tội ác của bố con nhà nó to lắm, phải đem ra mà xử bắn! Bà đã nghe ra chưa? Lại còn giết cả hai cán bộ Việt Minh, có người trông thấy rõ rành rành!

Được lời như cởi tấm lòng, bà gái già kia gật đầu lia lịa. À, thì ra là như thế! Thế mà bao nhiêu năm, bà vất vả một nắng hai sương, làm giàu cho bố con nhà chúng nó! Bà tức lắm. Không biết chữ để viết ra giấy, thì bà nói mồm chứ sợ gì! Đội đã cẩn thận cho đóng một cây cột rõ to ngay trước sân đình để bà con bần cố coi đấy là một tên địa chủ và tập đấu tố, vạch mặt chỉ tên cho thành thục. “Nợ máu phải trả bằng máu!”, Đảng đã dạy thế rồi, Đội cũng đã nói rồi. Phải đánh đổ và tiêu diệt hết bọn địa chủ cường hào gian ác. Ruộng đất phải về tay dân cày nghèo!

Nhưng hăng hái thì hăng hái vậy thôi chứ lúc về đến nhà, chui vào căn lều rách nát dưới gốc đa, bà lại thấy có cái gì đó không phải. Đúng là bố bà bán ruộng, bán nhà có nhận tiền của người ta mà. Kí tên, điểm chỉ hẳn hoi. Đem tiền đi giả nợ, bà cũng biết. Rồi đến khi ốm nặng, ông còn khóc lóc với mẹ con bà. Cũng chỉ tại không biết làm ăn tính toán, bóc ngắn cắn dài. Lại còn rượu chè cờ bạc. Chính bố con ông đồ Hương đã góp tiền góp gạo để đưa bố bà ra đồng. Lại còn nhiều lần bà vay mượn, lúc đồng tiền khi bát gạo vào những tháng ba ngày tám… Ông ấy cũng chưa một lần chửi bới hay đánh đập bà. Việt gian phản động hay không thì bà có biết đâu! Làm sao mà tố được! Tất nhiên, bà không biết rằng đã có người đứng ra tố cáo ông đồ từ trước đó; Đội chỉ muốn có thêm người đấu tố mà thôi.

Người đàn bà khốn khổ ấy đến gặp Đội, xin rút lui ý kiến. Đội khoảng ngoài ba mươi, rõ ra là người từng trải, mỉm cười am hiểu:

– Ấy ấy, thế là bà ăn phải bả cái nòi phản động rồi! Chúng nó hệt như nhau, chỉ toàn tìm cách thả con săn sắt, bắt con cá mè. Giả vờ tử tế với các ông các bà để đẽo gọt đến tận xương tận tủy, hút máu hút mủ mọi người, bà đã nghe ra chưa? Đừng có mà mắc mưu chúng nó! Bà thử nghĩ xem, nhà cao cửa rộng như thế, ruộng đất trâu bò ấy ở đâu ra? Tất cả cái lũ tư sản địa chủ trên toàn cõi Việt Nam này đều là bọn áp bức bóc lột hết, Đảng đã dạy thế rồi. Còn mụ vợ làm hàng xáo[31] chỉ toàn mua rẻ bán đắt, ăn không của người ta… Tai mắt nhân dân người ta biết hết, thế mà bà lại còn bênh chúng nó à? Tôi nói cho bà biết nhớ, bà không tố thì khối người khác tố. Tội trạng lão cò Hương ấy, Việt Nam quốc dân đảng sờ sờ ra đấy, giết chết mấy người là cán bộ Việt Minh, bà có muốn bao che cho nó cũng không được đâu! Bà đã nghe ra chưa? Mà bao che cho bọn phản động là tội to lắm đấy, bà cứ coi chừng! Bà có định ra đấu tố nó không? Bà có muốn nhận ruộng không? Bà có muốn đổi đời không? Hở? Hay là bà đã ăn phải bả của bố con nhà nó rồi? Bà nói đi, lão cò Hương ấy nó cho bà cái gì rồi mà bà định bao che cho nó? Hở?

Nghe đến đấy bà Lam sợ quá, vâng vâng dạ dạ xin nghe lời Đội. Bà hấp tấp ra về, vấp chân suýt ngã ngay ngưỡng cửa. Nhưng cái mà bà không biết, là sau bài diễn văn hùng hồn ấy, anh Đội cười đắc ý tự thưởng cho mình một điếu thuốc lào và bát nước chè xanh với hi vọng phen này thì có đứa chết. Có mà giời cãi! Anh đã lập được công rồi, đã vận động được quần chúng đứng lên tố cáo một tên Việt gian phản động. Thế nào cũng đạt mức đã được giao…

Người ta đem ông Hương ra đấu tố. Hân và cả gia đình đều phải có mặt, chứng kiến từ đầu đến cuối, đến nỗi buồn đái cũng không được đi. Dưới ánh đèn măng xông sáng rực, những người nông dân nghèo khổ mặt mũi vêu vao, da cóc cáy đang hừng hực lửa căm thù. Đội ngồi thành một dẫy dài đầy vẻ sát khí đằng đằng, có du kích cầm súng đứng phía sau bảo vệ.

Ông Hương được lôi ra, lần này thì không bị trói, mắt nheo lại vì ánh đèn măng xông sáng lóa. Chiếc áo the của ông, chả biết tại sao lại rách hết cả vạt sau trông rất buồn cười trong khi vạt trước vẫn còn nguyên vẹn. Khăn xếp cũng biến đi đâu mất, còn mái tóc bù xù đã có vài sợi bạc mặc dù ông vừa mới đúng bốn mươi. Nhưng tức cười nhất là cái quần ống sớ màu trắng của ông với bộ mông đen sì, cứ như có ai bôi nhọ nồi vào đấy. Và phải mãi rất lâu sau, Hân mới biết bố anh áo the khăn xếp khi bị bắt vì ông tưởng người ta sẽ đem mình đi bắn ngay hôm ấy nên thôi thì cũng cố ăn mặc cho tử tế.

Bà Lam được gọi lên đầu tiên, mở đầu cuộc đấu. Trên người bà lúc này chỉ có mỗi một cái áo cánh nâu rách vá và cái yếm, chân thì đi đất mà trời lại rét. Vì thế, bà phải khoác thêm cái áo tơi lá to tướng ở bên ngoài, trông cứ như một con cóc cụ. Tuy vậy, bà vẫn run lên cầm cập, không biết do cái rét hay sợ hãi. Có vẻ như phải cố gắng lắm, lấy hết hơi sức, bà mới xỉa tay được về phía ông Hương một cái và tru tréo:

– Cái thằng cò Hương kia!

Bỗng nhiên, bà ngừng bặt. Có lẽ bà đã quên hết những điều cần phải tố mất rồi! Chiều nay, bà chỉ có một bát cháo tấm nấu với dây khoai lang già và muối. Đội ra sức nhắc nhở và gợi ý, nhưng bà vẫn không nói thêm được gì, lại còn òa lên khóc tu tu cứ như là cha chết mẹ chết không bằng rồi xì mũi toẹt một bãi rõ to xuống sân đình. Đội chán quá, đành phải cho bà xuống và gọi người khác lên thay thế.

Ông Hương, lúc đầu thì ngạc nhiên, ngơ ngác hết nhìn người nọ đến người kia, không hiểu tại sao mình lại có thể phạm được những tội ác tày trời như thế. Sau, ông phẫn uất, định cãi nhưng Đội đập bàn, bắt phải câm mồm. Cuối cùng thì ông rũ ra như một tàu lá héo, để mặc cho người ta muốn nói gì thì nói.

Hân chỉ mở được mắt ra khi phiên đấu tố đã xong và bị bà Hương đánh thức. Ông Hương bị đưa vào giam lại ở trong đình. Đèn măng xông đã tắt hết, chỉ còn vài cái đèn bão và những bó đuốc chập chờn tỏa về các hướng trong tiếng chó sủa rộ lên ầm ĩ. Đến lúc này Hân mới cảm thấy rét run người vì sương lạnh, bước thấp bước cao theo mẹ và các anh chị đi về.

May mắn cho ông Hương và có lẽ hồng phúc nhà ông vẫn còn, nên sau phiên đấu tố ấy, ông chưa bị đem ra xét xử ngay, nhờ thế mà không bị bắn và cũng chẳng phải đi tù. Lúc này, nơi nọ nơi kia đã nói đến những sai lầm và sửa sai. Nhưng sửa như thế nào, và dễ gì sửa được! Các đồng chí Trung Quốc và cả cấp trên đã từng vạch rõ rằng các chi bộ Đảng đều có phản động chui vào, phải tìm cho ra để mà trừng trị. Ở đâu cũng có năm phần trăm là địa chủ cường hào gian ác. Nếu chưa tìm đủ thì tức là vẫn còn bỏ sót; phải ra sức phát động quần chúng đứng lên đấu tố và dựa vào bà con bần cố nông…

Cấp dưới chỉ còn biết tích cực thi hành. Không có ý kiến ý cò gì hết. Nhiều nơi phải đôn cả những người như ông đồ Hương lên cho đủ chỉ tiêu để đem ra trị tội. Chứ chẳng lẽ xã mình lại chịu thua mấy cái thằng Hân Dân, Đoàn Kết, Tiến Lên… ấy à? Có mà chết!

Không ai có thể ngờ được rằng, người đầu tiên bị xử bắn trong cải cách ruộng đất lại là một phụ nữ. Bà đúng là đại địa chủ, có đồn điền rất to ở Thái Nguyên, trước sau từng hiến cho chính phủ hàng nghìn đồng bạc Đông Dương, hơn một trăm lạng vàng rồi lại còn tích cực hưởng ứng những “mùa đông chiến sĩ” cũng như úy lạo rất nhiều thóc lúa lợn bò… để nuôi quân. Con trai của bà đi bộ đội, có anh đã làm đến trung đoàn trưởng. Nhưng đến khi thí điểm thực hiện cải cách ruộng đất ở ATK (An toàn khu) Thái Nguyên thì người ta quên hết.

Người đàn bà bất hạnh ấy bị xếp vào loại địa chủ cường hào gian ác và có nhiều nợ máu với nhân dân. Một trong những kẻ đứng ra tố cáo bà, lại chính là đứa con gái suýt chết đói năm bốn nhăm, được bà cứu mạng, cho vào làm ở đồn điền rồi còn nhận làm con nuôi. Chẳng biết được người ta phát động thế nào, nó bỗng nhiên kể ra được đủ các thứ tội ác tày trời mà bà mẹ nuôi không hề phạm phải. Bà bị xử bắn, còn hai người con trai của bà thì bị bắt và đem đi cải tạo. Mấy chục năm sau, người ta mới tìm thấy được chút di cốt của bà, nhờ vào chiếc vòng cẩm thạch bà đeo ở cổ tay khi bị đem ra bắn.

Nhưng đau lòng nhất là những trường hợp con tố cha, vợ tố chồng, anh chị em ruột tố lẫn nhau theo đúng phương châm không có cũng phải làm cho thành có, ít thì phải hóa thành nhiều. Chứ chẳng lẽ Đảng nói, Đội nói mà lại sai được à? Hình như không một ai băn khoăn gì về cái tỉ lệ quái gở được định ra từ bên Trung Quốc. Cũng chẳng ai để ý rằng phần lớn những kẻ thật sự có nợ máu với cách mạng đều đã bỏ chạy từ lâu; ở lại miền Bắc chỉ toàn là những người quá tin vào Đảng, lại nghĩ rằng mình chẳng làm gì nên tội và có lẽ bà địa chủ kia cũng là một người như thế.

 

Ông Hương được tha sau hơn một tháng trời bị giam cầm. Phải cố gắng lắm, ông mới vừa đi vừa lết về được đến nhà với hai bàn chân sưng vù, tím lịm. Hai bắp chân thì tóp lại đúng như cẳng chân con cò hương, trong khi đôi mắt gần như lòa hẳn vì thiếu ăn và lâu không được ra ngoài nắng. Ông không biết, lấp ló đằng sau những hàng rào râm bụt và cúc tần, có những cặp mắt nhìn theo ái ngại. Nhưng không ai dám giúp ông vì họ vẫn còn sợ bị vạ lây, bị kết tội tiếp tay cho bọn cường hào gian ác. Đội vẫn đang sờ sờ ra đấy với đầy đủ mọi thứ uy quyền. Bà cò Hương thì đang chạy chợ, mấy anh em Hân còn đi mót ngó rau cần. Không ai biết ông được thả. Vì thế, tất cả đều òa lên khóc khi về đến nhà, thấy ông đang nằm thiếp đi ở trên giường lại cứ tưởng ông đã chết, được người ta khiêng về trả cho gia đình.

Cái cách mà người ta dùng để thả những kẻ bị hàm oan cũng lạ. Không tuyên bố lí do gì hết. Cũng chẳng thấy bóng dáng một “Đội” nào. Một gã du kích mặt non choẹt đầy trứng cá, giọng ồm ồm chỉ lúi húi tháo cùm rồi buông một câu gọn lỏn:

– Ra!

Mấy người bị cùm chung một dãy với nhau ngơ ngác, không hiểu chuyện gì xảy đến với mình. Một người nào đó hỏi:

– Dạ, ra đâu cơ ạ?

– Ra, đi về! Được tha rồi! – Gã du kích hất hàm, không thèm biết những người ấy đều đáng tuổi cha và ông của gã. Ô hay, bọn phản động cơ mà! Việc gì phải tử tế, lễ phép với chúng mày! – Ê thằng kia, ở lại! – Tự nhiên gã quát lên thật to khiến ông Hương giật nảy cả mình.

Thì ra, không phải tất cả đều được thả. Ba người, đúng là có đi lính cho Pháp và làm lí trưởng bị giữ lại, sau đó đưa đi tập trung cải tạo ở một nơi khỉ ho cò gáy nào đó không ai biết. Mấy năm sau, họ mới có thư về cho gia đình. Thư nào cũng nói sức khỏe tốt và ơn Đảng, ơn chính phủ ở đây không thiếu thốn một thứ gì, mọi người cứ yên tâm; họ đang cố gắng cải tạo tốt để sớm được trở về đoàn tụ với gia đình. Rồi nhiều năm sau nữa, chỉ có một người duy nhất về, nhưng lại ngơ ngơ ngẩn ngẩn thế nào… Ai hỏi cái gì cũng đều không biết, câu trước câu sau đã vội cúi đầu, chắp tay xá tội. Hơi một tí đã giật mình, co rúm người lại và chỉ mấy tháng sau thì chết. Vào lúc này, những quả bom Mĩ đầu tiên sắp sửa rơi trên miền Bắc Việt Nam.

Được sửa sai và công nhận không phải là người của Việt Nam quốc dân đảng, không giết ai, ông Hương cũng không còn là địa chủ cường hào nữa mà được hạ xuống làm trung nông lớp trên. Nhưng gần chục mẫu ruộng, năm sào vườn, mấy mảnh ao và những sập gụ tủ chè, hoành phi câu đối… trong ngôi nhà ngói năm gian của ông đều không được trả lại thứ gì. Đã chia hết cho bà con bần cố nông rồi, làm sao mà còn đòi được nữa! Mà thằng nào còn dám đòi? Đã để cho sống là phúc tổ bảy mươi đời nhà chúng mày rồi còn gì! Ông Hương phải cắn răng kéo cày thay trâu (vì nhà ông không còn con trâu nào nữa) trên mảnh đất do cách mạng gia ân, bớt lại cho mà cày cấy.

Nhưng chưa được bao lâu, người ta lại bắt toàn thể nông dân – những người cày bây giờ đã được coi là có ruộng – phải vào tổ đổi công, sau đó là hợp tác xã nông nghiệp, để được ra đồng làm việc, nghỉ ngơi… nhất nhất đều theo hiệu kẻng. Rồi từ hợp tác xã lên hợp tác xã cấp cao, hợp tác xã toàn xã… Người dân thì nghèo đi, nhưng cán bộ lại giàu lên trông thấy. Ông nào cũng xe đạp, nhà xây, vườn cây ao cá đàng hoàng.

Điều đáng nói hơn, là sau khi vào hợp tác, nông dân chẳng còn một chút quyền gì đối với ruộng đất, trâu bò của chính mình từ trước đó, dù là của cha ông để lại hay được cách mạng chia cho. Tất cả đều là của tập thể, trừ mảnh đất năm phần trăm[32] mà người ta cho giữ lại để làm kinh tế gia đình. Từ đó, gần như ở tất cả mọi nơi dân chúng đều sống lay lắt được chủ yếu là nhờ những mảnh đất, thửa ruộng năm phần trăm ấy, chứ không phải nhờ chín mươi lăm phần trăm đã bị mất vào tay hợp tác. Đấy cũng là lúc Đảng và nhà nước kêu gọi nông dân xóa bỏ cái xiềng ba sào[33], đi lấn biển, khai hoang và xây dựng vùng kinh tế mới trên miền núi. Biết bao nhiêu tác phẩm văn thơ họa nhạc ra đời để cổ vũ, động viên với khí thế lay trời chuyển đất. Rất nhiều gia đình ở khắp các miền quê đã bồng bế con cái, dắt díu nhau đi. Nhưng rồi cũng không ít người phải quay về vì chẳng làm ăn gì được.

Không phải chờ đến khi được người ta đến tận nhà vận động làm đơn vào hợp tác xã, mà ngay sau khi thấy khó lòng sống nổi ở quê, ông đồ Hương đã đắn đo suy nghĩ chán chê rồi đi đến quyết định cuối cùng: dắt díu vợ con ra thành phố. Ông trở thành công nhân còn bà thì đi phụ nề ở công trường. Công việc tuy nặng nhọc nhưng bù lại có đồng lương ổn định, được làm người nhà nước, cả nhà được cấp sổ gạo[34] và phiếu thực phẩm. Không còn phải lo nắng hạn, mưa giông, sâu bệnh, mất mùa… Con cái lại được học hành tử tế, lớn lên có việc làm.

Qua đi được mấy năm, Quân, anh trai cả của Hân vừa mới lớn lên đã tình nguyện xin đi bộ đội vì muốn bay nhảy đó đây chứ cứ ru rú xó nhà, chán lắm. Mà hình như anh cũng muốn làm thế nào đó để xóa đi vết đen trong lí lịch của mình, do ông đồ Hương suýt bị xử trí oan. Anh muốn đổi đời. Sau gần ba năm trong quân ngũ, Quân được về phép thăm nhà, ai cũng khen là nom anh cao lớn bệ vệ hẳn lên. Đấy là lúc máy bay Mĩ đã bắt đầu ném bom bắn phá miền Bắc. Đến giữa năm sáu nhăm, anh đi B và không bao giờ về nữa, để rồi mấy chục năm sau, cả gia đình vẫn không biết nắm xương của anh được vùi lấp ở nơi nào.

 

*

*          *

 

Cũng như tất cả những đứa trẻ con nhà nghèo khác ở thành phố trong những năm tháng ấy, Hân gần như không có tuổi thơ. Không đến nỗi phải đói khát, nhưng lam lũ và cơ cực. Mỗi tuần, thịt cá chỉ xuất hiện trong mâm cơm được một hai lần. Tết, trước hết là cách hiểu như mấy ngày được ăn ngon, mặc đẹp, được đi chơi và đốt pháo. Lại còn được tiền mừng tuổi. Cũng trốn học, bơi sông rồi trèo cây, hái quả… Những quả ba giăng[35] xanh bóc ra, ăn nõn bên trong. Quả khô đem về đun bếp. Còn bàng thì chọn quả chín, ăn hết lớp thịt bên ngoài mới đập ra lấy cái nhân béo ngậy, to như đầu đũa, rất ngon. Cũng dối dá gia đình phải đi học tổ[36], nhưng lại trèo rào vào các bãi chiếu bóng xem phim[37]trốn vé, thuộc vanh vách những Xátcô đi tìm hạnh phúc, Cuộc hành trinh qua ba bể, Bông hoa đá, Công phá Bálinh, Ở xa Tổ quốc… rồi Vượt sông trinh sát, Anh hùng Đổng Tồn Thụy, Duyên tiên, Ngọn đèn hoa sen, Hòm thư lưu...

Cả lũ còn giống nhau ở chỗ, quần áo, sách vở toàn là đứa lớn dùng xong thì cho đứa bé. Học lớp năm lớp sáu rồi, vẫn còn có những đứa đi chân đất đến trường. Mùa đông, đứa nào may lắm mới có được chiếc áo len do các anh chị thải ra, cứ thế mà mặc hay đã được tháo ra đan lại hoặc áo bông. Còn phần lớn là hai, ba chiếc áo mỏng mặc chồng lớp lên nhau cho đỡ rét. Da dẻ đứa nào đứa ấy cóc cáy và mốc thếch, môi nứt nẻ đến nỗi không dám cười, vì cứ cười là lại bị rách môi chảy máu. Ngồi trong lớp, nhiều khi đói và rét quá, răng đánh vào nhau cầm cập. Thế mà vẫn học, vẫn đùa, vẫn lớn lên cả một thế hệ những người cầm súng trong chống Mĩ, chống Tàu và các “đồng chí” Khơme đỏ.

Sau sự kiện ngày mồng năm tháng Tám[38] được ít lâu, Mĩ bắt đầu ném bom bắn phá miền Bắc ngày càng dữ dội. Cuộc sống bị đảo lộn hoàn toàn. Mọi người phải sơ tán ra các huyện ngoại thành, đào hố đào hầm gần lớp học, cơ quan, nhà xưởng… Rất nhiều đơn vị dân quân, tự vệ ra đời. Trẻ em đến trường phải đeo nùn rơm, đội mũ rơm để hạn chế thương vong. Nhiều cuộc chia tay không hẹn trước diễn ra. Một số bạn nam mới mười bảy mười tám tuổi, vừa vào năm học mới được ít ngày đã làm đơn tình nguyện đi bộ đội, rồi đi…

Qua hơn một năm đi sơ tán, Hân cao vổng hẳn lên, đã ra dáng một thanh niên. Tay chân thì lóng ngóng, vụng về. Chẳng còn hồn vía đâu để học hành gì nữa, đành đi làm công nhân vậy. Cậu học nghề ở một nhà máy cơ khí rồi cũng vào tự vệ, đi trực chiến, có lần phải đi san lấp hố bom ở sân bay. Đến đầu năm bảy mươi mốt thì phải đi bộ đội trong một tình huống không ngờ.

Số là ngay từ mấy năm trước, ở khắp mọi nơi người ta đã dấy lên phong trào làm đơn tình nguyện đi bộ đội. Tình nguyện, nhưng theo kiểu họp chi đoàn, có cán bộ tổ chức của cơ quan đến dự, phát biểu quán triệt và sau đó hỏi từng người xem có muốn tình nguyện đi bộ đội không. Tất nhiên là không ai lại dám nói “không” rồi. “Quan điểm” chết! Sau đó là giơ tay biểu quyết. Thì giơ! Một trăm phần trăm nhé! Kể cả những cô đang cười rúc rích, chẳng bao giờ nghĩ đến việc mình sẽ phải đi đâu. Ông tổ chức liền yêu cầu tất cả về làm đơn. Thì làm. Hân cũng vậy. Rồi cậu chàng cũng nhanh chóng quên đi việc ấy.

Hân được gọi đi khám sức khỏe, mặc dù trước đó đã có đợt giao quân thuộc khối các cơ quan xí nghiệp. Mà đã đi khám thì chắc chắn được đi bộ đội rồi. Nhưng có hai điều, sau đó Hân mới biết. Thứ nhất, người ta không tuyển được đủ số quân như đã định mà vẫn còn thiếu nên phải gọi bổ sung. Thì mỗi năm gọi đến mấy lần, thanh niên ở đâu mà lớn nhanh cho kịp! Thứ hai, việc đi bộ đội của Hân lại có liên quan đến một cô bạn gái làm cùng xí nghiệp với anh.

Cô gái tên là Loan, con nhà tư sản, da trắng tóc dài. Vì cái thành phần không được tốt nên không được vào đại học, nhưng cô lại không muốn đi trung cấp. Vì thế, đành phải học nghề thợ tiện, làm công nhân. Khổ nỗi, Loan bị coi là người nhiều chữ nên cũng không dễ tìm bạn trong cái xí nghiệp cơ khí thuộc Cục công nghiệp địa phương bé tin hin này. Cô thích Hân vì cái tính hiền lành, nhút nhát nhưng lại hay lí sự cùn của cậu. Còn Hân, chơi thân được với Loan vì thấy cô cũng hay hay, có cái gì đó hơi bạo dạn và sắc sảo. Hai người hay trò chuyện với nhau, rồi đến nhà chơi nhưng yêu thì không vì Loan đã có nới có chốn chỉ còn chờ ngày cưới. Anh này con nhà tư sản từng có nhiều đóng góp cho kháng chiến, đang học năm cuối ở Đại học Nông nghiệp trên Hà Nội.

Tai họa xảy ra khi chẳng may cho cả Hân và Loan là cô bị Niên, anh cán bộ tổ chức trẻ tuổi nhưng không đẹp trai, mắt lại còn hơi lác lác, để ý. Tìm cách gặp gỡ tán tỉnh không được, đến nhà đặt vấn đề tìm hiểu cũng không xong, Niên nhất quyết không tin Loan đã có người yêu mà lại cho rằng Hân chính là vật cản trên con đường anh ta chinh phục trái tim người đẹp. Dứt khoát phải loại trừ cho bằng được! Vừa may, lệnh trên đưa xuống là cần phải tuyển quân bổ sung, xí nghiệp cơ khí này được giao chỉ tiêu hai người. Niên mừng quá, đưa ngay Hân vào danh sách.

 

Hân đi khám sức khỏe, được xếp loại B1. Anh đến chỗ Loan để báo tin. Cô gái không ngạc nhiên một chút nào mà chỉ “Thế à”? Rót xong chén nước cho Hân, cô mới nói:

– Tay Niên nó vừa mới ở đây về.

Thế là rõ. Với Hân, mọi chuyện đã được định đoạt, không còn nghi ngờ gì nữa. Loan hỏi, như để thăm dò:

– Thế bây giờ cậu định thế nào?

– Phải đi thôi chứ còn thế nào! – Hân làm ra vẻ bất cần. – Tớ không muốn trốn, mà có trốn cũng chẳng được! Bố mẹ, anh em lại bị ảnh hưởng… Thôi thì cứ đi, sống xanh cỏ, chết đỏ ngực, lo gì.

– Nói ngược rồi, bạn ơi! – Loan mỉm cười, chữa lại. – Phải là “Chết xanh cỏ, sống đỏ ngực” chứ! Mà… theo tớ thì những người như cậu không đỏ ngực được đâu! Chỉ có chết xanh cỏ thì có lẽ là chắc chắn.

Đến đây, có lẽ cảm thấy mình vừa lỡ lời, Loan liền im bặt. Hân gật đầu và giọng nói bỗng đượm buồn:

– Ừ thì xanh cỏ. Thì… cũng như bao nhiêu người đã chết đấy thôi. Nhưng mà chuyện của cậu với anh Tiến thé nào rồi?

Loan khẽ thở dài, hơi ngần ngừ một lát như thể cân nhắc xem có nên nói hay không:

– Thì… có lẽ cũng đành phải cưới thôi. Cái thằng cha Niên này nó bám dai như đỉa ấy, không tài nào dứt ra được. Khổ nỗi, anh Tiến còn chưa tốt nghiệp, mà cưới rồi cũng chẳng biết ở đâu.

– Về nhà anh Tiến?

Loan lắc đầu:

– Về đấy làm sao được! Cậu không biết đâu, phức tạp lắm. Tiếc là có mấy cái nhà thì đem hiến cho nhà nước với bị trưng dụng hết rồi. Bà nội anh ấy ốm liệt giường đã mấy năm nay, chẳng biết thế nào nên bên ấy cứ đang giục cuống lên mà tớ thì không muốn… Khéo đám cưới của bọn tớ, cậu không về dự được ấy nhỉ.

Hân lại gật đầu lần nữa:

– Có lẽ thế. Nếu tớ phải đi bộ đội.

– Còn “nếu” gì nữa, – Loan nói chắc như đinh đóng cột. – Mười chín tháng này cậu đã phải đi rồi còn gì! Tay Niên nó chưa báo cho cậu biết à?

– Chưa! – Bây giờ thì Hân thật sự bất ngờ. –  Tớ vừa mới khám sức khỏe hôm qua, tưởng phải chờ vài ngày đã chứ!

– Chờ cái gì! – Loan cười buồn. – Người ta đã quyết định hết rồi, ông tướng ơi! Khám với chẳng xét, chỉ là hình thức ấy mà. Tay Niên nó bảo, vừa mới nhận giấy báo[39] ở trên Khu đội[40] về.

Hân ngồi thừ người ra một lát rồi mới lẩm bẩm trong miệng:

– Xem nào… Hôm nay là mồng chín… Thế là tớ chỉ còn được có chưa đến mười ngày nữa…  

– Chín ngày, – Loan khẳng định. – Về mà lo chuẩn bị đi là vừa.

 

*

*          *

 

Cái tin Hân phải đi bộ đội không làm cho ông đồ Hương ngạc nhiên, cứ như là do biết trước. Nhưng bà thì rất buồn, thỉnh thoảng lại thở dài sườn sượt. Đã một đứa đi rồi, nay lại thêm đứa nữa. Chẳng còn biết thế nào, nhưng nghe nói chết nhiều người lắm. Chả thế mà cứ nay gọi đi, mai gọi đi, hết lớp này đến lớp khác. Chỗ nào bây giờ cũng chỉ gặp toàn những ông già bà cả với một lũ trẻ con. Mà chiến tranh thì không biết còn kéo dài đến tận bao giờ. Nhưng bà làm sao mà giữ Hân lại được. Sẽ là bắt bớ, tra hỏi, làm tình làm tội ngay ở tiểu khu và khu phố. Ảnh hưởng đến công ăn việc làm, bị cắt sổ gạo và hộ khẩu. Rồi không dám ngẩng mặt nhìn ai. Vì thế, bà chỉ còn biết cầu giời khấn phật phù hộ độ trì cho con bà ra đi được chân cứng đá mềm, còn sống trở về…

Đám Hân binh bổ sung, té ra cũng chỉ hơn hai chục người phần lớn là học sinh ở nội thành, mặt búng ra sữa. Nhờ thế, với cái tuổi hai mươi mốt, Hân đã được coi là bậc đàn anh. May mắn cho cả đám Hân binh ấy, là họ mới đi được hơn hai chục ngày thì đã Tết. Do chỗ tạm thời đóng quân ở ngay ngoại thành, trọ trong nhà dân nên mọi người được tranh thủ về với gia đình trọn một tuần. Cả nhà ông đồ Hương đều rất mừng, nhưng với Hân, đó là cái Tết buồn thảm nhất trong đời.

Đêm giao thừa, không hiểu tại sao bà Hương, vốn là người rất khéo trong việc tề gia nội trợ, lần đầu tiên đồ mãi vẫn không chín được chõ xôi gấc để cúng. Cuối cùng, bà phải đổ hết gạo ra xóc lại, thay nước rồi chít lại miệng nồi đáy. Lần này thì xôi chín, kịp cho ông làm lễ. Chứng kiến mọi chuyện từ đầu đến cuối, Hân cảm thấy một nỗi sợ hãi mơ hồ choáng ngợp. Phải chăng đây là điềm rất xấu? Một cuộc chia li. Hay là… mình sẽ chết đây? Chia li thì chắc chắn rồi, vì trung đoàn của Hân chỉ tuyển quân, huấn luyện đi B. Tiểu đoàn của anh sẽ phải lên đường sau vài ba tháng nữa. Còn… chết ấy à? Hai mươi mốt tuổi, còn trẻ quá! Chưa kịp yêu ai. Chưa biết mùi đàn bà con gái là gì. Nhưng biết làm thế nào… Trước và sau mình còn bao nhiêu người khác nữa cùng cảnh ngộ. Có ai tránh được số phận đâu! Hân nghĩ thế và chặc lưỡi, chấp nhận tất cả những gì sẽ đến.

Tối mồng hai Tết, Hân rủ Loan đi chơi. Anh đèo cô bằng chiếc xe đạp Peugeot rất đẹp mà gia đình Loan vừa mua cho cô trước đó không lâu. Họ lặng lẽ qua hết phố này sang phố khác dưới ánh đèn phòng không[41] vàng đục. Trời không lạnh lắm, nhưng mưa bay lất phất, đọng trên chiếc mũ mềm và bộ quân phục may bằng vải Triều Tiên nhũn nhẽo của Hân. Phát chán lên vì những chặng đường vô định, cuối cùng Loan nhảy xuống, không để cho Hân đèo nữa. Họ lặng im đi bên nhau một lúc lâu, dường như không còn gì để nói. Mà biết nói gì đây, một anh lính trẻ mới nhập ngũ được ít ngày và một cô gái đang vướng vào mớ bòng bong không dễ gỡ. Anh lính, rồi sẽ ra đi và rất có thể sẽ không bao giờ trở về được nữa. Còn cô gái, ai mà biết được cái gì đang chờ đợi ở đằng kia. Hơn nữa, người ở nhà chắc gì đã an toàn. Bom Mĩ có thể giội xuống bất cứ lúc nào, vào bất kì đâu; bao nhiêu người đã chết thảm ở chỗ này chỗ khác. Tuy miền Bắc tạm yên bình vì Mĩ đã ngừng ném bom, nhưng ai mà biết được mọi sự sẽ thế nào…

Mưa đã nặng hạt hơn, và đúng là Hân không còn biết nói gì với Loan nữa. Có nói gì cũng chỉ thêm buồn. Hai người đành phải chia tay nhau vì sáng mai, Loan phải đi làm sớm. Hết Tết rồi[42]. Hân, thì mãi đến chiều mới phải có mặt ở nơi đóng quân nên chẳng có gì phải vội. Nhưng biết làm thế nào! Anh trao lại ghi đông xe đạp cho Loan và khẽ nói:

– Loan về nhé!

– Chúc Hân đi, mạnh khỏe! – Loan đáp và chìa tay cho Hân. Anh chàng lúng túng cầm lấy bàn tay mềm mại và ấm áp ấy một lát rồi mới buông ra:

– Tạm biệt!

Hân dợm bước nhưng ngoái lại, thấy Loan vẫn đứng im một chỗ. Anh ngạc nhiên:

– Sao Loan không về đi? Ướt hết cả rồi đây này…

– Mình… muốn nhìn theo một lúc, để ghi nhớ mãi hình ảnh của bạn. – Loan nói với một nụ cười méo xệch, khiến Hân cũng cảm thấy nao lòng. – Cậu cứ đi đi. Tớ đã bảo, cậu cứ đi đi mà… Đừng có nhìn lại nhé!

Không biết nói gì hơn, Hân lặng lẽ đi vào trong ngõ. Anh phải cố gắng lắm để không quay lại nhìn Loan lần nữa. Vì thế, Hân không thể biết được cô đứng đó bao lâu, lúc nào mới rời khỏi chỗ ấy, dưới ánh đèn phòng không xao động vì những cơn gió thổi qua làm đung đưa những chiếc chụp đèn.

Mấy tháng sau, Hân may mắn được tạt qua nhà trong dịp người ta cử anh về thành phố mua ít bột màu và giấy vẽ cho đại đội để làm báo tường. Anh không gặp được Loan, vì cô đã lấy chồng và chuyển sang xí nghiệp khác để tránh Niên. Các bạn cũ thì bận mỗi người một việc. Ông Hương, dường như chẳng có gì nhiều để căn dặn con trai, chỉ nhắc Hân đừng cố tỏ ra dũng cảm; hòn tên mũi đạn nó không có mắt đâu. Nhưng cũng đừng hèn nhát. Đừng có dại mà xông lên đầu tiên và cũng không nên là người rút chạy sau cùng. Tuyệt đối không được ham bắn giết. Người ta, ai cũng chỉ được sống có một lần thôi… Hân nhớ mãi câu nói ấy và sau này, khi anh trở về, mặc ai mừng mừng tủi tủi thế nào, ông đồ Hương cũng chỉ ngồi im lặng. Mãi sau, ông mới trút ra được một câu khó nhọc:

– Lẽ ra, thằng anh nó cũng không phải chết.

Tại sao ông Hương lại nói như vậy, Hân không biết và cũng không hỏi. Hơn nữa, có thay đổi được gì đâu! Còn ông, cái ông già mình hạc xương mai ấy, người sau khi thoát chết đận cải cách ruộng đất, phải ăn không biết bao nhiêu là cám nếp để chữa bệnh phù, sống đến tám mươi lăm tuổi. Cứ như là để trả cho xong gánh nợ đời! Những chuyện ấy, chưa bao giờ Hân nói với ai vì sợ người ta không hiểu và thông cảm. Lại còn bị cho là nói xấu chế độ nữa thì gay. Đi tù như bỡn chứ đùa à! Anh cũng không dám kể chuyện mình đã từng bị người ta buộc phải đi xem vụ xử án một tên Việt gian đồng thời là địa chủ cường hào gian ác.

 

Hân cùng với bốn anh chị em và bà mẹ buộc phải ngồi đó, bên cạnh một bụi dứa dại, còn ông bố thì vẫn bị giam trong đình. Gần đấy là hàng nghìn bà con bần cố nông mặt mũi vêu vao, đói ăn, rách mặc. Một số đứa trẻ trạc tuổi Hân và lớn hơn một chút còn leo hẳn lên những cành đa gần đấy để ngồi xem cho rõ. Hỡi ôi, Tòa – gồm toàn những người của Đội còn chưa xét xử mà một cái huyệt đã được đào sẵn ở phía chái đình, bên ruộng lúa và vợ con của người xấu số đã được Đội bắt phải chít khăn tang. Dưới đáy huyệt là một manh chiếu rách, thay cho quan tài.

Loa phóng thanh lục cục lào cào một lúc rồi “Tòa” bắt đầu làm việc. Rất nhanh. Chỉ có một vài câu hỏi và trả lời. Nhưng khác với hôm đấu tố, lần này mọi người bỗng im phăng phắc, nên có thể nghe rõ tiếng khóc rấm rứt đầy ai oán của vợ con người sắp bị đem ra xử bắn cùng tiếng quát bắt câm mồm. Ngồi rất gần cái huyệt nông choèn đang chờ người nằm xuống, Hân gần như chẳng biết người ta đang nói những gì, trừ đoạn đối thoại cuối cùng:

– Trần Đức Đào! – Tòa thét lên bằng một giọng cao chói lói.

– Dạ!

– Tội mày có đáng chết không?                                                           

– Dạ thưa tòa… đáng ạ!                                               

– Nhắc lại đi, tội của mày có đáng chết không?

– Dạ thưa tòa, tội con đáng chết ạ!

Đến đây, tiếng ồn ào, huyên náo dậy lên khiến cho Hân không nghe được gì nữa. Chỉ biết, người ta kể ra rất nhiều tội ác của địa chủ Trần Đức Đào và cuối cùng, Tòa kết án tử hình; bản án sẽ được thi hành ngay lập tức.

Hai anh du kích xềnh xệch lôi người bị kết án về phía chiếc cột lim đã được dựng sẵn bên cạnh huyệt. Có lẽ đó chính là cột nhà cũ của địa chủ cũng nên. Hân thấy rất rõ, là “tên địa chủ cường hào” ấy yếu quá rồi. Hai má ông hóp vào, râu ria lởm chởm, đôi mắt không còn sinh khí. Đã thế, môi trên của ông còn sưng vù, một bên mắt bầm tím và tóc thì bết lại những mảng nâu đen, có lẽ là máu. Trời đất ơi! Người ta vẫn còn đánh đập ông đến tận phút này ư?

Trần Đức Đào bị trói gô vào cột, mặt nhăn lại vì sợi dây thít quá chặt nhưng không dám kêu đau mà chỉ khẽ ối lên một tiếng. Một chiếc cúc áo của ông bị đứt tung, rơi xuống đất, để lộ khoang bụng lép kẹp và ghét gúa. Sau này, Hân mới biết ở nhiều nơi, người ta không cho kẻ sắp bị hành quyết được ăn uống gì trước khi phải chết. Khủng khiếp hơn, có người còn bị những kẻ thi hành án bắt phải ăn một bát cứt hoặc con chuột chết trước khi ra bãi bắn. Nhưng điều đáng nói là khoảng chục năm sau, tấn bi kịch (hay thảm kịch?!) ấy sẽ lặp đi lặp lại nhiều lần ở Trung Quốc, trong Đại cách mạng văn hóa vô sản. Cuộc cách mạng giết chết hàng chục triệu người, từ đương kim chủ tịch nước Lưu Thiếu Kì đến các vị nguyên soái và tướng lĩnh, văn nghệ sĩ nổi tiếng; các nhà khoa học và dân thường. Thế mà đã một thời, người ta coi đất nước ấy là tấm gương và hình mẫu để noi theo, lại còn nêu khẩu hiệu Học tập tư tưởng Mao Trạch Đông kia đấy! Nêu trong Đại hội Đảng và nghị quyết hẳn hoi[43]! Còn nhà thơ ta thì đã có người hứng khởi làm sao khi đưa khẩu hiệu vào thơ: Xít ta, Mao Trạch, Bác Hồ muôn năm!, và viết cứ như không, một cách rất tài tình: Bác Mao tuy ở rất xa, Bác Hồ ta đó cũng là Bác Mao… Giời ạ!

Do phải ngồi quá gần người sắp bị tước đi mạng sống, Hân nhìn thấy ông run lên bần bật vào những phút cuối cùng. Mắt đã bị bịt kín bằng một miếng vải thâm chẳng biết xé ra từ cái váy đụp nào, ông nghiêng nghiêng mái đầu phờ phạc, ý chừng xem có nghe được tiếng thét gào của vợ con mình không. Chẳng ngờ, vợ con ông bỗng nhiên lặng phắc cả một lượt, chỉ nhìn ông bằng những cặp mắt đỏ ké, sưng vù, đầy vẻ xót xa oán hận và bất lực. Rồi đúng vào lúc đám du kích lên đạn, thì người xấu số bỗng rùng mình một cái. Hân cảm nhận rõ ràng cứt và nước đái của ông vọt ra cùng với tiếng súng nổ rất đanh. Kẻ bị bắn giật nảy mình, ngực và bụng loang những máu rồi cái đầu ông bỗng từ từ ngoẹo sang bên, nhưng hình như ông còn chưa chết hẳn.

Chỉ huy đội hành quyết bước tới, một tay túm tóc nạn nhân để kéo thẳng cái đầu lên, tay kia gí nòng súng ngắn vào thái dương của ông, nổ thêm một phát. Trong đôi mắt khiếp đảm của Hân, rõ ràng là người bị bắn đã lắc đầu, như để từ chối phát đạn cuối cùng và cậu bé không hiểu tại sao lại có thể như thế được. Mãi đến sau này, khi lớn lên Hân mới biết, đó là một hiện tượng cũng bình thường. Viên đạn và luồng hơi từ nòng súng ở cự li quá gần dường như đã đẩy mạnh cái đầu của Trần Đức Đào sang một bên nên cậu bé mới có cảm giác ông lắc đầu như thế.

Bây giờ thì cái đầu ấy dường như đã rụng xuống ngực rồi. Hai anh du kích dùng liềm cắt dây trói rồi khiêng cái xác còn tươi nguyên ấy quăng xuống huyệt. Người khác bê mảnh thuyền nan cũ nát, chụp theo. Loại thuyền được đan bằng tre, bé tí, người ta vẫn dùng để đi vớt bèo, hái rau muống, củ ấu, hoa sen… ở các hồ, đầm. Đến lúc này, Hân mới thấy hình như bàn chân lấm láp của ông Đào duỗi thẳng. Và cũng đúng lúc này, không hiểu tại sao loa phóng thanh lại ông ổng vang lên lời hát Đời mới ai ơi, đời mới tuổi thanh niên như nắng xuân đang reo cười trong cuộc sống cách mạng…

Những hình ảnh ấy như cái dấu bằng sắt được nung đỏ, đóng vào tâm trí Hân, không bao giờ phai nhạt và sẽ còn ám ảnh cậu trong suốt cả cuộc đời. Rằng tại sao lại có những điều phi lí như thế xảy ra, và tại sao người ta có thể tàn ác, dã man với đồng loại của mình đến thế? Phải chăng cái tội của những người bị đem ra đấu tố kia, dù bị bắn hay không, là ở chỗ họ trót giàu hơn thiên hạ một tí. Mà Đảng ta thì chủ trương phải đánh đổ và tiêu diệt hết những người giàu, những kẻ được quy cho cái tội áp bức, bóc lột dân nghèo, kẻ thù của cách mạng. Nhưng nhìn lại mới thấy sự giàu có ấy thảm hại làm sao! Chỉ cần có độ mươi mười lăm mẫu ruộng, dăm bảy con trâu bò, có nhà ngói sân gạch và thuê một số người làm là đủ chết rồi.

Rất lạ, là suốt từ trên xuống dưới, từ thành phần cốt cán cho đến các nạn nhân, không một ai dám kêu ca, phản đối hay kiến nghị gì, để sự việc kéo dài đến tận mấy năm trời. Thế mà ở quê ngoại của Hân vẫn có người đã bị bịt mắt, trói vào cột rồi còn cố lấy chút hơi tàn, hô lên thật to: “Hồ Chủ tịch muôn năm”!, “Đảng Lao động Việt Nam muôn năm”! trước khi súng nổ.

Thật ra, cũng có một số ít tìm lối thoát bằng cách tự treo cổ mình lên hoặc nhảy xuống sông để khỏi phải ra bãi bắn. Số khác, trốn khỏi địa phương đến một nơi nào đó rất xa để mai danh ẩn tích, nhưng vẫn bị phát hiện và bắt về trị tội như thường. Việc nhận ra những sai lầm khủng khiếp trong cải cách, dường như chỉ bắt đầu khi một lãnh đạo cấp rất cao ở tận trung ương đi xe con về quê, suýt bị du kích bắt vì ông đúng là con của một đại địa chủ trong vùng. Đội thì không thèm biết ông là ai, vì lúc đi hoạt động, ông dùng bí danh rồi bí danh ấy biến thành tên chính thức. Nhưng ở quê, người ta chỉ biết ông dưới cái tên khai sinh, là con nhà địa chủ thôi. May mà bố ông đã qua đời từ lâu, nên chẳng có cách nào mà đem ra đấu tố. Anh em của ông thì cũng đi hoạt động hết, không còn ai ở làng.

Hơn một tháng sau, có lệnh sửa sai. Trần Đức Đào được công nhận là địa chủ yêu nước, ủng hộ và giúp đỡ kháng chiến rất nhiều. Ông đã từng đào hầm bí mật, nuôi giấu cán bộ và du kích đi về hoạt động. Nhưng ông chết vì chính những người ấy đứng ra tố cáo ông đã đày đọa, giam cầm họ. “Trong nhà có đến mấy bồ thóc mà mỗi ngày mày chỉ cho chúng tao mỗi người được một nắm cơm to bằng quả trứng vịt, ăn với muối vừng và một chai nước, ỉa đái cũng ở dưới hầm”… Trần Đức Đào cãi rằng có muốn cũng không dám nấu nhiều cơm hơn vì sợ bị người ta nghi ngờ, đi báo cho Tây thì chết. Còn cái sự đái ỉa ấy thì chẳng làm thế nào khác được vì nếu nhô lên, lộ bí mật thì nguy. “Con đã đưa cho các cán bộ ít mo cau với cả gio bếp để lấp đi đấy thôi”… Nhưng không ai nghe ông nói. Cấm không cho nói. Người ta đập bàn quát tháo, bắt ông nhận đủ các thứ tội mà một số cán bộ và bà con bần cố nông đã tố. Và…

Thế là hết!

Tuy được sửa sai, nhưng Trần Đức Đào cũng như tất cả những ai bị giết nhầm đều không được công nhận là liệt sĩ, tài sản gần như không được trả lại gì vì đã bị chia quả thực hết rồi. Con cái của những người bị xử trí oan, theo chỉ đạo từ trên xuống, tuyệt đối không được tuyển dụng vào những ngành nghề trọng yếu như công an, quân đội hay tòa án để đề phòng bất trắc. Chỉ có được niềm an ủi rất mỉa mai, là từ nay không còn phải sợ gì nữa, không còn buộc phải xưng con với đứa nào; ra đường đã có thể ngẩng mặt lên và tha hồ mà chửi những kẻ tố điêu, đẩy người vô tội vào chỗ chết. Các phần tử cốt cán một thời gian nhờ oai của Đội, làm mưa làm gió với dân làng thì bây giờ chẳng dám nhìn ai, có người còn phải trốn đi nơi khác. Thảng hoặc, trong đêm tối có anh còn bị đánh vỡ đầu, què chân, rạch miệng… mà không tìm được ra thủ phạm.

Nhưng dù thế nào, tổn hại do những kẻ ăn không nói có, ngậm máu phun người ấy gây ra cũng là rất lớn, dẫn đến những mối thâm thù kéo dài. Cũng từ đó, dường như một bầu không khí nghi ngờ, đố kị bao trùm lên khắp xóm làng, không ai còn tin ai nữa. Nhưng đó mới chỉ là chuyện trong một xã, một làng. Còn trên phạm vi toàn miền Bắc thì sao? Không ai biết được có bao nhiêu người bị chết oan trong cuộc cải cách kinh hoàng ấy, và những hệ lụy, tổn thương mà nó để lại trong tâm thức của hàng triệu con người sẽ kéo dài đến tận bao giờ. Cũng giống như vào cái thời Xô viết Nghệ Tĩnh, khẩu hiệu Trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ đã được bà con bần cố nông và các Xích vệ đỏ ở hai tỉnh ấy thực thi triệt để.

Cho đến nhiều năm sau, Hân vẫn không hiểu được mục đích thật sự của cải cách ruộng đất là gì? Đánh đổ giai cấp áp bức bóc lột thì hẳn rồi, cách mạng mà! Nhưng liệu có cần phải làm đổ máu nhiều đến thế không? Đem lại ruộng đất cho dân cày nghèo, thực hiện khẩu hiệu Người cày có ruộng ư? Vậy nên hiểu như thế nào, khi mà chỉ bốn năm năm sau cải cách, trên thực tế, chính sách hợp tác hóa nông nghiệp đã tước đi quyền sở hữu ruộng đất của người dân. Tất cả mọi thứ đất đai đều biến thành tài sản chung mà nhà nước là đại diện, tức là không còn của cá nhân nào nữa cả! Cũng từ đó, mọi vấn đề liên quan đến đất đai đều do các cấp chính quyền từ địa phương đến trung ương quyết định. Người dân chỉ còn được quyền sử dụng đất mà thôi. Cái quyền ấy, té ra lại rất phập phù: nó sẽ bị mất ngay vào bất cứ lúc nào, khi người ta muốn thu hồi đất.

Thu hồi! Tự nó, cái từ này đã cho thấy đất là của ai. Không ai có thể thu hồi được cái không phải của họ. Những người làm luật của chúng ta, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, kể cũng giỏi trong việc sử dụng ngôn từ. Không ai có quyền sở hữu ruộng đất và cũng không được mua bán đất. Nhà nước chỉ cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất  thôi. Nhưng như thế cũng quá đủ cho bao nhiêu người trở thành tỉ phú chỉ sau một đêm nhờ việc chuyển nhượng này, nhất là kể từ sau đổi mới, khi đất đai bỗng nhiên trở thành một thứ lộc trời cho vô cùng béo bở để các cán bộ ở khắp mọi nơi chia chác, giành giật, ban phát cho nhau một cách vô tội vạ. Không hiếm những ông quan, bà quan cách mạng và người thân của họ có trong tay đến hàng chục, hàng trăm héc ta đất các loại. Thế thì còn đâu ruộng đất cho nông dân cày cấy nữa? Khẩu hiệu Người cày có ruộng  xem ra đã quá cũ rồi! Bây giờ, không cần ruộng nữa! Nông dân ra thành phố mà cày! Cũng từ đây, bao nhiêu bi kịch đã xảy ra, thậm chí cha giết con, vợ giết chồng, anh em đâm chém lẫn nhau vì tranh giành ruộng đất. Rất nhiều vụ án phức tạp, kéo dài hàng chục năm trời liên quan đến đất đai mà sự thua thiệt dường như luôn luôn được dành cho những người lép vế.

 

*

*          *

 

Không biết Phương Linh nghĩ gì về mình, nhưng Hân thấy ở cô có cái gì đó thật dễ gần, lúc nào cũng tỏ ra cởi mở. Không những thế, cô còn rất quảng giao, đi đâu cũng có bạn, kể cả người Việt Nam lẫn nước ngoài. Phương Linh sẵn sàng tham dự các cuộc vui, bày tỏ ý kiến của mình về một vấn đề nào đó và cũng không thiếu những câu nói dí dỏm, đem lại cho mọi người những tiếng cười vui vẻ. Khác hẳn những cô gái Bắc nói chung như Hiền, như Chi hay ai đó.

Tất nhiên, Hân có thể cắt nghĩa được điều này. Sinh ra và lớn lên ở miền Bắc thì làm sao mà khác được. Anh biết, nhiều người cho đến trước khi sang đây học còn chưa dễ có một bát cơm không phải độn ngô, khoai hay sắn, cũng chưa từng được xỏ chân vào một đôi giày. Những người khác, chỉ đến khi vào Trường ngoại ngữ Thanh Xuân mới biết thế nào là đèn điện và nước máy. Còn những thanh niên có cuộc sống như Vượng hoặc Cường thì hiếm. Họ dường như thuộc về một đẳng cấp khác trong xã hội. Đẳng cấp của những cán bộ cỡ trung cao trở lên, tem phiếu loại C hoặc B[44], rất nhiều thứ được cung cấp theo giá phân phối của nhà nước với định lượng gấp nhiều lần người khác.

Hân không thể nào quên, những lần anh về quê đem theo vài ba lạng đường kính hay ít mì chính để biếu họ hàng đã được coi là món quà quý lắm. Người ta liền đem cất giấu, dành dụm chứ chẳng mấy khi dám đem ra dùng. Đi đường, thấy bất kì ông nào áo quần tươm tất, mặt mũi đầy đặn hồng hào một chút, ngồi ô tô con thì chắc chắn đó phải là cán bộ kha khá. Xe Lađa và Vônga là của thứ, bộ trưởng hoặc tương đương. Dân chúng thì ai cũng như ai đều giống nhau ở những bộ áo quần rách vá, mặt mũi xương xẩu và nước da xám ngoét. Chân đất, đi guốc gỗ hoặc dép cao su đen; sang lắm mới có đôi dép nhựa. Rất nhiều người không có nổi một đôi tất, còn giày da thì tuyệt đối không! Thứ đó chỉ dành cho cán bộ cấp cao, những người làm công tác đối ngoại của nhà nước hoặc đám nhà giàu. Sĩ quan quân đội cũng có giày da, nhưng đấy là loại giày da to tướng và nặng trịch, được gọi là giày Côxưghin do Liên Xô viện trợ. Mỗi đôi giày ấy phải nặng tới hai ba cân và bền khủng khiếp, có khi đi đến vài chục năm cũng chưa sợ hỏng.

Chuyện trò với Phương Linh, Hân mới biết gia đình cô tuy đi theo cách mạng thật đấy, nhưng cũng đâu có nghèo khổ gì. Vốn dĩ người gốc miền Tây, ba của Linh lên Sài Gòn ăn học, rồi từ đó mà tham gia cách mạng và kháng chiến. Trong khi những người khác cầm súng thì ông cầm bút, làm công tác thông tin tuyên truyền. Lấy vợ Sài Gòn, qua những năm tháng gian nan ở bưng biền, ông tập kết ra Bắc và sống ít năm ngoài đó. “Tiêu chuẩn” cao, vật chất không đến nỗi khó khăn, lại có thời gian được đi học ở nước ngoài nên nỗi khổ tâm lớn nhất của ông trong thời gian đó là sự xa cách người vợ trẻ và đứa con gái còn nhỏ xíu. Vì thế, sau khi trở lại miền Nam, ông đã tìm cách móc nối, đưa vợ con vào rừng ở với mình.

Ở rừng, nhưng những cán bộ chín năm[45] gốc miền Nam như bố của Phương Linh lúc nào cũng sống rất đàng hoàng. Quần áo được may đo cẩn thận. Tăng võng ni lông, đèn ngoéo[46], dao găm, bi đông, bật lửa Zippo…, tất cả đều là của Mĩ. Đấy dường như là một tiêu chí để xếp họ vào loại tay chơi thứ thiệt ở trong rừng, một thứ thượng lưu quý tộc trong các cơ quan dân chính Đảng và quân đội.

Có điều kiện sống như vậy, là do những cán bộ này thường xuyên nhận được đồ tiếp tế từ gia đình; mua tại các cửa khẩu biên giới hay khu vực giáp ranh giữa ta và địch. Vì thế mà ngoài tiêu chuẩn nhu yếu phẩm được đơn vị cung cấp hằng tháng, họ vẫn có rất nhiều thứ dùng ngoài. Trừ những lúc vào chiến dịch hoặc chẳng may bị địch càn, về cơ bản cuộc sống của họ khá đầy đủ. Nhiều người còn có cả đài bán dẫn National hoặc Hitachi[47] để nghe tin tức và ca nhạc, đeo đồng hồ Thủy quân lục chiến[48]. Trong ba lô thường có dăm ba chỉ vàng để dự phòng. Lán của họ nhiều lúc thơm lừng mùi cà phê, thuốc lá loại ngon như Capstan, Ruby Queen… và những thứ trà nổi tiếng.

Cuộc chiến tranh, đứng ở một góc độ nào đó là một cuộc chiến lạ lùng. Chủ yếu là người Việt Nam đánh nhau với người Việt Nam, sử dụng những loại vũ khí của hai phe đối đầu để giết nhau, nhưng với ta thì trận chiến dường như chỉ diễn ra trên đất địch. Thực tế là trong suốt mấy chục năm, bộ đội miền Bắc có thể đi bất cứ đâu, tác chiến ở bất cứ nơi nào. Nhưng không một người lính bộ binh nào của quân đội Mĩ hoặc Sài Gòn đặt chân được lên đất Bắc, trừ không quân và hải quân đánh phá, phong tỏa hay quấy rối. Còn các toán biệt kích, thám báo nếu có tung được ra thì cũng nhanh chóng bị tiêu diệt hoặc vô hiệu hóa ngay. Và phải sau khi chiến tranh kết thúc khá lâu, dần dà người ta mới biết các tình báo viên cộng sản giỏi đến mức nào: họ có mặt ở ngay cả những cơ quan đầu não của đối phương, gần như lấy được tất cả những thông tin nào mà họ muốn và nhanh chóng chuyển về cho cấp trên. Thế thì người Mĩ và chính quyền Sài Gòn làm sao mà thắng nổi!     

 

Hân còn nhớ, lần đầu tiên anh nhảy với Phương Linh trong một cuộc vui. Từ chối mãi không được, vì thật sự là anh không biết nhảy, nhưng cuối cùng Hân cũng đành phải ôm hờ lấy vai Linh và lúng túng giẫm lên chân cô đến mấy lần khiến cô phát phì cười. Cô đập đập khẽ vào tay Hân và bảo:

– Đây, anh phải ôm em như thế này này!

Cô kéo tay Hân dịch xuống đúng eo lưng mình, trong khi đôi chân vẫn chuyển động theo điệu slow dìu dặt. Có lẽ Phương Linh không biết, vì quá cao so với cô nên đôi vòng tay của Hân chỉ dễ dàng ôm lấy phần bả vai cô, còn dịch xuống phía dưới thì bất tiện. Thêm vào đó là cảm giác hơi rạo rực khi anh được ôm một người khác giới rất dễ thương, với những động chạm không tránh khỏi. Vậy mà đến khi kết thúc điệu nhảy, Phương Linh lại làm ngay một câu xanh rờn:

– Kinh bỏ xừ!

Hân chưng hửng, không biết cô gái “kinh” cái gì nữa, nhưng bất giác anh cảm thấy mặt mũi nóng bừng. Trong khi đó, Phương Linh đã lại cùng với Cường quay cuồng trong một điệu nhảy ồn ào, sôi động.

Có cảm giác, Phương Linh hầu như chẳng bao giờ phải lo nghĩ đến chuyện mua cái gì gửi về nhà. Bảy mươi rúp học bổng có lẽ được cô dành hết cho việc ăn uống, đi lại và tiêu vặt. Phương Linh rất ít đi chợ, nấu cơm mà chủ yếu là ăn ở căng tin hoặc mua thực phẩm đã được chế biến sẵn về cho tiện. Cô cũng không phải chi một đồng nào cho việc mua sắm quần áo vì tất cả những thứ đó đều được cô đem từ bên nhà sang. Rất đẹp và mốt, đến nỗi nhiều bạn Tây cũng như ta phải ngạc nhiên. Và cái gu thẩm mĩ của cô thì rõ ràng không phải là xoàng. Phương Linh cười vào cái màu xanh Sĩ Lâm mà Ánh và Hiền ao ước. Tất nhiên là cười sau lưng thôi, cùng với nhận xét: “Quê một cục”!

Tiếp xúc với Phương Linh và Cường một thời gian, Hân vỡ vạc ra được nhiều điều. Ví dụ như những thói quen, tập quán của người Nga, những điều mà người Việt mới sang đây nên chú ý. Chẳng hạn như không la hét, gọi nhau trên các phương tiện giao thông công cộng, ra vào phải đóng cửa, muốn đến nhà ai phải báo trước và không hỏi tuổi phụ nữ, v.v. Toàn những thứ tưởng chừng nhỏ nhặt, không có sách vở nào nói tới nhưng không bỏ qua được, nếu anh không muốn làm một kẻ khác thường trong con mắt mọi người.

Cũng qua Phương Linh mà Hân biết, tuyệt đối không được khen ai béo, đừng bắt tay nhau khi một người đứng trong và một người đứng bên ngoài cửa; trước khi đi đâu xa, phải ngồi yên một lúc để lấy may… Nhưng Hân cũng ngạc nhiên khi thấy Phương Linh đóng đinh vào suy nghĩ của cô, rằng anh là một người cổ lỗ sĩ, không dễ gì thay đổi. Hân không cãi lại bởi vì đúng là anh không thể sống như cô được. Nhưng như vậy đâu có gì là sai? Hay phải sống như cô mới có thể được coi là hiện đại? Và hiện đại như thế để làm gì? Đây cũng chính là điểm khác biệt hoàn toàn giữa Hân và cô gái Sài Gòn mà anh không hề muốn xóa đi. Không để làm gì hết.

 

*

*          *

 

Vào dịp Tết dương lịch, tại phòng chiếu phim của khu kí túc xá, người ta cho chiếu Số phận trớ trêu, một bộ phim hài vừa mới được phát hành. Chuyện phim bắt đầu từ tình huống mang tính giả định: nhân dịp ngày cuối cùng của năm, một nhóm bạn thân rủ nhau đi tắm hơi theo truyền thống của người Nga. Ở đó, người ta chuốc say cho một anh chàng chưa vợ. rồi đưa anh ta ra sân bay, bay đến Lêningrát. Thành phố này, lạ lùng thay cũng có một khu dân cư mới được xây dựng, lại trùng tên với khu vực mà anh này đang sống ở Mátxcơva, với những dãy nhà giống hệt.

Chàng thanh niên đi tắc xi đến ngôi nhà đúng như số nhà của anh ở thủ đô. Với chiếc chìa khóa của mình trong túi, anh ta mở cửa căn hộ ở đây mà không hề biết rằng đó là nhà của một cô giáo trẻ, người đang sắp sửa đón giao thừa cùng với chồng sắp cưới. Anh chàng say rượu lăn ra ngủ, và chỉ tỉnh dậy khi bị chủ nhân thật sự của căn hộ bực mình đánh thức. Hàng loạt sự kiện oái oăm, hài hước diễn ra, hết chuyện này sang chuyện khác. Cuối phim, cô gái chia tay người chồng sắp cưới của mình, về Mátxcơva rồi… bằng chiếc chìa khóa từ Lêningrát, mở được cửa vào căn hộ của anh chàng mới quen. Cô người yêu cũ của anh này, sau những hiểu lầm và ghen tuông bột phát, đã nói lời tạm biệt với anh. Một tình yêu mới nảy nở trên sự đổ vỡ của hai tình yêu cũ! Một bộ phim đánh mạnh vào thói quan liêu, trì trệ và sự rập khuôn trong công việc và cuộc sống của người dân Liên Xô.

Hết phim, Hân đang chầm chậm bước ra cửa thì bất ngờ thấy có người khẽ giật giật áo của anh. Hân quay lại, thì ra là Phương Linh mà không có Cường bên cạnh. Cũng lạ đây! Cô tròn mắt lên nhìn anh với vẻ ngạc nhiên:

– Trời, anh Hân! Anh cũng đi xem phim này ấy hả?!

– Xem chứ! – Hân gật đầu và khẽ mỉm cười. – Phim hay mà.

– Tuyệt vời! – Phương Linh giơ một ngón tay cái lên. – Thế mà em cứ tưởng…

“Tưởng chỉ có những người như em mới thích được bộ phim này ấy à”? – Hân thầm nghĩ nhưng không nói ra lời. Đúng là anh rất thích bộ phim, nhưng cái làm cho anh còn thích hơn, là những vấn đề được đặt ra qua chuyện tình yêu của các nhân vật trong đó. Tuy nhiên ở Việt Nam, có lẽ không ai dám nhập khẩu phim này, và nếu đã trót nhập rồi, thì chắc gì đã được đem ra chiếu. Người ta sợ sẽ lại sinh chuyện, hệt như điều đã xảy ra với những bộ phim được xếp vào hàng kinh điển của Liên Xô, như Người thứ bốn mốt, Bài ca người lính Bầu trời trong sáng của đạo diễn G. Chukhơrai đầu những năm sáu mươi.

Nghe nói, sau khi cho phát hành một thời gian, thấy dân mình nô nức đi xem và bàn tán rất ghê, lại thêm ảnh hưởng từ Trung Quốc hay sao đó nên một nhà lãnh đạo công tác văn hóa tư tưởng của Đảng đã đích thân xem lại những bộ phim đó. Rồi ông kêu lên: “Cho chúng nó (ý ông là bộ đội nói chung) xem để chúng nó quăng hết súng đi à”?! Thế là những tác phẩm lừng danh ấy bị vứt chung vào trong một cái sọt với hai chữ rõ to: Xét lại. Tức là phim được làm theo quan điểm của chủ nghĩa xét lại hiện đại, thủ tiêu đấu tranh giai cấp, xóa bỏ mâu thuẫn địch ta, chấp nhận chung sống hòa bình với phe đế quốc chủ nghĩa. Lại chỉ toàn xoáy sâu vào những đau thương mất mát, gieo rắc tâm lí sợ chiến tranh; bôi nhọ thanh danh người lính và quân đội cách mạng, xúc phạm lãnh tụ Xtalin vĩ đại… Phải cấm ngay lập tức!

Người ta còn cho phổ biến rộng rãi cuốn sách mỏng Mẫu mực nghệ thuật của chủ nghĩa xét lại hiện đại của Trương Quán Niên, trong đó học giả Trung Quốc này đã phê phán nặng nề ba bộ phim trên và đạo diễn Liên Xô nổi tiếng. Sách được Nhà xuất bản ngoại văn Bắc Kinh in bằng tiếng Việt, phát hành miễn phí và biến thành tài liệu học tập, một thứ khuôn vàng thước ngọc cho những người làm nghệ thuật Việt Nam. Nhưng bài viết Họ khư khư ôm lấy cái cũ của Chukhơrai phản bác lại những quan điểm của Trương thì chẳng được ai nói tới.  

Qua đi mấy chục năm, cho đến tận khi gió đã đổi chiều, Goócbachốp tiến hành cái gọi là perext’rôica – cải tổ, Việt Nam mới dám cho truyền hình chiếu lại Bài ca người lính với những lời ca ngợi tưởng không thể nào hơn được nữa. Một số tác phẩm văn học của các tác giả từng bị cấm hoặc hạn chế nói đến dưới thời Liên bang Xô viết được dịch và in nhưng sau đó lại thôi. Liên Xô hỏng rồi! Sụp đổ rồi! Ngưởi anh cả trong phe Xã hội chủ nghĩa, quê hương của Lênin và Cách mạng tháng Mười đã chôn vùi luôn chủ nghĩa cộng sản và những lí tưởng cao đẹp mà nó từng hướng tới. May sao Số phận trớ trêu lại được Truyền hình Việt Nam phát sóng. Khán giả Việt Nam có thêm cơ hội để hiểu thêm về nền điện ảnh của Liên bang Xô viết một thời.

 

 

            Ba

 

Năm một nghìn chín trăm sáu mươi tám.

Sau đợt Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân độ vài ba tháng, bao nhiêu hi vọng vào ngày toàn thắng sắp đến có vẻ như đã tan dần. Chẳng còn đâu cái không khí náo nức và phấn chấn như những ngày đầu chiến dịch, khi mà loa phóng thanh dường như suốt ngày chỉ oang oang báo tin chiến thắng và suốt ngày, người ta bàn tán về tình hình chiến sự ở miền Nam.

Qua đợt Tổng thứ hai vào giữa tháng Năm, ở quê Hân thỉnh thoảng lại có giấy báo tử về cho các gia đình. Nhưng những con số ấy liệu đáng là bao so với những người ra đi qua các đợt tuyển quân liên tục. Tiêu chuẩn sức khỏe để đi bộ đội cũng được hạ xuống: nếu như trước kia, chỉ những ai được xếp loại A mới có vinh dự lên đường nhập ngũ thì bây giờ, người ta lấy cả loại B. Cụ thể, chỉ cần cao một mét năm nhăm, nặng bốn mươi lăm ki lô gam là đã đạt rồi.

Làng trên xóm dưới chỉ còn lại toàn những ông già bà cả, vài gã trung niên mắt lác lưng gù và đám đàn bà con gái cày bừa cấy hái với nhau. Mà ngay cả lũ con gái ấy, nhiều cô cũng tình nguyện làm đơn xin đi thanh niên xung phong hoặc đi bộ đội. Và tất cả bọn họ gần như tan biến ngay vào một thế giới vô hình nào đó.

Rất ít lá thư được gửi về từ các chiến trường. Những lời đồn đại thì ngày một nhiều hơn nhưng không ai biết chắc được sự thể là như thế nào, mặc dù người ta vẫn rỉ tai nhau, thằng ấy thằng kia con nhà này nhà nọ chết rồi, hoặc con bà ấy bị bom ngay trên đường đi. Nhưng chẳng ai có cách gì để mà kiểm chứng. Lại còn phải nhìn trước ngó sau vì nếu không cẩn thận sẽ bị khép vào tội phao tin đồn nhảm hoặc phản tuyên truyền thì chết! Cái khẩu hiệu ba không (Không biết, không nghe, không nói) được đề cao hơn bất cứ lúc nào.

Tất cả những điều ấy, Hân biết được qua những lần về quê hoặc nghe kể lại. Nhưng ở ngay chỗ anh, thanh niên cũng vợi đi trông thấy. Nhiều người, vừa mới hôm nào còn gặp, tuần sau đã biến đi đâu mất. Ít tháng nữa, có thể họ sẽ được về qua nhà, xúng xính trong những bộ quân phục có khi còn chưa kịp bạc màu, nghỉ phép để đi B. Và đêm đêm, thỉnh thoảng lại có tiếng xe Xítđờca[49] của công an chạy vào ngõ này ngõ khác. Sáng ra mới biết, lại có thêm những phần tử lưu manh phản động, tề ngụy cũ hay bất mãn chống chính quyền… bị bắt đi rồi. Bầu không khí lo âu, nơm nớp dường như cứ lửng lơ quanh quẩn trong từng bữa ăn giấc ngủ của rất nhiều người. Vì thế, ai nấy đều tỏ ra thận trọng trước khi dám thì thào một điều gì đó.

Sang tháng Sáu, cái không khí mong chờ chiến thắng gần như lụi hẳn. Các bản tin trên Đài Tiếng nói Việt Nam nói ít hơn về chiến sự ở miền Nam; con số máy bay Mĩ bị bắn rơi trên miền Bắc cũng giảm. Giônxơn đã ra lệnh ném bom hạn chế miền Bắc và lần đầu tiên sau nhiều năm chiến tranh, ta và địch đã phải ngồi lại với nhau ở Paris để tranh cãi, bàn việc kí kết một hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Nhưng dường như chẳng mấy ai trông đợi gì vào điều đó. Mọi cái vẫn còn đang hết sức xa vời.

Theo quy định của nhà nước, mấy năm ấy người ta không tổ chức thi đại học. Học sinh tốt nghiệp cấp ba chỉ cần làm đơn và nộp hồ sơ, sau đó sẽ được xem xét, gọi vào các trường đại học, cao đẳng hay trung cấp chuyên nghiệp tùy từng trường hợp. Người ta còn đặc cách cấp bằng tốt nghiệp phổ thông cho bất cứ ai lên đường nhập ngũ sau khi đã học hết học kì Một hoặc dở dang học kì Hai, như một cách động viên, khích lệ đám thanh niên ra trận và những người thân của họ.

Nhưng rất nhiều người không được đi đại học vì bị chính quyền địa phương, cụ thể là ông trưởng thôn, bí thư hay chủ tịch xã ghét vì một lí do nào đó. Ví dụ như trong gia đình đương sự có người dám cãi nhau với vợ con của các vị ấy chẳng hạn. Giấy gọi đi đại học rất có thể sẽ bị đem giấu biệt, thay vào đó là mời đi khám sức khỏe để làm nghĩa vụ quân sự. Đau hơn nữa, có những người được gọi đi học ở nước ngoài hẳn hoi, nhưng nước ngoài đâu chẳng thấy, lại bỗng được đi bộ đội và cuối cùng chết ở chiến trường. Cá biệt, có khi chỉ đơn giản vì người ta giữ lại chỉ vì… không thích cho anh đi đại học. Thế là đủ thay đổi hoàn toàn số phận một con người.

Những trường hợp như thế, đến một lúc nào đó nếu bị lộ ra sẽ được giải thích, do giấy báo đi học được gửi về muộn quá, hoặc bị thất lạc, là xong. Không bao giờ và cũng chẳng có ai phải chịu trách nhiệm gì về chuyện đó. Chỉ những nạn nhân của tình trạng ấy là chịu thiệt và nếu còn sống, họ cũng chỉ biết kêu trời. Mà trời thì ở quá cao, lại luôn luôn im lặng. Còn khiếu nại hay phản đối ư? Vô ích! Và hãy coi chừng, nếu anh dám điên lên mà chửi một ông bí thư chi bộ hay chủ tịch xã, thì có thể bị khép vào tội chống Đảng, chống chính quyền ngay lập tức, chỉ có nước rũ tù! Biết bao nhiêu tấm gương sờ sờ ra đấy.

 

Không bao giờ Hân có thể quên chuyện xảy ra với Dần, bạn học nghề cùng khóa với anh. Trong khi nhiều đứa may mắn được theo nghề phay, bào, hàn, tiện… hoặc như Hân là thợ nguội thì cậu ta lại phải học nghề thợ sắt, vốn vẫn bị coi là dân ăn no vác nặng ngang với thợ rèn. Tuy phiếu gạo được hai mươi mốt cân, nhưng suốt ngày quai búa, nhẹ nhất cũng nửa cân, nặng thì vài ba cân, sơ sảy một tí là toạc da tóe máu như chơi. Mà sức vóc của Dần thì đáng là bao, với chiều cao chưa đầy một mét sáu mươi, nặng chắc cũng chỉ bốn mươi cân là hết cỡ. Có lẽ vì thế nên Dần không hào hứng gì với công việc của mình và ai hỏi, cậu ta cũng chỉ khoe là thợ nguội búa to với một cái cười giễu cợt.

Mười tám tháng sau khi ra nghề, mọi người được hướng dẫn làm lí lịch để xét vào biên chế. Vào biên chế có nghĩa là chính thức được làm người của nhà nước, ốm đau nằm viện không mất tiền, mỗi năm mười ngày phép có lương, không lo gì thất nghiệp. Phụ nữ sinh con được nghỉ, hưởng nguyên lương hai tháng, đến lúc đi làm lại còn được nghỉ giữa giờ cho con bú[50]. Già, có lương hưu. Mọi người làm lí lịch và đơn xin vào biên chế theo đúng yêu cầu của Tổ chức xí nghiệp. Dần cũng làm, nhưng ở mục Nghề nghiệp, thay vì Thợ sắt cậu ta lại viết ngay Thợ nguội búa to. Và cái chết của anh chàng thích đùa chính là ở đấy.

Không hiểu trước đó, Dần có dại dột làm điều gì trái ý hay xúc phạm đến cán bộ tổ chức xí nghiệp không, nhưng chỉ độ mươi ngày sau khi nộp hồ sơ để xét vào biên chế thì cậu ta bị bắt ngay tại nhà. Nghe nói, lúc đó Dần vừa ngủ dậy, sắp sửa đi làm. Hai anh công an đi Xítđờca xộc vào đến tận nơi. Cậu ta ngớ cả người khi nghe đọc lệnh bắt với lí do là phản tuyên truyền, nói xấu chế độ và chống chính quyền, phải đưa đi tập trung cải tạo. Mặc cho bố mẹ của Dần khóc lóc, lạy van xin xỏ, người ta vẫn khóa tay Dần lại tống lên thùng xe, không kịp đem theo một thứ gì.

Chẳng biết Dần có bị đánh đập tra khảo gì không, nhưng cậu ta không hề được đưa ra xét xử ở bất cứ một tòa án nào và cứ thế mất tăm luôn. Rất nhiều năm sau, Hân mới tình cờ biết được việc tập trung cải tạo những phần tử bất mãn như Dần là cả một chủ trương lớn của Đảng và nhà nước nhằm ngăn chặn những nguy cơ có thể xảy ra trong thời gian chiến tranh. “Tiên hạ thủ vi cường”, cổ nhân bên Tàu đã từng dạy thế. Phải bóp chết mọi âm mưu phản loạn, chống đối ngay từ trong trứng! Không thể để cho bọn thù trong giặc ngoài câu kết với nhau chống phá ta. Tinh thần chỉ đạo trong văn bản mà Hân được đọc sau mấy mươi năm là như thế. Những dòng chữ đánh máy trên giấy pơ luya vẫn còn sắc nét cùng với con dấu và chữ kí đầy quyền uy và một dấu treo “Tối mật” tự nó đã là cả một sự khẳng định tầm quan trọng của vấn đề.

Dần đi, và chẳng ai biết được gì về tình hình của cậu. Hân cũng có lần dò hỏi nhưng câu trả lời là một con số không. Rất có thể Dần đã bỏ mạng ở một nơi rừng thiêng nước độc nào đó. Cũng có thể cậu được tha sau cải tạo, nhưng không dám đem cái thân tàn về thành phố cho đỡ xấu hổ cả gia đình. Nhưng hẳn là cậu ta cũng khó mà đi bộ đội để nếu có chết còn được công nhận là liệt sĩ, chỉ vì cái lí lịch có vết đen kia. Như thế, Dần sẽ phải cắn răng làm lại cuộc đời, hoặc vào tù ra tội thêm nhiều lần nữa cho đến chết. Vì đã tù một lần rồi, ai dám bảo không có lần thứ hai, thứ ba? Đã trượt dốc thì khó mà leo lên lắm. Và thế là xong một kiếp người. Mà tất cả chỉ tại câu nói đùa không đúng lúc đúng chỗ của một thanh niên mới chưa đầy hai mươi tuổi cộng với thái độ quá ư nghiêm khắc của cả một hệ thống từ trên xuống dưới.                                                        

 

Lớp học nghề của Hân có vừa đúng ba chục người, toàn bọn con trai. Phụ cấp được hai mươi mốt đồng một tháng. Ra nghề, hưởng tám mươi lăm phần trăm lương bậc một. Sáu tháng sau, một trăm phần trăm, bốn mươi mốt đồng tám hào. Thế cũng đã là tươm chán, bởi vì nếu ai ăn cơm tập thể[51] chỉ mất mười tám đồng. Hai đồng tư một mét vải ka ki Nam Định. Một đồng tư một cân đường kính. Sáu hào tám một bánh xà phòng Liên Xô[52]… Nhưng quan trọng hơn, là phiếu gạo mười tám cân một tháng.

Mười tám cân! Mức ăn nhiều người dẫu nằm mơ cũng không có được. Nói đâu xa, ở quê Hân, vụ mùa gần nhất lao động chính cũng chỉ được cân đối[53] có mười cân thóc khô một tháng. Mà mười cân thóc, xay giã giần sàng xong, liệu được bao nhiêu? Khoảng bảy, tám cân gạo! Số gạo này chỉ đủ cho người ta ăn trong khoảng mươi ngày, vì sức vóc lực điền, mỗi bữa ăn ba bốn bát cơm chưa chắc đã no. Đã thế, thức ăn lại chẳng có gì; quanh đi quẩn lại chỉ vài ngọn rau muống, rau lang hoặc lá su hào già chấm nước mắm cáy hay nước mắm bốn hào[54]. May ra có thêm vài con cua con ốc hoặc cá đồng. Còn thịt, thì có khi cả tháng không hề được lấy một miếng nào.

Hân học nghề thợ nguội nên không phải ăn no vác nặng như cánh thợ sắt, thợ rèn, tuy không sánh được với đám “vua thợ hàn, quan thợ điện”. Cậu bắt đầu làm quen với những bài học đầu tiên về tính năng tác dụng của từng loại thép, cách chế tác các dụng cụ làm nghề như đục, búa, com pa; cách sử dụng máy mài, máy khoan, thước cặp… Những bài tập thực hành diễn ra gần như cùng một lúc. Hân có những người bạn mới và các thầy dạy nghề. Mỗi người một tính một nết, nhưng nhìn chung họ đều tận tình chỉ bảo cho cậu từng li từng tí một. Phải mỗi tội chẳng ai ưa gì cách nói năng thưa gửi của Hân. Người ta quen kiểu ăn to nói lớn, cộc lốc rồi. Và những chuyện tiếu lâm tục tĩu kinh hồn luôn luôn được họ đem ra kể một cách cực kì hào hứng, gây những trận cười nghiêng ngả.

Sáu tháng nhanh chóng trôi qua. Cùng với những người khác, Hân vượt qua kì thi ra nghề một cách nhẹ nhàng. Cậu được phân công về Xí nghiệp cơ khí ngay bên bờ sông Lấp, cái bờ sông được nhắc đến trong một bài thơ, và nhạc sĩ làm cho nó trở nên nổi tiếng qua bài hát Thành phố hoa phượng đỏ.

Thực ra, bờ sông Lấp không hề đẹp một chút nào. Có đẹp, chẳng qua là do nhà thơ tưởng tượng ra thôi. Đoạn sông chỉ dài khoảng chưa đầy một ki lô mét trong lòng thành phố vào thời gian ấy vẫn còn hai bến đò ngang cho mọi người qua lại. Những con đò cũ nát, chèo tay bởi những bà lão có lẽ còn cũ hơn đò, khiến cho hành khách phải lấy làm ái ngại mỗi khi lên xuống. Vào những ngày nước cạn, lòng sông hiện ra nông choèn, đầy bùn đất đen sì, mùi hôi thối bốc lên nồng nặc. Hai bên bờ sông, là hàng loạt cây phượng vĩ già, mỗi lần hè đến lại nở hoa đỏ rực. Cỏ dại mọc đầy, rất nhiều rác bẩn và ruồi muỗi, nên chẳng có ma nào hẹn hò nhau ở đấy, ngược lại người ta chỉ ra phóng uế. Không biết có phải vì thế không mà sau này có ca sĩ đã sửa lời bài hát, từ Những hò hẹn bên bờ sông Lấp thành Những hò hẹn bên bờ sông Cấm… A, nếu là sông Cấm thì đã khác rồi.  

 

*

*          *

 

Nhận được giấy gọi đi bộ đội, Hân chỉ cảm thấy hơi buồn cười. Vì một chuyện đáng lẽ phải giữ bí mật lại được ông cán bộ tổ chức thông báo trước cho Loan biết. Như một cách khoe khoang về sự quyền uy. Chao ôi, để chiếm được cảm tình của một cô gái mà người ta có thể đẩy một kẻ bị coi là tình địch vào chỗ chết thế ư? Gia đình đã có anh Quân đi B rồi, thì lẽ ra Hân phải được tạm ở nhà chứ! Sẽ còn biết bao nhiêu đợt về sau! Hơn nữa, cùng xí nghiệp này, có đứa ba anh em trai chưa có ai đi bộ đội, thế thì tại sao lại gọi Hân? Mà anh có phải là kẻ ngáng đường của Niên đâu! Loan không thể chấp nhận gã cán bộ tổ chức vì cô đã có người yêu, mà nếu chưa thì cô cũng chẳng có một chút cảm tình nào với gã. Tại sao gã lại không chịu hiểu ra điều đó? Tất nhiên, Hân không thể nói gì nhưng anh cũng rút được ra bài học cho mình, là cái bọn cán bộ tổ chức ấy chúa hay đạo đức giả và nham hiểm. Không thể nào tin được chúng!

Theo chế độ[55] chung, Hân được người ta trả thêm cho một tháng lương cộng với mười ngày phép năm và một khoản tiền coi như lệ phí đi đường của kì nghỉ phép. Tất cả được hơn tám chục đồng. Anh đưa hết cho mẹ, trong lòng nhói lên ý nghĩ, rất có thể đây là những đồng tiền cuối cùng mà mình có thể đem về cho gia đình. Sắp qua đi cái năm bảy mươi không có nhiều biến động; quân ta hình như chưa gượng dậy được sau vụ Mậu Thân và đang ở thế thua. Nhiều đơn vị tan tác, phải tổ chức và biên chế lại. Còn bọn Mĩ thì đang dồn sức cho chiến trường miền Nam, nên cũng ngưng ném bom miền Bắc, theo một tuyên bố công khai của chúng. Nhưng rõ ràng là cả hai bên vẫn đang rình rập, lừa miếng lẫn nhau để tung ra những đòn quyết định. Vì thế, thanh niên miền Bắc vẫn cứ được gọi đi hết đợt này đến đợt khác không ngừng.

Vừa mới cầm những đồng bạc mà Hân đưa, bà Hương đã kêu lên:

– Chết, sao đưa cho mẹ nhiều thế này hở con? Mày không giữ lấy một ít mà tiêu à? Sao lại thế?

Hân khẽ lắc đầu, mỉm cười cho mẹ yên lòng:

– Bây giờ thì con còn tiêu cái gì nữa ạ? Tất cả đều được người ta lo cho hết rồi mà.

– Thì mày cũng phải cầm lấy vài đồng mà uống nước uống non, rồi còn tàu xe nữa chứ?

– Tàu xe nào cơ ạ? Con đã nói là người ta lo cho hết rồi mà… Mẹ không biết hôm đi, chúng con còn có xe ô tô đưa đến tận nơi à?

Bà Hương vẫn dứt khoát giúi vào tay Hân bằng được:

– Cứ phải cầm lấy để phòng xa, con ạ!

Hân buộc phải cầm lấy ít tiền mà mẹ vừa trả lại, trong khi bà nước mắt lưng tròng. Anh không hiểu đây là những giọt nước mắt trào ra vì cuộc ra đi của anh hay lí do gì. Nhưng thấy mẹ khóc, anh cũng không cầm lòng được, đành phải quay mặt sang hướng khác.

Còn hai ngày nữa, Hân sẽ lên đường. Anh tranh thủ đi chào tạm biệt mọi người. Và thật tình cờ, sáng chủ nhật ấy anh lại gặp Lê, cô nhân viên can in ở phòng kĩ thuật. Cô gái thân hình hạt mít, có hai bím tóc đuôi sam ngắn ngủn thật ngộ nghĩnh đang đi gánh nước[56]. Trông thấy anh, cô có vẻ hơi lúng túng nhưng vẫn hỏi thay cho câu chào:

– Đi đâu sớm thế?

– Thì… đi lang thang thôi. – Hân đáp. 

– Nghe nói “ấy” sắp đi bộ đội phải không?

– Ừ. Đến ngày mười tám này…

Thùng nước đã đầy, Lê vội nhấc sang một bên và cho chiếc thùng khác vào hứng tiếp. Hân không biết nói năng gì nữa, nên đành đứng lặng im nhìn tấm thân tròn lẳn của cô. Loáng cái thùng nước thứ hai cũng đã đầy. Lê xỏ đòn gánh vào đôi móc rồi đặt lên vai, định gánh đi. Hân buột miệng:

– Tối nay, Lê có rỗi không?

– Có, – Đôi mắt Lê ánh lên vẻ ngạc nhiên. – Có việc gì thế?

– Đi chơi với mình nhé! – Bỗng nhiên Hân nói được một cách thật trơn tru. – Ngày kia, mình đã phải đi rồi…

Cô gái hơi ngần ngừ một lát:

– Ngại lắm. Mình…

– Kệ! Đúng bảy giờ tối nhé! Mình sẽ chờ ở ngay đây, bên cạnh cái máy nước này.

– Đừng! – Lê bối rối kêu lên. – Ở đây sáng lắm, người ta nhìn thấy mất.

– Thế thì đứng ở đâu được? – Hân vội hỏi.

Lê đưa mắt nhìn quanh một cái rất nhanh:

– Đứng ở sau gốc cây phượng kia kìa.

– Đừng có mà quên đấy nhé! – Hân gặng thêm lần nữa.

Cô gái không nói gì mà chỉ khẽ lắc đầu rồi quẩy đôi thùng nước bước đi.

 

Không biết trên đời này, từ xưa đến nay người ta đã nói những gì về sự tình cờ và mai sau, người ta sẽ còn bàn luận như thế nào về nó. Nhưng chắc chắn, tình cờ và ngẫu nhiên cũng như may hay rủi vẫn luôn luôn hiện hữu trong cuộc sống của con người, cho dù vào những lúc không ngờ nhất. Đối với Hân cũng vậy. Anh không hiểu điều gì sẽ xảy ra nếu như buổi sáng hôm ấy anh không tình cờ gặp Lê. Chỉ biết, vào lúc ấy mọi lời lẽ của anh bật ra, cứ như nó được chuẩn bị từ rất lâu rồi.

Suốt cả ngày hôm ấy, Hân chỉ mong cho trời chóng tối để được gặp Lê. Nhưng ông trời dường như không chịu chiều lòng người, mãi vẫn chưa tối hẳn. Thấy Hân cứ đi vào đi ra, thỉnh thoảng lại ngó nghiêng cái đồng hồ để bàn (vì trong nhà chẳng có lấy một cái đồng hồ nào khác), bà Hương liền hỏi:

– Có chuyện gì thế con?

– Không, con định đi gặp một đứa bạn ấy mà… Nhưng có lẽ nó còn chưa đi làm về.

Biết tính con, bà Hương không hỏi gì thêm mà chỉ lặng lẽ vo gạo, nhặt rau chuẩn bị cho bữa cơm chiều.

Sáu giờ tối, Hân ăn vội ăn vàng được lưng bát cơm, mặc dù đó là bữa ăn tươi cho người sắp xa nhà, có món thịt kho tàu mà anh rất thích. Rồi anh vội vã thay quần áo, đi đến chỗ hẹn. Đã sang tháng chạp âm lịch, những cơn mưa phùn dìu dịu không đủ làm ướt áo mọi người mà chỉ tạo nên cảm giác hơi man mát trên da mặt. Hân đứng đó, dưới gốc cây phượng vĩ già đã rụng hết không còn lấy một chiếc lá nào mà suy nghĩ vẩn vơ, không biết Lê có giữ lời hay không, và chợt lấy làm lạ về đề nghị của mình buổi sáng.

Thực ra, Hân đã biết Lê từ khi anh mới về làm việc ở xí nghiệp này. Gần như ngày nào, cô cũng phải đi đến tận các tổ sản xuất ở từng phân xưởng, đưa bản vẽ cho mọi người để họ làm. Đôi lúc, Hân cũng trao đổi với Lê vài câu ngắn ngủi và ít nhiều có thiện cảm với cô nhưng thân thiết thì không. Anh chỉ biết sơ sơ rằng Lê là con cả trong một gia đình nghèo, bố mẹ cô cũng đều là dân lao động. Dưới cô còn có tới năm, sáu đứa em trứng gà trứng vịt. Vì thế, học xong lớp bảy[57], Lê xin đi học trung cấp kĩ thuật để giúp đỡ gia đình. Trang phục của cô thường là áo sơ mi cổ lá sen màu nâu hay cỏ úa, quần lụa đen. Mùa đông, cô khoác thêm chiếc áo ka ki Liên Xô hai túi chéo, không hiểu có đủ ấm hay không. Hân cũng chẳng thấy Lê đi xe đạp bao giờ. Đến một lúc nào đó, Hân thấy hình như Lê có cảm tình với mình nhưng vốn là người quá ư nhút nhát và rất thiếu tự tin lại chưa bị sức hút của cô lôi cuốn, nên anh vẫn gần như dửng dưng cho đến sáng hôm nay…

Mải suy nghĩ vẩn vơ trong khi đưa mắt ngắm nhìn đường phố vắng vẻ trong cơn mưa bụi và ánh đèn phòng không mờ đục, Hân hơi giật mình khi nghe giọng con gái cất lên ở sau lưng:

– Chờ lâu chưa?

– Chưa… Mình vừa mới đến.

Hân quay lại, thấy Lê đang mỉm cười, không được tự nhiên cho lắm. Vẫn hai bím tóc đuôi sam ngoe nguẩy sau lưng, quần lụa đen và chiếc áo khoác ngoài được may bằng vải ka ki quen thuộc. Chỉ hơi khác một chút, là Lê đã kịp thay đôi guốc gỗ bằng một đôi dép nhựa sẫm màu, đẹp hơn và cũng đỡ kêu lộp cộp.

– Mình đi đâu bây giờ nhỉ? – Hân hỏi cô bạn gái.  

– Tùy Hân. – Lê đáp và đi thẳng về phía trước.

Rất nhanh, Hân phác ra trong óc một lộ trình.

– Thế thì đi ra Hồ Sen rồi xuống Quán Sỏi nhé… Được không?

– Đi đâu cũng được, – Lê khẽ nói và liếc nhìn sang bên kia đường, như để xem có bị ai bắt gặp không. Nhưng đường phố vẫn lặng im, vắng bóng người. Cơn mưa bụi vẫn dịu dàng rây những hạt li ti, man mác lên tất cả.

Đã ra tới Hồ Sen. Hân ngạc nhiên không hiểu tại sao hôm nay mình lại đi nhanh đến thế. Hoàn toàn khác với những ngày hè nắng gắt, khi anh còn học cấp hai ở trường Nguyễn Đình Chiểu, đối diện sân bóng đá. Hồi đó, nước hồ còn trong veo và mỗi độ tháng Năm, hoa sen lại đua nhau nở, hương bay thoang thoảng. Hân vẫn nhìn thấy những người trong xóm chèo thuyền nan, rồi sau này là thuyền tôn đi hái hoa. Nhưng mấy năm nay, sen càng ngày càng ít. Bây giờ cuối mùa đông, có lẽ chẳng còn lấy một cọng sen hay chiếc lá khô nào… Hân khẽ thở dài.

– Khiếp, làm gì mà thở dài ghê thế? – Câu hỏi của Lê như kéo Hân trở về thực tại.

– Thì… tại mình sắp sửa phải xa Lê mà.

– Bịa!

– Không, thật mà!

– Không thật thì đúng là bịa rồi chứ còn gì nữa! Hay là… bốc phét? – Lê cười thành tiếng.

– Không, thật mà… – Hân nhấn nhá, ngắt câu để Lê không bắt bẻ gì được nữa. – Chứ không phải là “không thật mà”. Giời ạ!

Lê mỉm cười lần nữa:

– Đùa tí thôi. À, bọn mình đi vào đây đi! – Cô nói.

Theo hướng Lê vừa chỉ, Hân nhìn thấy một ngôi đình quay lưng lại phía đường. Anh theo Lê bước vào qua một cánh cổng được ghép bằng nan tre đã rơi rụng hết. Ánh sáng từ những ngọn đèn phòng không gần đó không đủ cho Hân nhìn thấy khoảng sân đầy rêu và xa hơn một chút là ao sen chạy dài mãi vào bóng tối. Cả khu đình làng không một bóng người và trong cái im lặng hơi huyền bí của nó, có thể nghe rõ tiếng chuột chạy đuổi nhau rinh rích, tiếng thạch sùng chắt lưỡi và cả tiếng mối kêu kèn kẹt.

– Mình ngồi xuống đây đi, – Lê gợi ý và cô dùng tay phủi qua loa một chỗ trên bậu cửa đang im ỉm đóng.

Hân chẳng biết làm gì hơn là bắt chước Lê, ngồi xuống ngay bên cạnh. Anh hít một hơi thật dài rồi đưa tay xoa lên gương mặt nóng bừng, cố trấn tĩnh lại trong lúc trái tim non trẻ đang đập loạn xạ, như chẳng còn theo một quy luật nào nữa cả.

– Sao, Hân thử nói chuyện gì đi chứ? – Một lần nữa, Lê lại phải lên tiếng trước.

– Ờ, à… – Hân lúng túng không biết nói gì cho phải. – Lê… mới gội đầu đấy à?

Bỗng nhiên, Hân cảm thấy giọng nói của mình lạ hoắc như của một người nào đó khác. Toàn bộ cơ thể anh run lên không cưỡng lại được, có lẽ vì đây là lần đầu tiên một cô gái ở gần anh đến thế. Gần đến nỗi chỉ quờ tay là anh đã có thể ôm được cô và hình như Lê không để ý, cô vừa vô tình chạm một phần thân thể vào Hân, khiến anh choáng váng đến gần như ngạt thở.

– Sao biết? – Lê mỉm cười lần nữa, và nụ cười của cô được Hân cảm thấy hơn là nhìn thấy.

– Tại vì… mình thấy có mùi thơm quá.

Đúng là Hân vừa nói rất thật lòng. Và ấn tượng về mùi hương trên mái tóc của Lê mạnh đến nỗi sau này, nhiều năm tháng đã qua đi, anh vẫn không thể nào quên được. Hân chẳng bao giờ gặp lại mùi hương như thế ở bất kì ai, dù là các cô gái Việt Nam hay nước ngoài mà anh có dịp gặp gỡ và tiếp xúc. Bởi vì bao nhiêu thế hệ thiếu nữ lớn lên, cơ thể, áo quần và mái tóc của họ thơm đủ các mùi hương mĩ phẩm, nhưng hình như chẳng còn ai chịu mất thì giờ cho một nồi nước gội đầu với những lá, những hoa hái ở vườn nhà như hoa bưởi, hương nhu, bồ kết…, cái hương thơm rất đặc trưng của các bà, các cô một thuở tạo nên sức hấp dẫn rất riêng.

– Hân ăn kẹo không? – Lê hỏi và xòe bàn tay ra trước mặt Hân.

– Có! – Hân nhón lấy một chiếc từ trong lòng bàn tay ếch của Lê, thoáng chút ngạc nhiên vì cô lại đem theo cả kẹo. Loại kẹo hồng bọc giấy bóng kính, mềm và hơi dính, rất ngon. Chắc là của nước ngoài, đắt lắm. Nhưng vừa mới nhai, Hân đã phì cười.

– Sao thế? – Lê lấy làm lạ, hỏi.

– À… – Hân vẫn tiếp tục cười, không dừng lại được. – Mình chợt nhớ đến bọn trẻ con gạ đánh nhau. Chúng nó vẫn bảo, có giỏi thì ra đây, ông cho mày ăn kẹo!

Hân lại cười không thành tiếng trong khi Lê khẽ đấm vào vai anh một cái:

– Vớ vẩn!

Năm tháng qua đi, Hân không tài nào nhớ được buổi tối hôm ấy, anh và Lê đã nói với nhau những chuyện gì. Việc làm trong xí nghiệp ư? Hay là chiến tranh, chết chóc? Tương lai của mỗi người? Chịu! Kí ức ngày càng trở nên xa hút và mụ mị như một giấc mơ không trọn vẹn và bụi thời gian phủ lên trên nó đã quá dày. Nhưng chắc chắn là vào cái buổi tối mùa đông lạ lùng kia, Hân không hề ngỏ ý yêu Lê và cô cũng vậy. Tuy nhiên, có những điều vẫn khắc sâu trong tâm trí của Hân, để mỗi khi nhớ lại, anh đều không tránh khỏi cảm giác bồi hồi mặc dù không thể nào cắt nghĩa được rõ ràng.

Sau những giây phút choáng váng vì cảm xúc mới lạ vừa ập đến, Hân đã bình tĩnh lại và ngạc nhiên với chính mình, anh nhẹ nhàng choàng tay ôm lấy Lê. Cô gái không phản đối khi anh áp sát khuôn mặt vào mái tóc của cô và tận hưởng cái mùi thơm dịu nhẹ tỏa ra từ đó. Từ lúc nào chẳng biết, bàn tay Lê đã nằm gọn trong bàn tay xương xẩu của Hân. Anh khẽ hôn lên môi cô và thấy cô bỗng rùng mình. Hân cảm nhận rất rõ vị ngọt từ đôi môi của Lê, rồi chẳng biết thế nào anh lại có đủ can đảm dấn thêm một bước.

Vì Hân ngồi bên trái Lê, mà cánh tay phải của anh đã được dùng để ôm lấy eo lưng của cô rồi, nên Hân đành phải buông tay trái ra khỏi tay cô rồi bắt đầu mò mẫm. Nhưng vì run quá nên loay hoay một lúc, anh vẫn không làm gì được. Đến lúc này thì Lê bỗng phì cười và chủ động giúp anh. Cô mở cúc áo khoác ngoài, hơi ưỡn ngực lên một chút rồi nhẹ nhàng cầm lấy bàn tay trái của Hân, luồn vào trong đó.

Hân điếng người và toàn bộ cơ thể anh như đã tan biến đi đâu mất. Sau đó là cảm giác lạ kì khiến đầu óc anh đờ đẫn hẳn, nhưng anh vẫn nhận rõ, cái gì đang vồng lên dưới lớp áo trong nhỏ xíu của Lê. Và trong khi Hân còn chưa biết làm gì nữa, thì Lê đã dùng cả hai tay ấp lấy bàn tay Hân từ phía bên ngoài áo khoác của cô. Hân cứ giữ nguyên như thế để bầu vú thanh Hân non trẻ kia sưởi ấm bàn tay lạnh giá của mình. Phải đến một lúc lâu sau, anh mới khẽ khàng xoa nhẹ lên cái gò mềm mại đầy ma mị ấy với thái độ gần như sùng kính tôn thờ, không dám làm gì hơn nữa.

Ít lâu sau, khi đã bắt đầu cuộc sống trong quân ngũ cũng như lúc vào đến chiến trường Hân mới cảm thấy tiếc: giá như lúc ấy mình liều lĩnh hơn một tí. Còn lúc này, thật đáng ngạc nhiên, là mọi ham muốn, tò mò của anh dường như không còn nữa. Hân nhẹ nhàng rút bàn tay ra khỏi đôi bầu vú tròn căng, đầy ắp của Lê và lúng túng tìm cách gài lại cúc áo cho cô nhưng Lê khẽ gỡ tay anh ra, để tự mình làm việc đó. Rồi không hiểu nghĩ ngợi thế nào, cô xoay người, ôm chặt lấy anh. 

Họ ngồi im như thế rất lâu, trong tiếng muỗi vo ve và gió bấc nhưng không hề thấy lạnh. Cứ như là một đêm thanh bình của cái thời xa lắc xa lơ nào đó chứ không phải đang lúc dở giăng dở đèn, còi báo động có thể rú lên bất cứ lúc nào và máy bay Mĩ sẽ lao vào bắn phá. Hân như đã quên bẵng đi, rằng sáng ngày kia, anh sẽ phải có mặt ở Khu đội vào lúc tám giờ. Sau đó đi đâu thì anh chưa biết. Nhưng cũng giống như khá nhiều người trong hoàn cảnh tương tự, Hân chỉ muốn lờ đi không nghĩ đến, để mặc cho số phận của mình đưa đẩy. Riêng đối với Lê, cô chỉ nghĩ là chẳng bao lâu nữa, Hân sẽ phải dấn thân vào một môi trường khốc liệt, không biết sống chết thế nào. Vì thế, rất có thể đây sẽ là lần gặp gỡ cuối cùng của hai người. Có lẽ Lê sẽ không phản đối, nếu như Hân muốn đi xa hơn nữa. Nhưng anh chàng, hẳn là chưa một lần chung đụng với những người khác giới, tỏ ra quá rụt rè nên cô đành lòng vậy.

Không có đồng hồ đeo tay nên cả Hân và Lê đều không biết đã mấy giờ, nhưng thật may cho họ là từ đâu đó vọng đến giọng ngâm thơ của Trần Thị Tuyết[58] trên loa phóng thanh ở đầu đường. Đến lúc này Lê mới giật mình, thảng thốt:

– Thôi chết, muộn quá rồi!

Cô quýnh quáng đứng lên, sửa lại mái tóc và nói như phân trần:

– Phải về thôi kẻo bố mẹ lại lo… Sáng mai mình còn phải đi làm.

Hân tiếc rẻ, nhưng vẫn phải tần ngần đứng dậy. Anh khẽ ôm Lê một lúc rồi bất ngờ siết chặt lấy cô bằng tất cả sức lực của mình. Lê hoảng hốt nhắm nghiền mắt lại và toàn thân bủn rủn, đứng không vững nữa. Có cảm giác, nếu Hân không đỡ lấy Lê thì cô đã ngã lăn ra đất. Hai người lặng im hôn nhau một lúc lâu. Mãi sau Hân mới nhẹ nhàng vuốt ve mái tóc của Lê rồi lại hôn lên đôi mắt, làn môi và hai má của cô, tưởng không rời ra nổi.

 

*

*          *

 

Vừa mới đến nơi trú quân ở một xã ngoại thành vào trưa hôm trước, thì năm giờ rưỡi sáng hôm sau, Hân và nhóm tân binh đã bị dựng dậy theo hiệu kẻng để ra sân kho hợp tác tập thể dục. Cứ như ở trong doanh trại chính quy, mọi người cũng vươn vai, hít thở, vặn mình và chạy chậm mấy vòng. Cũng gào lên: “Một hai ba bốn… Một hai ba… bốn!”  đầy khí thế trong khi những làn khói xanh đã bắt đầu uốn lượn trên những mái tranh. Người ta đang nấu cơm ăn để còn ra đồng sớm.

Sáu giờ ba mươi, có kẻng báo đi ăn sáng. Thức ăn là mì sợi luộc, chan nước muối pha loãng với mì chính có mùi đường cháy khét mà người ta đốt lên để làm nước hàng cho có màu. Thế cũng đã là tốt lắm rồi, nếu so với việc ăn “nắp tăng xê” luộc. Bảy giờ, cũng vẫn theo hiệu kẻng, Hân cùng đồng đội lại có mặt ở hội trường của hợp tác để học chính trị. Không giấy bút, sổ sách, tất cả ngồi xổm thành từng hàng trên nền nhà lát gạch; ai kiếm được cái mo cau, mảnh bao xi măng hay viên gạch vỡ… thì cứ việc dùng thay ghế. Chiếc bàn duy nhất trong hội trường đã được dành cho diễn giả và đi kèm với nó là cái ghế tựa cũ, loang lổ những mực xanh mực tím, sứt sẹo lung tung. Không micrô, không ampli, người ta cứ việc nói thật to như hét lên.

Diễn thuyết hôm nay, trước mắt Hân là ông Yên với dáng người nhỏ bé, hơi khó đoán tuổi. Có thể là ba mươi mà cũng có thể bốn mươi. Quân hàm thiếu úy bạc phếch trên ve áo. Thế mà đã là chính trị viên đại đội! Hay là nên nói ngược lại nhỉ: chính trị viên đại đội mà mới chỉ là thiếu úy! Thôi, kiểu nào mà chẳng thế! Có khác gì đâu! Hân sợ hãi thấy giữa mình và con người ấy là một khoảng cách rất xa, được đo bằng khái niệm “em” vì không anh nào dám xưng “tôi” với thủ trưởng.

Ông Yên nói nhiều thứ lắm, từ tình hình chiến sự ở miền Nam, lẽ dĩ nhiên là ta thắng địch thua, đến nhiệm vụ của các chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam trước tình hình mới, rồi kỉ luật quân đội… Thỉnh thoảng ông lại giơ tay, chém vào không khí như để khẳng định thêm cho những lời lẽ đanh thép của mình. Và đôi lúc, có lẽ do hăng quá, ông quát lên như chửi người ta, khiến nước bọt văng cả xuống bàn. Mặc, ông cứ nói. Đến hết buổi lên lớp của thủ trưởng Yên, Hân chỉ nhớ được đúng một lời tuyên bố rất hùng hồn:

– Cán bộ mà sai, tôi lấy đầu cán bộ! Chiến sĩ mà sai, tôi lấy đầu chiến sĩ! Tất cả đã rõ chưa?

– Rõ! – Tất cả đồng thanh đáp, vui vẻ như những tù nhân vừa được tháo cũi xổ lồng.

Ông Yên tự đắc mỉm cười rồi vớ lấy cái điếu cày dựng sẵn ở chân bàn, làm một hơi thuốc lào rõ dài đến hóp cả hai bên má. Nhưng có một điều ông quên không nói, hay lờ đi không nói, là nếu ông sai (mà rất có thể ông cũng sai lắm chứ, chẳng lẽ không!) thì ai sẽ lấy đầu ông? Hay là ông được miễn? Câu hỏi này được Hân và mấy anh chàng tạm trú cùng nhà đặt ra, trao đổi với nhau vào buổi trưa, trong giờ nghỉ. Nghe chuyện, bà chủ nhà trạc tuổi năm mươi, vừa nhai trầu bỏm bẻm vừa chêm ngay vào:

– Ôi giời, cán bộ làm sai có bị kỉ luật gì bao giờ! Có khi lại còn được lên làm to hơn ấy chứ! Các chú cứ để ý mà xem… Như cái ông chủ tịch xã tôi đây này…

Buổi chiều, mọi người được đánh thức vào lúc một giờ mười lăm để sau đó mười lăm phút, nghe trung úy Trịnh Văn Lễ, đại đội trưởng giảng về Dự thảo điều lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam. Đó là một người cao lớn, da đen cháy, giọng đầy mồm lưỡi. Vì thế nên mặc dù ông ta nói năng dứt khoát theo kiểu chém đinh chặt sắt, nhưng đến tận cuối buổi, Hân vẫn gần như không hiểu được thủ trưởng của anh nói những gì. Chỉ biết, ông liên tục nhắc nhở phải giữ nghiêm điều lệnh, không được xâm phạm của dân từ cái kim, sợi chỉ và phải chú ý giữ gìn vệ sinh nơi đóng quân cho cẩn thận. Ỉa đái cũng phải có nơi có chỗ, nghe chưa? Mình là những người lính của quân đội cách mạng kia mà! Đâu có phải cứ ẩu tả thế nào cũng được! Không được đi tán gái rồi làm con nhà người ta ễnh mẹ nó bụng ra, có mà kỉ luật, chết cả nút. Nghe chưa?!

Nghe rồi! Hân thầm đáp lời cái ông mặt sắt đen sì. Kể ra, ông ta nhắc nhở cũng đúng thôi. Đám con trai nhìn thấy gái, đứa nào chẳng sáng mắt lên. Vừa mới đến đóng quân ở nhà dân được hai ngày, vậy mà đã có cậu quơ ngay được một cô rồi. Thằng Hải, ở cùng một nhà với Hân chứ ai! Vừa mới lúc nãy, chưa đến giờ báo thức Hân đã nghe thấy tiếng chày giã gạo thậm thịch ở đầu hồi. Có lẽ bà chủ đi đâu vắng nên cái Nhàn con bà đang tranh thủ giã gạo ăn. Nhưng sao lại có tiếng cười rúc rích thế nhỉ? Hân nhìn qua cửa sổ, thấy dập dình lên xuống theo nhịp chày là Nhàn đứng trước, Hải đứng sau, bàn tay chàng trai thò hẳn vào trong ngực áo của cô học sinh mười sáu tuổi mà nắn bóp. Nhàn, chắc là thích lắm nên mặc dù đang nhoay nhoáy đạp chân lên cái cần cối dài nguêu, tóc bết thái dương vẫn ngoái lại phía sau cười với anh chàng lính mới. Vậy thì nếu hai đứa có rủ nhau ra sau đống rơm hay nấp trong buồng để làm gì thì cũng là điều khó mà tránh khỏi.

Tối hôm ấy, sau khi cơm nước xong, đám Hân binh vẫn có gì mặc nấy (vì chưa được phát quân phục) lại phải tập trung nghe đọc báo và kiểm điểm điểm tình hình thực hiện công việc trong ngày. Tờ Nhân dânQuân đội nhân dân,té ra là báo cũ, Hân đọc từ hồi trước khi đi bộ đội. Nghe thật buồn cười, vì cái “hồi trước” ấy cách đây vừa đúng ba ngày! Hân phì cười vì suy nghĩ hơi ngộ nghĩnh này. Tuy vậy, bên chiếc đèn bão đầy những muội đen sì, cậu liên lạc của đại đội vẫn chúi mũi vào đọc hết bài này đến bài khác, chẳng cần biết liệu có ai nghe hay không.

Hân nhận ra mỗi ngày, tất cả mọi người lính sẽ phải bận rộn khoảng mười ba mười bốn tiếng, từ sáng sớm tinh mơ cho đến trước khi đi ngủ vào lúc chín giờ ba mươi phút. Chỉ trừ tối thứ bảy được tự do, nghĩa là không phải tập luyện, học hành, sinh hoạt… Nhưng cũng không dễ mà xin phép ra khỏi nơi đóng quân. Còn tối chủ nhật thì lại dành cho việc điểm danh toàn đại đội. Người ta bố trí lịch học tập, rèn luyện dày đặc như thế có lẽ là để cho lính tráng không còn đâu thời gian rỗi rãi mà nghĩ ngợi linh tinh. Tất nhiên, ở đây còn chưa nói đến những bài tập báo động ban đêm, kiểm tra đột xuất quân số và vũ khí, tập hành quân… Những công việc đủ làm cho lính tráng mệt nhoài, đặt mình xuống giường là ngủ say như chết.

Sáng hôm sau, đến lượt chuẩn úy Trần Văn Lệ, chính trị viên phó đại đội kiêm bí thư chi đoàn giảng về Mười lời thề danh dự của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông này quê ở đâu không biết, nhưng rất hay nhầm lẫn giữa en nờ với e lờ, sản suất chứ không phải là sản xuất. Mà cũng lạ, khi trong một ban chỉ huy đại đội có hai ông tên na ná giống nhau: Lễ, Lệ. Nếu như tên của ông Yên thêm chữ L đằng trước, biến thành Liên thì hay nhỉ! Chỉ nhõn một ông phó khác là thiếu úy Dương, phụ trách hậu cần thì chẳng bao giờ xuất hiện trước hàng quân để mà nói năng gì hết.

Đến ngày thứ năm trong quân ngũ, đám lính bổ sung mới được phát quân trang. Tất cả tập trung ở sân kho hợp tác, lần lượt bước lên nhận những thứ mà người ta đưa cho rồi cởi hết quần áo cũ đem theo, mặc luôn quân phục lên người. Lính tráng nhanh chóng nhận ra, mũ cứng là thứ giá trị nhất, nếu đem bán ra ngoài thì được khối tiền, cùng với quân hiệu, ba lô, bát sắt và thắt lưng đều của Trung Quốc. Quần áo dài thì được may bằng một thứ vải màu hơi xam xám, mềm nhũn, nghe nói của Triều Tiên. Như vậy, trong hành trang người lính, ta chỉ góp được ít quần áo lót, chiếc áo trấn thủ, cái màn… Áo rét dệt kim, được gọi là “áo bà đi cấy” cũng của Trung Quốc nốt! Thế nhưng, cứ như là có phép màu, khi tất cả đã đóng bộ vào rồi, anh nào anh nấy đều như lớn thêm lên một chút, đàng hoàng, chững chạc đến không ngờ.

Cũng từ hôm ấy, nhóm Hân binh trong đó có Hân chính thức hòa nhập với số đông nhập ngũ từ trước đó, được biên chế về từng tiểu đội. Họ bắt đầu tập đeo ba lô gạch hành quân, ban ngày cũng như buổi tối. Rồi sau Tết được mấy ngày, tất cả đã rồng rắn đi bộ lên Yên Tử. Đấy mới là nơi đóng quân của đơn vị để họ học hành, luyện tập những kĩ năng cần thiết mà con nhà lính cần phải biết trước khi vào Nam chiến đấu.

 

*

*          *

 

Sang tháng Mười, những bông tuyết đầu tiên bắt đầu rơi, báo hiệu mùa đông đang đến. Những bông tuyết xốp và nhẹ, bay trắng trời nhưng chỉ vừa mới đậu xuống đất là đã tan ra hết. Nó cũng nhanh chóng tan ra trên những cành cây chưa kịp trút hết lá vàng và những lối mòn phủ đầy lá mùa thu ẩm ướt. Nhìn thấy những bông hoa tuyết đầu mùa ấy, đám con gái Việt Nam cùng đơn vị Hân reo hò ầm ĩ, phấn khích đến lạ lùng. Kể cũng phải, vì họ sinh ra ở miền nhiệt đới, đã được tận mắt nhìn thấy tuyết bao giờ! Có chăng, chỉ là thấy trên sách báo và phim ảnh. Mà giữa sách báo, phim ảnh với thực tế là cả một trời một vực.

Khác với những cô gái kia, Hân không reo hò nhưng cũng cảm thấy xốn xang trong dạ. Anh mở cửa sổ, thò tay ra ngoài để những bông tuyết đọng lại trong lòng bàn tay mình một lát, cho đến lúc chúng tan ra, chảy qua kẽ ngón tay xuống thành từng giọt. Và trong tiếng reo hò kia của các cô gái Việt Nam, Hân thấy có cái gì đó hơi buồn cười. Anh biết, chẳng bao lâu nữa các cô sẽ phải run lên vì rét, mặt mũi xám ngoét lại, thậm chí còn co ro, vấp ngã trên những con đường trơn trượt vì băng tuyết. Khác hẳn các bà các cô và đám trẻ con bản địa, càng rét thì da mặt của họ càng hồng lên như táo chín.

Vào dịp Quốc khánh Liên Xô, mồng Bảy tháng Mười một, cả trường của Hân cũng như trên toàn Liên bang Xô viết, người ta đều nghỉ lễ. Cường đến, rồi cùng với Phương Linh đi đâu đó, đến gần hai giờ sáng mới thấy về. Cậu ta khẽ khàng leo lên giường của Vượng, trùm chăn kín cổ. Còn Vượng, chắc lại đang bù khú, say sưa ở một nơi nào đó. Riêng anh hùng Trần Kha thì đã lại chui vào tua lét, cố thủ ở đó tự bao giờ. Hân chẳng biết đi đâu và chơi với ai, mà cũng không thiết ra phòng xem vô tuyến, nên đành nằm dài trên giường đọc sách trong khi chờ giấc ngủ. Khổ nỗi, mãi nó vẫn không chịu đến.

Sáng hôm sau, Hân dậy muộn. Giường bên, Cường đã không còn nằm đó nữa. Ánh thì ngoẹo đầu trên gối, vô tư ngáy khò khò, đầy vẻ sung sướng và mãn nguyện. Còn Kha, miệng há hốc, mắt nhắm nghiền, một dòng nước dãi chảy xuống tận cằm: ngay cả trong giấc ngủ, anh ta vẫn có một cái gì đó thật nhọc nhằn.

Hân nhanh chóng đánh răng rửa mặt, mặc quần áo dài rồi đến bên cửa sổ, nhìn xuống đường. Bất giác, anh lặng người đến sững sờ. Mới chỉ qua một đêm, mà cả thành phố đã thay đổi hẳn. Khắp nơi, toàn một màu trắng tinh khôi, trắng đến ngỡ ngàng của tuyết. Từ những mái nhà, hàng cây đến đường phố và thảm cỏ… tất cả đều đã được che phủ bằng một lớp tuyết dày. Không cần tinh mắt lắm, từ trên tầng mười hai, Hân vẫn nhìn thấy những dấu chân ai đó vòng vèo để lại trên mặt tuyết, như một lời mời gọi mọi người. Không thể đừng được nữa, Hân vội vã quàng khăn, mặc áo măng tô, đội mũ lông rồi đi xuống dưới đường.

Sau này, Hân nghiệm ra rằng ở Mátxcơva, tuyết có thể rơi rất sớm nhưng nó chỉ bao phủ toàn thành phố và đọng lại từ sau ngày Bảy tháng Mười một. Có lẽ cũng giống như ở Hà Nội, cái rét chỉ thật sự bắt đầu từ sau lễ Nô en. Tại sao, thì Hân không biết nhưng đúng là trước đó, nếu có gió mùa đông bắc tràn về thì nó cũng chỉ như một khúc dạo đầu, báo hiệu cho người ta biết mùa đông sắp đến. Phải chăng đấy chỉ đơn giản là phút giao mùa của đất trời, hay nó còn chứa đựng cả quy luật của thiên nhiên nữa?

 

Cái Tết âm lịch đầu tiên giữa miền tuyết trắng đến ngay sau khi Hân thi hết học kì Một. Mọi người tổ chức liên hoan, ăn uống và nhảy nhót rồi rủ nhau đi đến nơi Hội hữu nghị Xô – Việt và Đại sứ quán ta tổ chức mừng Xuân cho người Việt Nam ở Mátxcơva. Trong hội trường rộng lớn của một trường đại học, sinh viên Việt Nam, cán bộ và nhân viên Sứ quán… đứng túm tụm thành từng nhóm, chuyện trò rôm rả. Nhưng bầu không khí thì không hề Tết một chút nào. Trên sân khấu có một cành đào giả to đùng, nhưng hẳn là nó được tạo ra bởi những bàn tay rất vụng về nên chẳng thu hút nổi ai. Không có quất, cũng chẳng pháo nổ đì đùng và ngoài kia đầy trời tuyết trắng chỉ càng làm tăng thêm nỗi buồn của những người sống xa nhà.

Rồi thì cũng đến giờ khai mạc. Như vẫn thường thấy ở nhiều nơi, lại là những bài diễn văn ca ngợi tình đoàn kết hữu nghị giữa hai Đảng và nhân dân hai nước. Tiếp theo là những lời tán tụng, biểu dương. Những tiết mục văn nghệ do bạn và ta lần lượt thay nhau biểu diễn. Một cô gái Việt Nam bé như cái kẹo, không hiểu tại sao giọng lại rất to, hét toáng lên bài Sông Đakrông mùa xuân về chênh hết cả nhạc. Hân ngồi xem mà cảm thấy cô đơn khủng khiếp, không hiểu giờ này ở bên nhà, bố mẹ, anh chị em của mình đang làm gì, liệu có bánh chưng, thịt mỡ, dưa hành… để ăn Tết hay không?

Đã mấy tháng nay, tin tức từ trong nước cho biết toàn những chuyện vô cùng đáng ngại. Phía Bắc, là tình trạng “nạn kiều”. Không biết do ta tìm cách xua đuổi hay được Bắc Kinh khuyến khích mà người Việt gốc Hoa ùn ùn kéo nhau về nước qua cả đường bộ và đường thủy ở Hải Phòng, Quảng Ninh và Lạng Sơn. Một số vụ đụng độ xảy ra giữa ta và Trung Quốc. Biên giới Tây Nam, lính Pôn Pốt tràn sang giết người, cướp của, đốt nhà không chỉ một đôi lần. Vụ mùa thì thất bát. Ở nhiều nơi, người dân đã phải ăn hạt bo bo do Liên Xô viện trợ. Một ông giáo sư chuyên về dinh dưỡng đã viết bài đăng báo Khoa học thường thức[59] phân tích, cho thấy sự bổ dưỡng tuyệt vời của thứ hạt này. Hân không biết, ông ấy đã ăn thử lần nào chưa nhưng ở đây, người ta không đánh giá hạt bo bo cao đến thế, vì nó được dùng chủ yếu là để chăn nuôi gia súc. Điều đáng nói là, giải phóng miền Nam đã mấy năm rồi mà dân vẫn không đủ gạo ăn. Đến đồng bằng sông Cửu Long cũng đói thì lạ thật!

Hân nhìn lên sân khấu nhưng lại mường tượng ra cảnh những hàng người dài dằng dặc, chen nhau mua từng lạng thịt, bó lá dong, cân gạo nếp tiêu chuẩn Tết của mỗi gia đình. Những dãy thùng tôn, xô, chậu chờ lấy nước bên vòi máy công cộng ở đầu các ngã tư với dòng nước nhỏ như chiếc đũa. Không biết Lê đã lấy chồng chưa và liệu có còn phải gánh nước vào trước lúc giao thừa không, hay việc ấy đã được giao cho một đứa em nào đó. Anh chợt cảm thấy se lòng nhớ lại một đêm ba mươi Tết năm nào.

…Hân lang thang đi chơi với cậu bạn từ thời còn học cấp hai. Lúc về đến ngã tư Chợ cột đèn, anh chợt thấy một hình dáng rất quen đang chống đòn gánh đứng bên máy nước. Lê! Cô nhân viên can in ở phòng kĩ thuật. Xung quanh vắng tanh vắng ngắt, có lẽ vì mọi người đều đang quây quần bên nồi bánh chưng sưởi ấm, chờ đón giao thừa. Đây đó, thỉnh thoảng lại vang lên những tràng pháo tép…

Lê bảo, cô tranh thủ gánh cho đầy bể nước để sáng mai, mọi người còn có cái mà dùng. Chứ mồng một Tết đã phải đi gánh nước thì ngại lắm, có mà “rông” cả năm. Mãi, rồi mới đến buổi tối anh và cô ngồi bên nhau dưới mái đình. Thế mà sau này, lúc ở chiến trường cũng như khi đã trở về, Hân tuyệt nhiên chẳng còn nhớ gì đến người con gái ấy, cứ như giữa anh và cô không hề có một mối liên hệ nào dù nhỏ. Sao mình có thể tệ đến như thế nhỉ? Hân tự hỏi và không thể nào biện hộ được cho mình. Phải chăng chỉ vì anh từ lâu đã xác định, mình sẽ không trở về sau chiến tranh, yêu ai lại để người ta phải đợi chờ, khổ lắm. Chẳng thà quên nhau đi còn hơn. Nhưng có một điều không thể chối cãi là nếu có chết, thì ít ra Hân cũng đã biết được thế nào là nụ hôn ngọt ngào và đôi vú của một người con gái… Nhờ Lê.

Hân lại nhớ đến cái Tết đầu tiên ở chiến trường Đông Nam bộ. Đêm ba mươi, sau bữa cơm chỉ có vài miếng thịt, không bánh chưng, không cả rượu và chè, mọi người vẫn nán lại hội trường để đón giao thừa, nghe bài thơ chúc Tết của Bác Hồ năm sáu chín được phát lại trên Đài Tiếng nói Việt Nam. Ngay sau đó, không khí như đã như sôi lên, chuẩn bị cho chiến dịch Nguyễn Huệ sắp bắt đầu và miền Bắc sẽ phải gồng mình chống chọi đợt tấn công hủy diệt chưa từng có của không quân và hải quân Mĩ. Không biết bao nhiêu bạn bè đồng đội của Hân đã lần lượt hi sinh. Vậy mà anh, dẫu có bị thương, vẫn sống được đến ngày ra Bắc.

 

Hai ngày Tết đã trôi qua. Cùng với mọi người, Hân lại trở về với những bài học Tiếng Nga, Lịch sử, Địa lí và các tác phẩm văn chương Xô viết. Các thày cô giáo Nga, hay nói cho đúng hơn, – Liên Xô, quả là những người thật tuyệt vời. Họ luôn luôn vui vẻ, nhiệt tình giảng dạy đến nơi đến chốn cho dù nhiều khi các học trò quốc tế của họ học hành chẳng ra gì. Vậy mà chưa bao giờ Hân thấy bất kì ai trong số các thầy cô giáo ấy tỏ ra cáu kỉnh, bực mình với sinh viên tuy rằng cuộc sống của họ, như Hân được biết, cũng chẳng lấy gì làm khá giả và mỗi người lại có những vấn đề không dễ gì khắc phục.

Hân không quên được, khi vào năm thứ hai anh bỗng nhiên bị mất ngủ kéo dài. Cái căn bệnh hơi quái gở, làm cho anh đêm thì cứ thức chong chong, không tài nào chợp mắt được nhưng đến lúc ngồi trên lớp lại ngủ gà ngủ gật, va cả đầu vào người bên cạnh. Thấy thế, các bạn Liên Xô một lũ trẻ trung, đẹp trai xinh gái ngời ngời cứ cười khúc kha khúc khích và có cậu còn huých vào sườn anh, đánh thức. Nhưng, không hiểu tại sao biết được lí do ngủ gật của Hân, bà Golupkina, một cô giáo đứng tuổi thì lại tỏ ra độ lượng và thông cảm: “Cứ để cho anh ấy ngủ!”.

Mãi rồi bệnh mất ngủ cũng qua, chẳng biết là nhờ loại thuốc gì. Nhưng lòng biết ơn của Hân đối với bà Golupkina và các thầy cô khác thì còn đó. Họ, những công dân Xô viết chân chính ấy không chỉ cung cấp cho anh kiến thức mà còn dạy anh cả cách làm người. Điều này càng có ý nghĩa hơn đối với Hân, khi đến lượt mình, anh cũng đứng trên bục giảng.

 

*

*          *

                           

Chuyện nọ xọ chuyện kia, Hân lại nhớ đến một buổi chiều vàng vọt, trong cánh rừng Lào, ngang với khu vực Tây Nguyên của Việt Nam. Đúng vào lúc đại đội của anh sắp qua một con suối thì nhận được lệnh từ phía trên truyền xuống, là phải đi nhanh, không được nhìn ngang nhìn ngửa. Còn đang ngơ ngác vì mệnh lệnh bất thường, Hân đã nghe tiếng cười nói xôn xao dậy lên như sóng, xen với câu hỏi “Đâu, đâu? Có thật không? Thế à”? và những tiếng kêu chí chóe đầy phấn khích. Thì ra, cách đó không xa về phía đầu nguồn, có mấy cô thanh niên xung phong đang tắm. Tất cả đều khỏa thân, hay ít ra các chàng trai cũng tưởng là như vậy.

Các cô, rất tự nhiên và dạn dĩ đến mức không hề xấu hổ một chút nào, lại còn buông ra những lời trêu ghẹo và đùa cợt khiến Hân và một vài anh khác không dám ngẩng mặt lên nhìn nữa. Và chỉ khi cả đơn vị đã về đến bãi khách, Hân mới biết, chuyện ấy xảy ra là do giao liên đưa đoàn đi theo lối tắt vì sợ trời tối, không kịp tới nơi. Lối tắt lại cắt ngang qua khu vực đóng quân của một đại đội thanh niên xung phong toàn nữ. Còn tại sao các cô lại tắm truồng một cách vô tư, thì có lẽ đó là cả một bi kịch. Bởi vì còn gì đáng buồn hơn, khi người ta đánh mất đi sự xấu hổ rất bản năng về giới tính của mình! Đã thản nhiên khoe tấm thân trần trước những người khác giới, lại còn “Anh bộ đội ơi, lại đây em cho xem cái này hay lắm”! và cả những lời lẽ tục tĩu mà ở trong hoàn cảnh khác, chẳng cô nào dám nói.

Rất có thể vì các cô thường xuyên phải đối mặt với những khó khăn, nguy hiểm lại lâu ngày không thấy bóng dáng đàn ông. Cũng có khi các cô cho rằng, chẳng ai biết mình là ai, việc gì phải ngượng. Thậm chí có cô còn bạo gan hơn khi nghĩ, cho chúng nó nhìn một tí thì đã làm sao! Việc gì phải xấu hổ với ai ở nơi này?! Đằng nào cũng thế thôi mà… Và thế là thành chuyện để lính tráng tha hồ bàn tán.

Suốt buổi tối hôm ấy và những chặng hành quân tiếp theo, bọn Hân cứ râm ran tranh cãi mãi về những cô gái ấy. Người khẳng định, phải đến hơn một tiểu đội. Kẻ lại cho rằng chỉ có dăm sáu cô thôi. Có anh chàng khoe, mình nhìn rõ từng cô, tất cả đều trần truồng hết nhé, lông đen sì trông như những cái vỉ ruồi. Cậu lại bảo, đúng là cái đồ nói phét, xa thế làm sao mà nhìn rõ được! Mà có phải đứa nào cũng trần truồng hết đâu! Có đứa còn mặc nguyên cả quần dài ấy chứ!

Không tham gia tranh luận, nhưng nằm trên tấm võng đung đưa, Hân cảm thấy có cái gì đó thật xót xa cho những thân gái dặm trường. Họ là ai, quê quán ở những đâu, tại sao lại rời bỏ gia đình và những người thân để vào nơi rừng thiêng nước độc này? Đúng là Hân không nhìn thấy rõ, nhưng cảm nhận thì không sai được: tất cả các cô đều gày gò tong teo, trơ cả xương sườn, với nước da xanh xao dường như hòa lẫn với lá rừng làm một. Có cô, hình như vẫn mặc áo đông xuân, nhưng vì áo trắng lại ướt nước, bết vào da thịt nên lính ta mới trông gà hóa cuốc ra như vậy.

Hân không thể nào hiểu nổi, tại sao người ta lại điều động các đơn vị nữ thanh niên xung phong vào sâu đến thế. Theo suy nghĩ của anh, thì ngay cả lí do thiếu quân cũng thật khó mà chấp nhận. Thiếu, là thiếu hàng trăm hàng nghìn người cầm súng, chứ đâu phải thiếu vài cô gái làm đường! Chiến tranh không phải trò đùa, và nếu có là trò đùa thì cũng tuyệt nhiên không phải dành cho phụ nữ. Chẳng thà cứ để các cô ở nhà cấy cày, gặt lúa trồng khoai… Đấy cũng đã là đóng góp cho cuộc chiến. Vậy mà các cô vẫn cứ đi, làm đủ mọi việc từ phá núi mở đường, cáng thương tải đạn thậm chí còn lái xe ô tô vận tải, rồi sau này là làm đường ống dẫn dầu…

Chẳng biết tự bao giờ, người ta đua nhau ca ngợi phẩm chất anh hùng của các cô. Báo chí, văn chương, âm nhạc… Toàn là những dũng cảm, anh hùng, trong sáng và lãng mạn. Hết sức lạc quan. Nhưng cũng giống như tất cả những người lính khác, các cô chết và bị thương theo đủ các kiểu khác nhau: chết do bom đạn, do mìn; chết vì đói ăn, kiệt sức; vì lũ cuốn hay rắn độc cắn… Trong đó, oan uổng và tức tưởi nhất vẫn là những cái chết do bệnh tật, đặc biệt là sốt rét.

Đã là lính ở Trường Sơn, không ai thoát khỏi nạn sốt rét. Cái căn bệnh kì lạ, có thể ập đến bất cứ lúc nào, cho dù anh có tìm đủ mọi cách phòng tránh đi chăng nữa. Ngủ màn (tất nhiên rồi, vì muỗi nhiều như trấu), ăn thật nhiều ớt, uống thuốc phòng… đều không tác dụng. Có cảm giác, dường như trong từng gốc cây, ngọn cỏ, dòng suối, cơn mưa… cũng đều tiềm ẩn một cơn sốt rét và nó có thể quật ngã bất cứ ai, vào bất cứ lúc nào. Từ những gã lực điền vậm vạp đến những cô gái mảnh mai; từ những cựu binh nhiều năm tháng ở rừng cho đến những chàng lính mới tò te, lần đầu biết thế nào là gian khổ. Và di chứng của nó có khi còn rơi rớt lại đến hàng chục năm sau. Nhưng đáng sợ nhất, là những cơn sốt rét ác tính vô cùng khủng khiếp.

Được báo trước bằng một cơn mệt mỏi rã rời, các khớp xương như bỗng rụng ra, ngay lập tức cơ thể người ta có thể bị đốt nóng tới bốn mươi, bốn mươi hai độ. Bất ngờ đến mức cùng lắm, anh cũng chỉ có thể gượng mắc được chiếc võng để nằm. Sau đó là mê man, không còn biết trời đâu đất đâu gì nữa. Cơ thể nóng hừng hực, vã mồ hôi nhưng con bệnh lại rét run cầm cập, có đắp mấy tấm chăn cũng không hết rét. Khi cơn ác tính qua đi, có thể là vài ba ngày, đương sự hoặc đã biến thành một cái thây ma lạnh ngắt, hoặc trở thành một kẻ tâm thần hay như một ông già, bước đi không nổi. Lạ ở chỗ, càng là những người khỏe mạnh xốc vác lại càng dễ bị lên cơn ác tính. Ai đó may mắn thoát chết thì cũng phải điều trị tới hàng tháng trời may ra mới trở lại bình thường.

Đại đội của Hân, hơn một trăm người trong lễ hạ sao[60] xuất quân từ Yên Tử, qua hơn ba tháng trèo đèo lội suối Trường Sơn, đã có tới mười ba người chết vì sốt rét ác tính. Hơn một phần mười quân số, chưa cần đánh đấm gì. Mà đó là chuyện của năm bảy mốt, khi mọi thứ không còn quá khó khăn thiếu thốn như thời gian trước. Có lẽ chính vì thế mà dọc đường Trường Sơn, không một trạm hay binh trạm nào lại không có một nơi dành cho người chết. Nhưng không thể gọi đó là nghĩa trang, vì làm gì có bia mộ, bát hương. Ngay cả đến nấm đất vùi thây những người xấu số cũng nhanh chóng bị mưa gió san bằng và cỏ dại trùm lên. Người ta giải thích, không thể làm gì hơn là do điều kiện chiến trường và sợ lộ bí mật, địch phá hoại hoặc tuyên truyền chống lại ta. Và có lẽ chẳng bao giờ có ai đếm được bao nhiêu người đã chết vì sốt rét! Mà đếm để làm gì? Không ai muốn nói gì đến mất mát, hi sinh của quân ta, cứ như thể đó là một điều cấm kị.  

Không chỉ sốt rét và chết như bất kì ai ở Trường Sơn, các cô bộ đội và thanh niên xung phong còn mắc đủ các loại bệnh khác nhau. Nhưng có một chứng bệnh lạ kì của riêng phụ nữ, lây lan rất nhanh mà người ta vẫn gọi là điên tình. Một cô khi lên cơn sẽ bỗng nhiên cười sằng sặc hoặc nói năng lảm nhảm, sùi bọt mép rồi ngã lăn ra đất ngất đi. Ngay lập tức các cô khác ở xung quanh bị tác động tâm lí cũng có thể ngã lăn ra như vậy rồi lại đến các cô khác nữa… Cách chữa rất đơn giản, chẳng cần gì đến thuốc mà thực ra cũng chẳng có thuốc nào chữa được. Nếu ai đó đã nghe nói đến chứng histeria, một thứ ẩn ức về tâm sinh lí thì chỉ việc cho người ôm hôn, sờ mó, vuốt ve một lúc là các cô sẽ từ từ tỉnh lại, tuyệt nhiên không còn nhớ được cái gì đã xảy ra. Lúc đó, “kẻ chữa bệnh” phải lỉnh đi ngay không thì sẽ rất phiền.

Rất ít thôi, nhưng vô cùng đau xót và căm uất là những cái chết do bọn biệt kích, thám báo gây nên. Đó là một sắc lính con cưng của quân đội Sài Gòn, gồm toàn những kẻ căm thù cộng sản, tình nguyện tham gia cuộc chiến với ý thức và lí tưởng rõ ràng. Bọn này được huấn luyện tốt, được trang bị đến tận răng và đầy những mưu ma chước quỷ. Nhiệm vụ của chúng là luồn sâu vào hậu cứ của quân ta để trinh sát, bắt cóc, khai thác thông tin, xác định mục tiêu… cho không quân đến đánh phá. Trong trường hợp cần thiết, chúng cũng có thể tập kích vào một nơi nào đó, như kho hậu cần, sở chỉ huy, trạm quân y… Bọn quỷ dữ này thường không sợ chết và chẳng có việc gì mà chúng không dám làm.

Được đổ xuống và đón về bằng máy bay lên thẳng nên bọn biệt kích, thám báo gần như có khả năng xuất quỷ nhập thần. Nguyên tắc của chúng là không bao giờ để tù binh được sống. Khai thác xong, chúng sẽ thủ tiêu ngay. Có những cô thanh niên xung phong và bộ đội đi lẻ đã bị rơi vào tay bọn này. Kết quả là bị chúng thay nhau tra tấn, hãm hiếp rồi cuối cùng, bị xẻo vú, phanh thây, đóng cọc… một cách cực kì tàn bạo. Chưa hết, có khi chúng còn gài dưới các xác chết một quả lựu đạn hay mìn để giết luôn cả những người thiếu cảnh giác, vội vã tìm cách di chuyển thi thể các cô. Những chuyện ấy, người ở hậu phương làm sao mà biết được. Giấy báo tử thì cái nào cũng như cái nào, đều chỉ ghi những dòng vắn tắt: Đã hi sinh ngày… tháng… năm… chắc gì đã đúng với nơi an táng là những địa danh lạ hoắc.   

 

*

*          *

 

Doanh trại, nơi đóng quân của đơn vị Hân nằm trên một khoảnh đồi bằng phẳng. Dưới chân đồi, là dòng suối cây cối um tùm, cung cấp nước sinh hoạt cho toàn đơn vị đồng thời cũng là nơi tắm giặt của hàng trăm con người. Những dãy nhà vách đất, mái tranh chạy dài song song với nhau là nơi ở của cán bộ, chiến sĩ từ cấp chỉ huy trung đội trở xuống. Nhà bếp, kho chứa lương thực, thực phẩm… được bố trí hơi tách biệt ra chỗ khác. Ban chỉ huy đại đội thì ở trong một ngôi nhà ba gian, như phần đáy của chữ U, nhìn ra phía cổng. Nhưng hội trường kiêm nhà ăn lại giống một nét gạch ngang ở phía trên, biến nó thành chữ O vuông với cái sân rộng mênh mông ở giữa.

Trong mỗi gian nhà to và dài dành cho lính tráng có hai dãy giường mà chân giường là những chạc cây đươc chôn thẳng xuống nền nhà đất đỏ. Dát giường được làm bằng nứa đã lên màu bóng loáng. Mỗi giường, đủ chỗ cho hai chiến sĩ trải chiếu cá nhân lên đó và mỗi nhà chứa được vừa gọn một tiểu đội với đầy đủ giá súng, giá ba lô, sào phơi quần áo.

Hân không biết những người đi trước phải mất bao nhiêu thời gian, công sức để tạo dựng cơ ngơi như thế này và giờ đây họ đã tản mát đi đâu. Nhưng mỗi quân khu đều có một trung đoàn làm nhiệm vụ huấn luyện lính đi B và mỗi trung đoàn, năm nào cũng tuyển quân đủ hai lần. Rồi cứ sau khoảng từ ba đến sáu tháng, theo yêu cầu của mặt trận mà các tiểu đoàn nối nhau đi. Mỗi cuộc hành quân mất từ một đến ba tháng hoặc lâu hơn nữa, do đích đến là B ngắn hay B dài. Sẽ có những người leo dọc Trường Sơn vào Nam và những người ngược Trường Sơn ra Bắc. Số người đi vào thì đông hơn. Số ra ít hơn. Bởi vì rất nhiều người chỉ đi vào có một chiều, không bao giờ ra nữa.

Tiểu đội của Hân, A 7 thuộc trung đội Ba. Toàn học sinh phổ thông và thanh niên nông thôn tuổi vừa mười tám. Cũng giống như ở bất cứ môi trường tập thể nào, chỉ sau mấy ngày gặp gỡ, mỗi anh đều đã có một biệt danh gắn vào tên thật. Đầu tiên, phải kể đến tiểu đội trưởng Chấn, cán bộ khung của trung đoàn. Dáng hơi thấp, nước da bánh mật và gương mặt bầu bĩnh lại có lúm đồng tiền, ông hạ sĩ này được gọi ngay là Chấn “gái” với hàm ý hiền lành như con gái. Anh thứ hai, gầy quắt queo, chân vòng kiềng chết tên Dũng “nghiện” vì suốt ngày hút thuốc lào, giọng khê nồng. Chiến “thèm”, mới cưới vợ chưa được bao lâu thì chỉ toàn nói đến chuyện quan hệ đàn ông đàn bà với những ham muốn sôi sục không giấu giếm. Những người khác có thể lần lượt điểm danh là Tác “lác” (do mắt lác), Thái đen (vì da cậu ta rất đen), Chính “múp” có thân hình mập mạp. Nhâm “ba chi vâu”, kể cũng đẹp trai nếu như không bị vổ. Hơi đặc biệt một chút là trường hợp của Thao “tắc kè”, người có nửa thân trên rất nhỏ, lại thẳng đuột với bộ đùi và cặp mông mỏng dính. Cậu ta nổi tiếng nhờ cái mồm liến thoắng, cực ki hiếu thắng trong mọi cuộc tranh luận và cũng hơi xảo quyệt. Còn Hân thì được gắn thêm chữ “già” vì anh đã hai mươi mốt tuổi.

Theo biên chế của Quân đội nhân dân Việt Nam, đơn vị bộ binh nhỏ nhất là tiểu đội, tuy dưới tiểu đội còn có tổ ba người, có lẽ để dễ chỉ huy, theo dõi lẫn nhau trong chiến đấu và công tác. Mỗi tiểu đội gồm mười hai người. Mỗi trung đội có ba tiểu đội. Mỗi đại đội lại có ba trung đội, trừ đại đội tăng cường. Cũng tương tự như vậy, mỗi tiểu đoàn thường do ba đại đội hợp thành, chưa kể bộ phận thông tin, trinh sát… Còn mỗi trung đoàn thì có ba tiểu đoàn cộng với các đơn vị trực thuộc như vận tải, quân y, hỏa lực, v.v. Cũng từ cấp này, bắt đầu có các phòng, ban và tiểu ban, như tham mưu, chính trị, hậu cần…

Đối với các đơn vị làm nhiệm vụ huấn luyện quân đi B, cán bộ khung là những chỉ huy từ cấp tiểu đội nhưng không có cấp phó, vẫn được gọi là đầu binh cuối cán. Lên đến trung đội cũng vậy, sau đó là đại đội và tiểu đoàn. Nhiệm vụ của họ là đi các nơi tuyển quân, tổ chức huấn luyện rồi đưa vào chiến trường, bàn giao cho đơn vị chiến đấu. Xong xuôi, họ được ra miền Bắc nghỉ ngơi an dưỡng một thời gian rồi lại tiếp tục tuyển quân đợt mới. Cái vòng quay ấy luôn luôn chuyển động, không biết đến bao giờ mới có điểm dừng. Lẽ đương nhiên, cán bộ khung nào cũng chỉ mong sao huấn luyện tốt, đưa quân đi được nhiều, bàn giao đầy đủ… để được coi là đã hoàn thành nhiệm vụ, được khen thưởng và đề bạt. Vì thế, tất cả đều cố gắng đến mức tối đa trong công việc được giao.

 

Những bài học đầu tiên về điều lệnh đối với Hân và đồng đội của anh, té ra lại rất tầm thường, tẻ nhạt. Bắt đầu từ việc ăn cơm bằng đũa hai đầu; một đầu dùng để gắp thức ăn, đầu kia lùa vào miệng trông như múa. Phơi chiếc khăn mặt trên dây sao cho thật vuông vắn, phẳng phiu, không được so le, nghĩa là dây phơi phải chia chiếc khăn ra làm hai nửa bằng chằn chặn. Tiếp đó, xếp ba lô lên giá cũng thẳng hàng, đáy quay ra ngoài, túi cóc hướng lên trên, không được để một sợi dây nào thõng xuống. Rồi chăn màn, hằng ngày phải gấp lại, đặt trên đầu giường thành một khối thật vuông thành sắc cạnh. Và, cho dù dãy giường tre có thể hơi cong vẹo tí teo, nhưng những khối chăn màn ấy vẫn phải thẳng hàng như kẻ chỉ. Dưới nền nhà phía cuối giường, giày dép cũng dóng hàng, mũi giày hướng ra ngoài. Chao ôi là mệt! Cứ làm như không xếp đặt mọi thứ được gọn gàng vuông vắn, đều nhau thì không đi được vào Trường Sơn, không đánh nhau và chết được hay sao ấy!

Chưa hết. Giá súng đủ chỗ cho mười hai khẩu AK và CKC cũng được quy định cho từng người một; anh nào dựng đúng vào vị trí cuả anh đó. Không được nhầm lẫn để ngay cả trong đêm tối, nếu có báo động cũng không lấy nhầm súng của nhau. Bát đũa cũng vậy. Mỗi khi ăn xong, rửa sạch lại cắm đũa vào đúng chỗ; khoen đeo bát sắt ngoắc vào đũa, trông cứ như những người lính xếp hàng. Mà đúng là xếp hàng thật. Chỉ ba bốn giờ sau khi được làm anh bộ đội, Hân đã biết đời quân ngũ đi đâu cũng phải xếp hàng. Ra bãi tập: xếp hàng. Hết giờ, về doanh trại: xếp hàng. Đi học chính trị: xếp hàng. Xếp hàng luôn cả khi ngồi xổm trên nền đất hội trường mà họp. Chào cờ, điểm danh: xếp hàng. Báo động ban đêm hay hành quân dã ngoại cũng xếp hàng tuốt.

Cũng vẫn phải xếp hàng khi chiều chiều, từng tiểu đội cởi trần trùng trục để tay y tá đại đội tên là Biệng bôi cho mỗi người một ít thuốc ghẻ hoặc hắc lào. Chẳng hiểu tại sao gần như trăm phần trăm lính mới nhập ngũ đều mắc một trong hai thứ bệnh này, hoặc cả hai. Mà thuốc bôi vào thì xót kinh khủng khiếp, đến chảy cả nước mắt ra, khiến nhiều anh phải hét to và nhảy cẫng lên. Nhưng đến việc xếp hàng đi ăn cơm mới thật buồn cười. Tất cả phải dóng hàng đôi, theo từng tiểu đội và trung đội, tay cầm đũa tay cầm bát gõ vào nhau, vừa đi vừa hát cho… khí thế. Hân rỉ tai mấy đứa bạn cùng tiểu đội: “Thế này mà đi đái đi ỉa cũng tập trung lại xếp hàng thì vui nhỉ!”.

Câu nói ấy của Hân, chẳng biết tại sao lại đến tai ông Yên. Ngay sáng thứ hai tuần sau, người phụ trách công tác chính trị tư tưởng ấy đã đem ra mà chì chiết đay nghiến trước toàn đại đội. Rằng nghĩa vụ của các đồng chí là phải tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh của cấp trên, dù có phải nhảy vào rừng gươm biển lửa cũng không được phép chối từ. Rằng, xếp hàng là yêu cầu bắt buộc với những người lính, giúp cho chúng ta tạo ra và duy trì trật tự, kỉ luật trong đơn vị. Một việc nhỏ như vậy, nếu không thực hiện nghiêm thì làm sao mà chiến đấu, tiêu diệt được kẻ thù. Rồi ông ta khẳng định rằng sức mạnh của chủ nghĩa xã hội chính là kỉ luật, trong đó có việc xếp hàng. Ngày xưa, Lênin cũng còn phải xếp hàng lúc đi ăn cơm và cắt tóc đấy nhé, đừng có tưởng!

Không thể cãi vào đâu được! Hân ngao ngán tiếc cho thủ trưởng không có dịp được xếp hàng, vì ngày ba bữa, cậu liên lạc đại đội đã vào thẳng nhà bếp lấy cơm về cho các cụ xơi rồi. Trong khi đó, ông Yên vẫn hồn nhiên nhắc lại câu nói cửa miệng quen thuộc của mình cùng với một cái khoát tay đầy ấn tượng:

– Cán bộ sai, tôi lấy đầu cán bộ! Chiến sĩ sai, tôi lấy đầu chiên sĩ! Rõ chưa?

Cứ ngỡ mọi người đã quá quen với khẩu khí của ông chính trị viên gian hùng ấy đến mức không còn phản ứng gì nữa. Không ngờ ngay giữa hàng quân, một anh chàng to gan nào đó thốt lên:

– Ơ, em tưởng phải đưa ra tòa án binh đã chứ ạ?

Tất cả đều không kìm được, phá lên cười. Tưởng ông Yên sẽ lôi cổ ngay cái thằng láo lếu ấy ra mà trị tội, nhưng không. Ông chỉ lừ mắt nhìn đám lính hỗn hào một lúc lâu như để lấy oai rồi mới quát:

– Nghiêm! Cười cái gì mà cười! Tôi nói thế đấy! Cứ coi chừng!

Rốt cuộc, toàn đại đội phải đi đều ba vòng quanh sân, đồng thanh hát bài Tiến bước dưới quân kì trước khi được vào nhà ăn nhận mỗi người một nắm bột mì luộc to như cái bánh rán, đen sì và rắn như gạch.

Dù sao, ấn tượng mà ông Yên để lại trong Hân cũng như đồng đội của anh sâu đậm đến mức, nhiều năm sau hễ nghe ai nhắc đến là trong tâm trí anh lại hiện ra ngay cái con người nhỏ bé với tiếng cười hi hí đầy nham hiểm và thói quen hút thuốc lào. Chỉ có điều là nghe mãi hóa nhàm, dần dà mỗi khi nhắc đến thủ trưởng Yên, lính tráng đều gọi là “ông lấy đầu cán bộ”. Sau, có lẽ vì thấy cái tên ấy quá dài, anh em rút lại thành ông lấy đầu cho gọn. Tuy nhiên, chuyện không dừng ở đó. Không ai có thể tưởng tượng được rằng một hôm, giữa giờ học chính trị, đúng vào lúc bị gọi lên trả lời câu hỏi về hai nhiệm vụ chiến lược của miền Bắc trong giai đoạn hiện nay thì Chiến thèm đứng dậy:

– Báo cáo ông… ơ… thủ trưởng…

Cả hội trường phá lên cười như sấm khiến cho anh chàng tội nghiệp đần mặt ra không hiểu tại sao. Thấy thế, lính tráng lại càng cười nghiêng cười ngả. Đến nỗi ông Yên, không giận dữ được thì chớ, cũng phải phì cười. Và, sau khi đã hiểu ra, Chiến thèm cũng cười ngặt nghẽo trước sai lầm cứ như là của một người nào đó khác. Trận cười ấy còn kéo dài sang những ngày sau, mỗi khi ai đó nhắc lại để mua vui. Cũng thật ngạc nhiên là trái với sự lo ngại của Chiến và mọi người, ông Yên không hề trù úm hay trừng phạt gì. Lạ chưa?! 

 

*

*          *

 

Không biết có phải cũng nằm trong kế sách rèn quân của các loại cấp trên hay không mà hai tháng đầu tiên, lúc nào lính tráng cũng đói meo vì được ăn rất ít. Đang tuổi mười tám đôi mươi, ở nhà, bữa sáng có thể đánh luôn một lúc đến mấy bát cơm, khoai luộc hay bắp ngô gì đó thì bây giờ sau khi thể dục, vệ sinh doanh trại… cuối cùng mỗi người mới được một nắm bột mì luộc nhai đến gãy cả răng thì ai mà chịu được. Trưa và tối là hai bữa chính, nhưng vèo một cái đã hết; tuy thức ăn có đến ba món là canh, xào và thịt hay đậu phụ gì đó, nhưng mỗi người cũng chỉ được một hai gắp là hết sạch. Mùa đông, cơm chia xong chưa chắc đã được ăn ngay, vậy mà lắm bữa ăn xong rồi, từ chiếc rá đựng cơm vẫn còn bốc lên một làn hơi mỏng.

Trong hoàn cảnh cái đói giày vò suốt ngày như thế, có anh đã tìm ra cả một nghệ thuật để ăn được nhiều hơn đồng đội của mình một chút. Bát thứ nhất, họ xới rất vơi và có miếng nào ngon thì vội gắp ngay. Bát thứ hai, lèn thật chặt và đơm cao có ngọn rồi ăn thủng thẳng. Mà bát sắt Trung Quốc thì to như cái bát ô tô, chả biết ai là người đầu tiên gọi là bát B 52 rồi cứ thế thành tên. Anh nào dại dột, bát đầu trót xới đầy thì cứ việc mà ôm bụng đói. Hai mươi mốt ki lô gam gạo và chất độn một tháng, sáu hào tám[61] tiền ăn một ngày, các anh bộ đội Cụ Hồ cứ việc sống và luyện rèn cho giỏi để còn vào Nam chiến đấu.

Đói quá, nên lính tráng lúc nào cũng chỉ nghĩ đến ăn. Có người còn than thở, cứ tưởng đi bộ đội thế nào, chứ như thế này còn tệ hơn ở nhà! Rồi chẳng ai bảo ai, mọi người tìm đủ mọi cách để cải thiện, nghĩa là làm gì đó cho cái dạ dày của minh đầy lên một chút. Đầu tiên và dễ nhất là có đồng nào thì chi luôn cho việc ăn thêm. Ở nơi rừng núi thưa thớt cả những người dân tộc thiểu số, nhưng vẫn tìm được một hai quán hàng bán vài ba cái bánh rán, mấy củ khoai luộc, nải chuối hay thanh kẹo lạc. Sang hơn thì có xôi, bánh cuốn hay phở thịt lợn. Khổ nỗi, lính tráng chỉ có phụ cấp binh nhì năm đồng một tháng mà xà phòng, thuốc đánh răng và mấy lạng đường đã hết khoảng hai đồng. Ba đồng còn lại, tiêu vèo một cái là xong, vì phở ít nhất cũng ba hào một bát! Bánh rán, hào một chiếc. Khoai luộc thì tùy theo củ to hay nhỏ mà có giá khác nhau.

Ngoài năm đồng phụ cấp ra, gần như chẳng anh nào xin thêm được tiền từ gia đình, vì tất cả đều rất giống nhau ở chỗ nghèo. Cá biệt, nếu có xin được thì cũng không dễ mà đi nhận ở tận bưu điện ngoài thị xã. Bởi vì tất cả các loại thư từ, điện đóm, giấy tờ… quân bưu sẽ chuyển xuống tiểu đoàn. Liên lạc đại đội đi lấy về rồi phát cho anh em (tất nhiên là sau khi chính trị viên đã kiểm tra qua một lượt). Còn giấy báo lĩnh tiền thì phải chờ đợi chán chê, nếu được cho phép thì sẽ phải cuốc bộ khoảng mười lăm hai mươi cây số ra thị trấn. Nhưng lính tráng không dễ gì được cho đi như thế: nhỡ anh tìm cách đào ngũ thì sao? Đành phải chờ lúc đơn vị đi dã ngoại (đeo ba lô gạch hành quân) hoặc đi lấy gạo thì tranh thủ vậy.

Cách thứ hai, ai có cái gì đáng giá thì đem bán hay đổi cho người dân để lấy cái ăn. Ví dụ như quần áo, dây thắt lưng, mũ cối… Toàn những thứ mang ý nghĩa sống còn đối với con nhà lính và người dân cũng rất cần. Nhưng… Bán đi, thì lấy gì để mà dùng? Mặt khác, hình như cũng là theo quy định của trên hay sao ấy, mà quân trang của lính A (miền Bắc) và lính đi B rất khác nhau. Như quân phục, trong khi lính A và các cán bộ khung được cấp phát loại may bằng vải kaki Tô Châu Trung Quốc xanh mướt và bóng loáng, rất bền thì lính B chỉ có vải Triều Tiên, giặt vài ba lần đã bạc phếch. Mà loại quần áo ấy thì chẳng ai muốn mua làm gì, kể cả mấy bác thổ mừ. Vì thế, lính tráng chỉ có thể bán mấy chiếc quần đùi và áo cổ vuông may bằng vải phin màu lá cây vừa dài vừa rộng. Anh nào chẳng có quần áo lót đem đi từ nhà! Khổ nỗi, những thứ kia bán nào có được mấy đồng. Tiêu vèo một cái là hết sạch!

Theo quy định, mỗi ngày, các tiểu đội lần lượt cử một tổ ba người xuống giúp anh nuôi (cũng là khung!). Nhiệm vụ của những cậu trẻ này là phụ bếp: nhặt rau, vo gạo, rửa xoong nồi, chia cơm và bưng bê ra bàn. Họ tranh thủ ăn vụng tất cả những gì có thể ăn được, miễn sao đừng để cấp trên nhìn thấy. Nhưng thứ được coi là quan trọng nhất mà anh nào cũng tìm cách ăn rồi còn dấm dúi đem về cho đồng đội là cháy cơm. Cơm lính được nấu bằng những chiếc chảo gang to tướng, mỗi chảo đủ cho ba bốn chục người ăn; muốn đảo hay xúc cơm phải dùng đến xẻng công binh loại nhỏ. Sẵn củi, cơm lại được ủ lâu chờ đến giờ ăn nên rất nhiều cháy, chỉ một nhát xẻng cạy lên là được ngay một mảng to như cái quạt mo dày cộp, nhai giòn côm cốp và thơm phức, ăn vào no rất lâu. Nhờ những miếng cháy cơm chia ngọt sẻ bùi này, mà lính tráng ở các tiểu đội có người đi phụ bếp đỡ đói lòng một chút. Khổ nỗi, đâu phải ngày nào cũng có cháy mà ăn! Vì đại đội có chín tiểu đội, nên phải tận tám ngày mới lại đến lượt được đi phụ bếp.

Tưởng cái chuyện ấy chẳng có gì đáng phải quan tâm, nhưng lại hóa ra là không phải như lính ta vẫn tưởng. Một buổi sáng thứ hai, sau giờ chào cờ, ông Yên lên nhắc nhở về việc có người ăn trộm cháy. Không tưởng tượng được, thủ trưởng lại theo dõi hết và biết hết! Tay chém vào không khí, giọng nói đầy vẻ đe dọa, ông ta tuôn ra những lời lẽ khiến Hân và không ít người choáng váng:

– Các đồng chí không biết xấu hổ à? Đảng, nhà nước và quân đội chăm lo cho các đồng chí từng li từng tí, có bao giờ để cho các đồng chí bị đói một bữa nào đâu! (Đến đây thì một số anh em ồ lên). Thế mà có người lợi dụng lúc được cử đi giúp anh nuôi, lại ăn trộm cháy cơm để dành nuôi lợn! Tôi hỏi, ăn như thế có ngon không? Hả? Mà lợn, nuôi cũng là để lúc nó lớn, ta giết thịt cải thiện. Ăn thế là ăn xương ăn máu của đồng đội, các đồng chí biết chưa? Không khác gì cầm xi lanh (lẽ ra phải nói là xơ ranh hoặc xi ranh) hút máu hút mủ đồng đội. Ăn như thế có sướng không? Hả? Tôi là tôi biết tỏng tòng tong những ai ăn trộm cháy rồi đấy nhé! Đừng tưởng tôi không biết đâu! Con ruồi bay qua trước mặt tôi còn biết con đực con cái nữa là… Lại còn lấy trộm cả bột mì đem nướng nữa, nhưng khốn khổ, không có bột chua[62], nướng có mà đến Tết thì nó chín! Hi hi…

Bất chợt, chính trị viên cười thành tiếng mà chẳng có lí do gì hết. Cả đại đội vẫn đứng im phăng phắc, tủi hổ nhưng tê liệt, không ai dám cãi một câu nào. Còn Hân, anh chỉ biết ném một cái nhìn căm phẫn và khinh bỉ về phía lão Yên. Từ nhỏ đến giờ, chưa bao giờ Hân nghĩ người ta có thể mạt sát nhau như thế, nhất là khi kẻ đứng ra làm việc đó lại là một đảng viên, một cấp trên, người thường lên giọng dạy dỗ cấp dưới về tình đồng chí đồng đội, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Chao ôi! Sao mà nhục thế! Hân không tránh khỏi cảm giác xấu hổ vì chính anh, vừa mới mấy ngày trước cũng đã từng nạy cháy cơm, ăn một cách ngon lành. Lại còn giấu giấu diếm diếm đem về cho đám thằng Nhâm thằng Chính nữa.

Bài diễn văn quái gở của chính trị viên kết thúc, nhưng nó đã làm tổn thương rất nhiều người. Tuy nhiên, mấy hôm sau còn có chuyện tệ hơn và nhờ thế, lính tráng càng hiểu các thủ trưởng rõ hơn. Nhà bếp giết lợn và cũng như thường lệ, mỗi người lại được vài miếng bì và mỡ mà chẳng biết thịt ngon đã đi đâu hết. Sáng hôm sau, trong lúc giải lao ngoài bãi tập, tiểu đội của Hân kháo nhau, rằng đêm khuya còn thấy thằng Đại liên lạc đem lòng lợn tiết canh lên nhà C bộ[63] cho các thủ trưởng uống rượu. Mọi người à lên một tiếng như chợt hiểu ra điều gì quan trọng lắm.

– Thảo nào, đêm nào cũng thấy các ông ấy thức rõ khuya, đến tận hai ba giờ sáng.

– Thế mà lính tráng thì phải đi ngủ từ chín giờ rưỡi tối. Đúng là làm quan sướng thật! Tha hồ mà muốn gì được nấy nhé!

– Thức đêm chả đói mà. Chẳng bù ông Yên vừa mới chửi bọn mình…

– Đúng là cái bọn ăn tiết canh đầu tháng!

– Thôi đi nào, không lại chết bây giờ!

Nằm chúi đầu trong một bụi sim với chiếc mũ cối che mặt cho khỏi nắng, Hân nghe thấy hết nhưng anh không nói gì trước lời nguyền rủa vô cùng độc địa. Mà nói gì cơ chứ? Chuyện các ông chỉ huy ăn đêm thì mọi người đã biết từ lâu, cho dù ban ngày, cơm của họ đem về C bộ cũng không khác gì cơm dành cho lính. Nhưng đến đêm, khi lính tráng ngủ hết rồi, các vị ấy mới đua nhau ăn uống thật nhiệt tình và đánh bài tú lơ khơ bôi râu hoặc ăn tiền. Cao hứng lên, một anh nào đó sẽ đột xuất đi kiểm tra vọng gác hoặc mò vào các nhà xem lính ngủ hết chưa, có ai còn thức và bàn tán gì không để còn nhắc nhở. Đã có lần, một cậu bên B 1 gác đêm chẳng may ngủ gật bị ông Lệ lấy mất súng lúc nào chẳng biết, sau đó bị cảnh cáo trước toàn đại đội.

Sấm sét giáng xuống đầu tiểu đội của Hân vào một buổi sáng cuối tuần. Vừa nhìn thấy ông Lễ với vẻ sát khí đằng đằng, Hân đã hơi chột dạ, nhưng không nghĩ mọi chuyện lại đi xa đến thế. Số là vừa mới chiều hôm trước, tiểu đội anh được giao nhiệm vụ đi lấy củi cho nhà bếp. Cả bọn kéo nhau đi và chỉ sau hơn hai tiếng đồng hồ leo núi đã kiếm được mấy cây to, chết khô từ bao giờ chẳng biết. Khoái chí, anh chàng Dũng nghiện liền giương khẩu CKC lên trời, bắn liền hai phát. Nghe tiếng súng nổ bất thình lình, tiểu đội trưởng Chấn chạy tới, vừa giận dữ vừa sợ hãi:

– Đứa nào vừa bắn, hử?! Đứa nào?

– Em…

– Mày lấy đâu ra đạn? Ai cho mày bắn? – Chấn giằng lấy khẩu súng còn đang bốc khói từ tay Dũng.

– Em nhặt được ở ngoài bãi tập… – Dũng nghiện sợ hãi, hơi lùi lại, mắt nhớn nha nhớn nhác.

– Mày giết tao rồi… – Chấn rên lên. – Mày có biết làm thế này là vi phạm kỉ luật không? Ai bảo mày bắn, hử?      

– Em, em cứ tưởng…

– Tưởng cái gì! Mày giết tao rồi… – Chấn lại rên lên lần nữa. – Thôi, đái ngay vào nòng súng rồi lau sạch đi, không về ông Lễ ông ấy biết thì chết cả lũ!

Dũng nghiện, hẳn là nghĩ mọi việc chẳng có gì nghiêm trọng, nên sau vài giây hốt hoảng đã bình tĩnh trở lại và làm đúng theo cách mà đàn anh vừa hướng dẫn để cho hết mùi thuốc súng. Và giờ đây, cả tiểu đội đang phải dàn hàng ngang, chịu trận.

– Thằng Dũng nghiện đâu! Bước lên phía trước ba bước, bước! – Ông Lễ quát.

– Có! – Dũng run rẩy làm theo mệnh lệnh.

Ông Lễ nghiến răng, lừ lừ bước tới, đôi mắt như tóe lửa. Giọng ông ta run lên qua hai hàm răng nghiến chặt:

– Chiều hôm qua, lúc đi lấy củi, mày đã làm gì hả? Ai bảo mày bắn? Ai cho mày bắn, hả? Nói đi!

– Em, em…

Dũng nghiện còn đang ấp úng chưa biết nói gì thì viên chỉ huy đại đội đã túm lấy cổ áo cậu ta, xoắn mạnh. Lực đẩy của cánh tay lực điền khiến anh binh nhì gần như ngã ngửa người ra phía sau, chới với. Lễ rít lên:

– Súng đạn là để chiến đấu với kẻ thù, chứ không phải để cho mày bắn bậy bắn bạ như thế, biết chưa? – Ông Lễ lại rít lên.

– Em biết rồi, em biết rồi, thủ trưởng ơi… – Dũng nghiện lắp bắp, mặt tái đi vì sợ.

Bất ngờ, gã trung niên giật mạnh cổ áo cho anh chàng lính trẻ đứng thẳng trở lại rồi táng cho cậu ta một cái tát như trời giáng. Cú đánh mạnh đến nỗi làm cho Dũng nghiện khuỵu ngay xuống, không kịp kêu lên một tiếng.

– Đứng dậy! Nghiêm! – Ông Lễ ra lệnh, lần này như một tiếng thì thầm nhưng tất cả vẫn đều nghe rõ.

Cậu binh nhì lặng lẽ chống tay, đứng dậy.

– Mẹ mày, bắn bậy này, đái vào nòng súng này, mày tưởng ông không biết à?! – Gã trung úy gầm gừ, không còn đầy mồm lưỡi một chút nào. – Ông đánh để cho mày nhớ, để mày khỏi nói ai ăn tiết canh đầu tháng… Biết chưa?!

Bốp! Bốp! Thêm hai cái tát chứa đầy sức mạnh căm thù, nhưng không phải là dành cho quân địch khiến tội nhân gục xuống. Khi cậu ta loạng choạng đứng lên, khạc ra một thứ nước bọt hồng hồng lẫn máu thì một chiếc răng cũng rơi xuống đất. Viên trung úy chắp tay sau đít và vẫn đứng yên tại chỗ, đe dọa thêm lần nữa:

– Nhớ nhé! Đừng có mà quên đấy! Không thì ông giết mày! Tất cả giải tán! – Lễ khoát tay ra lệnh rồi bình thản quay đi.

Dũng lấy mu bàn tay lau miệng và ném theo viên chỉ huy một cái nhìn đầy vẻ bất lực xen lẫn căm hờn. Cậu ta không biết, nấp sau cửa sổ nhà C bộ, ông Yên đã chứng kiến tất cả và cười nhạt. Nhưng cũng từ đó, nhức nhối mãi trong tâm thức của Hân và các bạn cùng tiểu đội anh là câu hỏi, đứa nào đã ton hót với cấp trên và mục đích của nó là gì? Để lấy lòng các thủ trưởng ư? Hay hi vọng được ưu ái hơn một chút? Thật đúng là ảo tưởng! Mà… chó lại ăn thịt chó thế hay sao?

 

Sang đến tháng thứ ba, chế độ ăn sáu hào tám một ngày đã được thay bằng một đồng hai, bồi dưỡng để đi B. Cơm nhiều hơn và nếu bữa sáng đã được ăn bánh mì chứ không phải là mì luộc nữa, thì bữa trưa và tối lại có cả thịt gà, thịt bò, cá biển… Lính tráng không còn phải dấm dúi chia nhau từng miếng cháy, trái lại có mâm còn bỏ thừa cơm. “Ăn cho nó béo để còn đi mà chết đây!”, Chiến thèm nói bô bô mà chẳng bị ai nhắc nhở.

Được ăn uống đầy đủ và sinh hoạt điều độ, nhiều người trong đại đội của Hân béo tốt hẳn lên. Trong đợt kiểm tra sức khỏe, anh ngạc nhiên thấy mình tăng được từ bốn mươi chín lên năm mươi sáu cân, trong khi có cậu tăng đến tận mười cân, cứ như là có phép màu. Đây cũng là lúc nhiều gia đình lục tục lên thăm con em của họ, đem theo đủ thứ, từ xôi gà, bánh trái, hoa quả đến đường sữa mặc dù ở nhà thiếu thốn mọi bề. Nhưng bây giờ còn mấy anh ăn được nữa!

Gia đình Hân không ai đi tiếp tế cho anh vì Hân không muốn nên đã biên thư về. dặn dò thật kĩ. Bố mẹ thì đã nhiều tuổi rồi, đường sá lại xa xôi, cộng thêm vào đó là một bến phà rất mất thời gian chờ đợi. Mà lên được đến nơi lại phải lóc cóc về ngay, không thì hết xe vì chuyến cuối cùng chạy vào lúc năm giờ chiều và doanh trại làm gì có nơi đón tiếp người thân của lính. Càng không có chỗ cho bất kì khách nào ngủ qua đêm. Nhưng để lại nỗi cám cảnh trong anh lại là chuyện khác.

Một buổi trưa, Chiến thèm có vợ lên thăm. Cô bé khoảng mười bảy mười tám tuổi, mới cưới trước khi Chiến đi bộ đội được độ mươi ngày. Dáng người tròn lẳn, chắc nịch, đầy khêu gợi đúng như nhiều lần Chiến đã khoe khoang trước đó. Không một chút rụt rè bẽn lẽn gọi là, cũng chẳng xấu hổ xấu hùm gì hết, cô đắm đuối nhìn chồng bằng cặp mắt hoang dại đầy ham muốn và thèm khát như thể chỉ còn có hai người ở trên đời. Rồi bất chấp hàng chục gã đàn ông đang nằm ngồi ngay đó, đôi vợ chồng trẻ ngấu nghiến đè nhau ngay ra giường, chỉ kịp trùm vội lên trên mình một chiếc chăn Nam Định của con nhà lính.

Cả chiếc giường rộng mênh mông cứ từng đợt, từng đợt rung lên kèn kẹt trong tiếng thổn thức, xuýt xoa, rền rĩ… Sóng chăn chuyển động không ngừng như khêu gợi và khiêu khích những chàng trai chưa vợ. Đôi lúc, do hăng hái quá hay sao đó, hết cái đầu lại đến đôi chân của anh chồng thò thụt cả ra ngoài khiến cô vợ phải vội vàng quờ chăn che lại. Cuối cùng thì đến chiếc quần lụa đen của cô chẳng biết thế nào cũng bị đạp rơi xuống đất cùng với chiếc quần đùi của gã trai.

Hân không ngờ vợ chồng Chiến lại có thể liều lĩnh hành sự theo kiểu ấy. Cả tiểu đội đành phải thở dài, lánh đi chỗ khác, chịu mất giấc ngủ trưa quý báu. Có anh nhìn mấy thứ quần áo nằm tơ hơ dưới đất mà nuốt nước bọt một cách thèm thuồng. Biết làm sao được bây giờ! Giá mà có được một cái chiêu đãi sở như ngày xưa nhỉ! Hân chợt mường tượng đến căn nhà nhỏ vách đất mái nứa ở ngay bên ngoài doanh trại. Không giường, không bàn ghế, cửa là một tấm liếp được che chắn sơ sài, bố bảo cũng chẳng ai dám đưa người thân của mình vào đó! Khác xa với khái niệm về chiêu đãi sở mà Hân từng biết bảy năm về trước, khi cậu học sinh vừa hết cấp hai được đi thăm anh trai lúc đó đang đóng quân ở Hòa Bình.

Không hiểu có phải là do học tập và làm theo mô hình của quân đội Trung Quốc hay  không, nhưng đúng là trong thời bình cũng như vào những năm Mĩ mới ném bom miền Bắc, tại gần nơi đóng quân của các trung đoàn, sư đoàn hay đơn vị quân đội nào đó vẫn thường có những khu nhà được gọi là chiêu đãi sở. Một danh từ đặc Tàu. Bố mẹ, vợ con, anh em của các quân nhân – chủ yếu là sĩ quan cấp úy (vì đối tượng này mới có điều kiện) mỗi khi lên thăm đều được bố trí ăn nghỉ ở đó, có người phục vụ đàng hoàng. Tất nhiên, phải xuất trình đầy đủ các loại giấy tờ cần thiết và đặc biệt quan trọng là phải có tem gạo cộng với tiền ăn nộp cho nhà bếp theo mức đại táo, mỗi ngày là sáu hào tám. Ai đó muốn chơi sang thì có thể đăng kí ăn trung táo, một đồng hai một ngày nhưng số này không nhiều. Chẳng mấy ai lại dám ăn một bữa cơm nhiều thịt cá trong khi những người ngồi ngay bên cạnh chủ yếu chỉ có rau.

Tùy theo điều kiện từng nơi mà nhà có thể là tranh tre nứa lá hoặc nhà xây cấp bốn, lợp ngói. Điện, nơi có nơi không hoặc dùng máy phát, sẽ tắt vào khoảng chín mười giờ tối. Nhưng mỗi căn nhà như thế lại được chia làm hai hoặc ba buồng, chừng mươi mười lăm mét vuông, có bàn ghế, giường tủ đàng hoàng. Chăn màn, chậu thau, phích nước và ấm chén được cho mượn. Nước, thì múc từ giếng lên hoặc dùng luôn nước suối. Ấy thế nhưng người ta vẫn cảm thấy mình may mắn lắm vì đã có cơ hội gặp gỡ chồng con, anh em, cho dù chỉ được một vài ngày. Và không ít đứa trẻ đã ra đời từ những cuộc trùng phùng ngắn ngủi của các cặp vợ chồng trong những căn phòng bé nhỏ khiêm nhường được gọi hơi quá lên là phòng hạnh phúc thuộc các chiêu đãi sở.

… Chiều hôm ấy, Chiến được ưu tiên cho nghỉ một buổi tập để còn tiễn vợ. Anh chàng khoái chí, phởn phơ ra mặt, chỉ tiếc là chuyến thăm của cô nàng quá ư ngắn ngủi không có cách nào kéo dài thêm. Cũng không tưởng tượng được, là Chiến lại oang oang khoe với mọi người, rằng trên đường đưa vợ ra bến xe, cậu ta còn tranh thủ kéo cô vào sau bụi rậm, làm thêm một phát.

           – Sướng ơi là sướng nhé! Phải mỗi tội, chỉ sợ có ai bắt gặp thì chết! Đến nỗi không dám cởi cả quần dài ra nữa – Chiến vừa nói với đầy vẻ tự hào vừa kéo ống quần để lộ cái đầu gối sứt sát và rớm máu. – Mẹ, nó cứ rên lên rồi khóc lóc, bảo anh giết chết em đi, đừng để em về nữa. Chứ anh đi rồi, em biết sống thế nào… 

Những ngày sau, thỉnh thoảng lại có người lên thăm đám lính sắp đi B. Chẳng biết suy nghĩ thế nào, nhưng bố mẹ của Ráng còng, một anh chàng cao vổng, đen gày lại cạy cục đem theo một con gà sống thiến nặng tới hơn hai cân và ba cân gạo nếp từ mãi tít huyện Vĩnh Bảo lên, cách nơi đơn vị đóng quân tới gần một trăm cây số. Định là để đến nơi mới làm mọi thứ cho nó ngon lành. Nào ngờ, dọc đường bị một lũ quản lí thị trường bắt mất vì tội buôn gian bán lậu. Hai ông bà đành tay trắng đến gặp con, kể lại mọi chuyện một cách đầy uất ức. Nghe nói, sau khi về đến nhà xin được giấy chứng nhận của xã, rằng mình không phải là người buôn bán gì để đi nhận lại con gà và mấy cân gạo nếp thì ông bố của Ráng mới biết là cả hai thứ ấy đã được nộp lên cấp trên rồi! Khổ cho ông già mất công đi đi lại lại, biết là bị chúng nó ăn tươi nuốt sống của mình mà không làm gì được.

Hai tháng bồi dưỡng đi B kết thúc, cơm và thức ăn thừa đem cho lợn không hết, đổ đầy cả bờ suối, gốc cây… bốc mùi nồng nặc. Đến khi được lệnh xuất quân, đại đội của Hân vẫn tồn kho đến hơn năm tạ gạo và bột mì, mấy chục cân muối và cá khô lại còn nước mắm hơn chục lít. Không ai biết những thứ ấy rồi sẽ được giải quyết như thế nào hay cứ để đó cho chuột bọ và các loại thú rừng vào phá. Nhưng nộp lại cho cấp trên hay đem bán đi thì không được phép. Về mặt nguyên tắc và căn cứ theo sổ sách giấy tờ thì tất cả những thứ đó đều đã được tiêu thụ hết. Không được phép để lại một thứ gì! Chẳng bù cho những ngày lính tráng lúc nào cũng đói. Hỏi, thì đại đội phó Dương bảo ở đơn vị nào cũng thế, không ai dám cho các anh ăn uống thả phanh. Bao giờ cũng phải dự trữ một ít để phòng khi cơ nhỡ. Số lượng gạo và thực phẩm dự trữ này được trích từ tiêu chuẩn hằng ngày chứ không phải là được cấp thêm đâu nhé. Nhưng đến lúc báo cáo quyết toán, thì tất cả đều đã được chi dùng hết, không được phép thừa một tí gì.

Ai cũng thấy có cái gì đó không phải trong cách giải thích của thủ phó Dương, nhưng chẳng ai thèm kêu ca gì nữa. Tất cả đang nhộn nhạo chờ đến lúc xuất quân. Bây giờ, Hân và mọi người trong đại đội của anh đều đã được lên binh nhất, hưởng phụ cấp sáu đồng một tháng. Hơn mức cũ được một đồng!

 

*

*          *

 

Hân lên đường đi chiến đấu vào một ngày đầu tháng năm. Mệnh lệnh bất ngờ được đưa ra khiến mọi dư đoán của các quân sư quạt mo đều sai bét. Lính tráng bị cấm trại ngay và không anh nào kịp biên thư báo tin cho gia đình nữa. Mà có biên cũng chẳng để làm gì, vì không thể gửi ngay đi được; tất cả đều phải qua quân bưu chứ có ai đem được ra bưu điện đâu. Và như thế, khi thư đến được tay người nhận thì cả đơn vị đã đi xa rồi.

Trong tâm trí của Hân và đồng đội đầy ứ nỗi uất nghẹn của những người bị ngang nhiên tước đoạt mất mười ngày phép. Bởi vì theo quy định chung, bộ đội trước khi đi B bao giờ cũng được nghỉ phép mười ngày. Mười ngày ấy vô cùng quý giá, vì đối với rất nhiều người, đó sẽ là lần cuối cùng họ được gần gũi bố mẹ, anh chị em, bè bạn. Cuộc chia tay không hẹn ngày về, nói quá lên là cuộc chia tay để đi vào chỗ chết. Vì thế có người vội tranh thủ cưới vợ, ai đã có vợ rồi thì cố gắng tìm cách để may ra có được đứa con… Vậy mà mười ngày phép ấy của cả tiểu đoàn đã bị cắt, không một lời giải thích. 

Lính tráng ngơ ngác nhìn nhau, xì xầm bàn tán. Người thì cho rằng, phải đi gấp vì ở đường chín Nam Lào đang đánh nhau to lắm, cần quân bổ sung cấp tốc. Số khác thì cãi, bọn mình đã được về nghỉ Tết đấy thôi, nay người ta trừ đi. Người lại cho rằng chẳng qua do các ông ấy sợ lính tìm cách đào ngũ vì không có đơn vị nào, sau khi nghỉ phép đi B lại có đủ trăm phần trăm quân số. Một vài anh em khác thì chỉ biết thở dài, nhưng không ai dám kêu ca gì hết. Riêng đối với Hân, anh không tài nào hiểu được, tại sao cấp trên lại có thể đang tâm tước đoạt kì nghỉ phép của hàng trăm con người. Không thể nào đổ tại lí do thiếu lính, vì đưa được quân từ đây sang Nam Lào, ít nhất cũng phải mất mươi mười lăm ngày, quá muộn! Sợ lính đào ngũ, thì đúng là trò vớ vẩn, vì có tiểu đoàn nào mà chẳng có người đào ngũ! Đi mà bắt về, chứ can cớ gì lại cắt phép của những người khác, chấp hành nghiêm chỉnh! Còn nếu nói tại đã nghỉ Tết rồi thì đấy lại là trò ăn gian, vì nghỉ Tết chỉ có bảy ngày. Nghỉ phép đúng ra là mười ngày kia mà! Vậy thì ba ngày nữa đi đâu?

Tiểu đoàn 530, tiểu đoàn của ông Chinh hói còn gọi là Chinh lửa vì ông này rất nóng tính, lên đường với nỗi hậm hực, bực mình như thế. Tất cả hành quân bộ về ga Hỗ, tập trung ở đó lĩnh quân trang rồi mới lên tàu. Nhưng chiến trường thực sự là cái gì, thì chưa ai hình dung được. Chỉ biết từ giờ phút này, mỗi người chẳng còn giấy tờ tùy thân gì nữa. Không có chứng minh thư của lính. Thay vào đó là một mảnh giấy bé tí teo ghi tên tuổi và phiên hiệu đơn vị. 2294. Hai hai chín tư. Mọi thứ sổ sách, thư từ, ảnh chụp… đều được yêu cầu gửi về gia đình để giữ bí mật, như người ta phổ biến.

Chặng đường khá xa, nhưng quang cảnh đầy vẻ thanh bình. Qua một vài thôn xóm, đã nhìn thấy rơm rạ, thóc lúa phơi ở trên đường. Một mùi hương thoang thoảng lan trong gió, nhưng không gợi nên cảm giác về no ấm. Nghe nói vụ chiêm năm nay lại mất mùa. Rơm rạ này là từ những trà lúa sớm, chứ chính vụ, thì phải tháng sau. Lúc ấy mình đang ở đâu rồi nhỉ? Có người lính đã tự hỏi mình như thế.

Không biết nghe ai báo tin, nhưng lác đác một số người đã bám theo đoàn quân về nơi tập kết. Dọc đường, có cô vợ trẻ dắt xe đạp, định chở ba lô giúp chồng nhưng bị cán bộ gạt đi vì điều lệnh quân đội không cho phép. Một chị áo trắng quần đen chầm chậm đạp xe từ cuối lên đầu trung đội của Hân, hỏi đi hỏi lại xem có em nào ở phố Lê Lợi, Đà Nẵng hay Tô Hiệu cần báo tin cho gia đình không, chị sẽ giúp. Còn nếu ở ngoại thành thì thôi, vì xa quá, các em thông cảm. Sau khi suy nghĩ đắn đo một lúc, Hân đánh bạo nhờ người phụ nữ không quen biết ấy theo kiểu cầu âu, vì đường xa như thế… Chị cẩn thận ghi địa chỉ của  Hân vào một mảnh giấy rồi đạp xe lên phía trước cùng với lời hứa thế nào cũng sẽ tìm đến tận nhà.

Đó đây, bên những đoạn đường qua các nhà dân lại có những thùng nước vối, gáo dừa và mấy chiếc bát sành cho bộ đội ai khát thì uống. Một vài đứa trẻ ngơ ngác nhìn theo. Có bà cụ lưng còng, mắt nheo nheo hướng về phía đoàn quân tung bụi đỏ. Có chị còn nấp sau cửa sổ, lấy tay lau mắt. Không có chồng con của các bác các chị ở đây đâu! Hân những muốn kêu lên như thế. 

 

Chiều tối, cả tiểu đoàn của Hân về đến nơi tập trung quân. Hải Phòng chỉ còn cách một độ đường. Mười bốn cây số! Đạp xe chỉ mất khoảng hơn một tiếng đồng hồ. Đi bộ, cùng lắm là ba bốn tiếng. Gia đình và tất cả những người thân yêu nhất đang ở đó… Thao tắc kè ghé vào tai Hân nói nhỏ:

– Quân cảnh vây chặt hết mọi lối đi rồi ông ạ. Nội bất xuất, ngoại bất nhập, chúng nó kiểm soát ghê lắm.

– Ờ thì người ta sợ mình đào ngũ mà. – Hân đáp.

– Thế… Ông có định trốn không?

Hân trợn mắt:

– Trốn là trốn thế nào! Có mà tù mọt gông!

Thao lấm lét liếc nhìn xung quanh rồi lại thì thào:

– Thì… trốn về mấy ngày thôi. Xong, mình lại lên đơn vị chứ có ở lại hẳn đâu… Thằng Dũng nghiện nó đã trốn rồi.

Hân lặng im, nhưng anh nghĩ Dũng nghiện có bỏ trốn thì cũng là do nó đã bị làm nhục và đánh đau đến thế… Nhưng dù sao, đào ngũ cũng là điều vô cùng dại dột. Chỉ có chết thôi. Đêm mai đã đi rồi, còn đơn vị nào nữa mà lên! Còn trại giam thì có! Mình sẽ không bao giờ đào ngũ, cho dù có phải vùi thây ở một nơi nào đó, Hân thầm hứa với mình. Và cho đến lúc này thì anh cũng đã biết, ai là người ton hót với chỉ huy đại đội về vụ thằng Dũng hôm nào. Chính là cái thằng Thao này đây. Thật kinh tởm cho bộ mặt thơn thớt nói cười của nó! Nhưng rốt cuộc, nó cũng có được cái gì đâu! Giả dụ bây giờ mình nói với nó là sẽ đào ngũ… Có lẽ chỉ sau mươi mười lăm phút, chỉ huy sẽ biết ngay. Và đêm nay, cái thằng mật thám này cũng sẽ vẫn đi B như thường. Không có phép màu nào cho nó ở lại ngoài này. Nhưng sao nó lại hay bán đứng anh em như thế? Do bản tính của một con chó săn trung thành với chủ hay sao?

Tối hôm ấy, Hân trằn trọc mãi không ngủ được vì căn nhà vừa nóng vừa chật. Đã thế, ông lão chủ nhà khoảng trên dưới sáu mươi lại tỏ ra thông cảm, đến độ cho Đồi “cao” được ngủ cùng với cô vợ trẻ vừa mới bám theo cậu ta đến tận đây. Không ai lấy làm khó chịu hay bàn ra tán vào gì, chỉ có đương sự là hơi bẽn lẽn và xấu hổ cứ ngần ngừ mãi khiến ông chủ nhà phải động viên:

– Thôi thì anh ấy ra đi cũng là vì nước vì dân… Gia đình chúng tôi không kiêng kị gì đâu! Chị cứ vào trong ấy mà nằm cho nó trọn nghĩa vợ chồng, may ra kiếm được đứa con thì tốt quá. Chứ không thì cũng khổ… Đàn bà con gái chỉ có một thì…

Nghe những lời nói như rút từ gan ruột ấy của ông già, Hân cảm thấy thật buồn. Có lẽ phải là người Hân tiến lắm, ông mới dám làm như thế. Bởi vì, việc để cho một đôi vợ chồng nào đó ngủ chung giường trong nhà ai cũng là điều tối kị. Nhất là ở gian ngoài, lại càng không. Người ta sợ bị uế tạp, xúi quẩy chết! Vậy mà ông già này đã thản nhiên bước qua định kiến tự bao đời ấy một cách thật nhẹ nhàng. Ôi, tấm lòng bao dung, trắc ẩn của con người! Chỉ còn đêm nay nữa thôi. Đêm mai, cùng với cả tiểu đội này, đại đội này, tiểu đoàn này, Đồi sẽ ra đi… Liệu sau này cậu ta có còn sống để trở về không? Mà nếu có trở về thì chắc gì đã nhớ đến một ông lão vô danh ở cái xóm nằm kề bên quốc lộ này với nghĩa cử nhỏ thôi nhưng không hề tầm thường một chút nào?

Cô vợ của Đồi dân dấn nước mắt: “Con cám ơn ông” nhưng cũng phải một lúc lâu sau mới dám thẹn thò lên giường với chồng. Màn xô, kín như bưng, chẳng ai nhìn thấy gì lại còn có thêm cả một tấm ri đô che chắn không khác gì một căn phòng nhỏ. Nhưng những âm thanh vọng ra từ đó thì không giấu được ai. Suốt đêm, Hân thỉnh thoảng lại nghe thấy tiếng khóc lóc, than thở đầy ai oán của người vợ; tiếng Đồi thì thào an ủi và hứa hẹn, tiếng dát giường cọt kẹt…

Không biết qua cái đêm gần gũi sượng sùng, gượng gạo kia, vợ chồng Đồi có con được không và số phận của cậu ta sau này như thế nào. Nhưng Hân không hiểu được, tại sao lại có những đám cưới vội vàng như kiểu vợ chồng Đồi hoặc Chiến thèm. Chưa quen biết gì nhau, bỗng nhiên trước khi đi bộ đội hoặc qua mấy ngày nghỉ phép ngắn ngủi đã vội vàng làm đám cưới được ngay. Gấp gáp, hối hả cứ như đánh trận. Mà đúng là đánh trận còn gì! Rồi chưa kịp quen hơi bén tiếng nhau, người chồng đã ra đi, để lại cô vợ trẻ rất có thể chẳng bao lâu sau đã trở thành gái góa hoặc mỏi mòn chờ đợi không biết đến bao giờ. Mà ngay cả khi người lính có trở về, thì chắc gì họ đã sống được với nhau hạnh phúc. Cũng không dễ bỏ nhau. Thế mà bao nhiêu đoàn thể, tổ chức từ phụ nữ đến thanh niên và cả gia đình, bè bạn… lại còn khuyến khích và ủng hộ. Sao người ta không nghĩ đến những hệ lụy về sau? Ngược lại, còn cố động viên nhau bằng những lời lẽ chẳng có ai tin nổi, đại loại như em cứ yên tâm chờ đợi, thế nào anh cũng sẽ trở về! Có cả một guồng máy thông tin tuyên truyền để làm việc ấy. Cứ như thể đạn bom chết chóc phải tránh xa ra, không chạm được vào anh…  

 Sáng hôm sau, vừa mới bảy giờ lính tráng đã phải tập trung ở sân kho hợp tác để nộp trả quân trang cũ, lĩnh quân trang mới. Hơn hai tiếng đồng hồ trên người chỉ còn đúng một cái quần đùi, mãi rồi Hân cũng được ôm chiếc ba lô con cóc “chồng đeo vợ khóc” mới toanh, trong đó đựng toàn bộ gia tài của người lính. Từ quần áo đến tăng, võng, màn tuyn, bi đông nước và chiếc mũ cối Trung Quốc chứ không phải là mũ tai bèo như đã từng đồn đoán. Loáng một cái, tất cả đều đã biến thành những con người khác sau khi khoác lên mình bộ quân phục mới, được may bằng vải phin màu lá cây và đi dép cao su đúc cũng của Trung Quốc nốt. Không thể lẫn đi đâu được. Khác hẳn đám quân cảnh đầu mũ cối Việt Nam, chân đi giày vải. Anh nào cũng đeo băng đỏ, khoác súng AK, mắt gườm gườm và vẻ mặt lạnh lùng, sẵn sàng hành động.

 

Thầy mẹ và đứa em gái của Hân chờ suốt từ lúc bảy tám giờ sáng, cuối cùng cũng gặp được anh. Thì ra, chị ấy có đến nhà! Hân bỗng cay cay mắt. Ông Hương kể, khoảng chín giờ tối qua, lúc cả nhà đã tắt đèn đi ngủ thì bỗng nghe thấy tiếng người gọi cổng. Bà tất tả chạy ra, còn chưa hiểu có chuyện gì thì chị ấy đã hỏi đây có phải nhà em Hân đi bộ đội đóng ở Yên Tử không. Rồi cho biết là tối nay, đơn vị em sẽ về tập trung ở gần chợ Hỗ. Đêm mai là lên tàu để đi B rồi. Nếu gia đình muốn gặp em thì phải đi thật sớm… Bà Hương chưa kịp hỏi gì thêm thì chị đã lại vội vã đạp xe đi vì còn phải báo tin cho mấy gia đình nữa. Không mời được chị vào nhà, mà cũng chẳng kịp hỏi tên chị là gì. 

Mọi người gắng gượng nói chuyện với nhau trong một không khí buồn như đưa đám. Nhưng vừa mới được vài câu thì đã bị đám quân cảnh ra xua đuổi. Những là, thôi hai bác về đi cho chúng tôi còn làm nhiệm vụ; đồng chí vào ngay trong kia, không được đứng ở đây… Không biết làm gì hơn, ông bà Hương đành phải giúi vào tay Hân một bọc ni lông rõ to, cố dặn anh thêm vài câu rồi ra về, nước mắt lưng tròng.

Hân đứng đó thêm vài giây, nhìn theo bố mẹ và đứa em gái mới lên mười. Nó cứ đi được vài bước lại ngoái nhìn anh, quệt tay ngang mắt… Lúc ấy, Hân không khóc được vì dù sao cũng đang đứng trước mặt đám quân cảnh đang nhìn anh đầy cảnh giác. Chao ôi, đồng chí với nhau cả đấy! Hân chỉ khóc khi đã vào trong nhà, mở gói ni lông cũ ấy ra. Anh sửng sốt thấy một con gà luộc, đĩa xôi đỗ xanh và mấy quả chuối tiêu. Cứ như là đồ cúng người đã chết! Sao thầy mẹ lại làm thế này?! Cổ họng Hân nghẹn lại. Anh nấc lên một tiếng rồi nước mắt trào ra, không cách nào ngăn được.

Hân biết, con gà ấy được nuôi là để dành cho ngày giỗ bà nội anh vào tháng sau. Nhưng không ngờ, nó đã bị đem ra làm thịt. Chắc là sáng nay, thầy mẹ phải dậy từ rất sớm để kịp làm mọi thứ, sau đó còn ra bến xe, xếp hàng mua vé chuyến đầu tiên chạy lên đây… Nhưng lúc này còn ai có tâm trạng nào để mà ăn nữa!   

 

 

 

Bảy giờ rưỡi tối, toàn tiểu đoàn có mặt ở sân đình để làm lễ chia tay. Micrô ậm ọe phát ra những lời lẽ động viên, hứa hẹn của các vị đại diện chính quyền địa phương, đoàn thanh niên, phụ nữ. Nhưng gây ấn tượng nhất đối với Hân cũng như hàng trăm con người,  chắc chắn phải là sự xuất hiện của tham mưu trưởng trung đoàn. Nổi tiếng từ thời chống Pháp, từng được đi dự Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc, được gặp Bác Hồ. Chẳng biết tại sao cho đến tận hôm nay, ông mới chỉ đeo lon đại úy và cũng chưa có vợ con gì hết. Người ta đồn, rằng ông kiêu căng tự phụ, coi một số cán bộ cấp trên chẳng ra gì lại còn công khai tuyên bố “Úy già hơn tá non” và cũng chưa vào Đảng. Không phải đảng viên mà được phong đến đại úy là hiếm lắm. Có lẽ toàn quân, chỉ ông này là một! Vì, có muốn đi học sĩ quan, ra trường thường chỉ nhận quân hàm thiếu úy thì tiêu chuẩn đầu tiên cũng vẫn phải là đảng viên kia mà!

Và đây, tham mưu trưởng đã bước đến trước micrô, chỉnh lại phím đàn ghi ta trong tiếng vỗ tay reo hò của những người ngồi bên dưới. Trắng trẻo, tầm thước và đầy vẻ nghệ sĩ, từ người đàn ông ấy toát ra một cái gì đó thật sang trọng, thậm chí là hơi điệu đà, không phù hợp lắm với khung cảnh chung lúc này và cả nội dung bài hát nhưng khán giả vẫn thích mê lên được.

                Các anh đi

                Ngày ấy đã lâu rồi

                Xóm làng tôi còn nhớ mãi

                Ước mong sao

                Đến khi nào trở lại…

Cái micrô bỗng nhiên không còn một tiếng lục cục lào cào nào nữa. Chỉ còn vang lên giọng bariton ấm áp hòa với tiếng ghi ta của ông đại úy. Hàng nghìn người dân địa phương, già trẻ lớn bé và cả đoàn quân lặng đi như uống lấy từng lời bài hát. Không còn những vất vả lo toan, đói nghèo hay đạn bom, chết chóc… Chỉ có những âm thanh làm xao động lòng người. Chỉ còn ông đại úy với tiếng ghi ta trầm bổng. Nhưng bài hát, cuối cùng cũng hết. 

Ngay lập tức, cả đám đông ồn lên như chợ vỡ. Tiếng la hét, quát tháo xen lẫn những bước chân thậm thịch, tiếng còi huýt chói tai. Các cấp chỉ huy đang ra sức tập hợp lính tráng lại, xếp hàng để ra ga. Quang cảnh càng hỗn loạn hơn, khi những ngọn đèn măng xông giảm cường độ sáng rồi từ từ tắt ngóm. Người đi tiễn, dân địa phương, đám lính đi B rồi quân cảnh… lúc hòa trộn, xoáy cuộn vào nhau, lúc lại chen lấn xô đẩy như đang bị cuốn đi theo một dòng thác vô hình nào đó. Đến lúc này, Hân mới nhận ra ánh trăng suông bàng bạc tãi dài trên mặt đất đầy những rác rưởi, rơm rạ và những bãi cứt trâu to tướng. Tất cả đều mờ mờ ảo ảo, ma quái và kinh dị như ở một cõi âm huyền bí hư vô nào đó chứ không phải là thực tế đang hiện hữu ngay trước mắt.

 

Mãi rồi cũng đến được chỗ đoàn tàu đen sì, dài dằng dặc đứng chờ từ lúc nào chẳng biết. Ánh đèn pin loang loáng rọi khắp nơi. Các cán bộ trung đội và tiểu đội tha hồ chạy đi chạy lại kiểm tra quân số và gọi tên từng người để lên tàu. Lác đác vẫn có những ông bố bà mẹ chưa chịu rời con và những anh lính gắt gỏng giục người thân của họ ra về. Phải mất đến hàng chục phút, mọi việc mới dần dần ổn định. Nhưng từ trong toa tàu tối om vì không được phép bật đèn, Hân vẫn nhìn thấy những bóng người xuệch xoạc dưới sân ga đang khóc lóc, dặn dò, hứa hẹn… Tất cả vỡ òa ra khi đoàn tàu rú lên một hồi còi và các toa tàu bỗng nhiên giật mạnh. Trong khoảnh khắc, Hân thấy rõ một người phụ nữ ngã lăn ra đường, giãy đành đạch và gào lên tuyệt vọng:

– Ối con ơi là con ơi! Chính ơ ơi… Hu hu…

– Nhâm ơi, con ơi!…

– Ơ cái bà này! – Một người đàn ông quát rất to. – Con nó đi chiến đấu rồi nó lại về, có gì đâu mà…

Tiếng kêu khóc như ri nổi lên đồng loạt át cả tiếng máy tàu. Một số người còn cố chạy theo ô cửa sổ có con em mình trên đó, với theo:

– Đi mạnh khỏe nhé!

– Nhớ biên thư về nhé!

– Con ơi!

– Ối giời ơi là giời…

Có vẻ như đã thắng được sức ì, đoàn tàu bắt đầu tăng tốc, lao về phía trước. Rồi chỉ lát sau, Hân đã không còn nhìn thấy đám đông nhốn nháo, thảm thương kia nữa. Đó cũng chính là những hình ảnh thê lương về một cuộc chia li mà anh không thể nào quên. Trái lại, nó sẽ còn bám theo anh mãi, như một nỗi ám ảnh khôn nguôi về chiến tranh và những mất mát, đau thương do nó gây ra, không cách nào xóa nhòa đi được.

 

 

            Bốn

 

Qua mấy ngày hành quân bằng phương tiện cơ giới, cả đơn vị Hân được chuyển hết tàu hỏa sang ô tô rồi lại ngồi sà lan để ca nô kéo ngược sông Gianh, đến chặng cuối cùng trên đất Bắc. Tối hôm sau, lính tráng được dồn lên những chiếc xe tải để vượt sang trạm đầu tiên của đường dây trên đất Lào. “Trạm” đây là trạm giao liên, có chức năng đưa đón các đoàn quân, dân chính, thương bệnh binh… vào ra theo đường mòn Hồ Chí Minh, còn gọi là Đường dây năm năm chín.

Trạm đầu tiên, nhưng lại gọi trạm Năm. Hay còn có cả bốn trạm nữa trên đất Việt? Hân không biết. Và tuy còn cách đó khá xa, mọi người đã phải nhảy xuống xe, dạt sang hai bên đường vì có máy bay địch vừa bay tới bắn pháo sáng. Hơi hướng đầu tiên của chiến trường đây! Nhưng súng chưa bắn và bom chưa nổ. Rồi thì cả đoàn quân mò mẫm nối nhau đi tiếp trên con đường trơn trượt vì cơn mưa từ bao giờ chẳng biết, khi pháo sáng đã tắt và máy bay địch không còn lượn vòng ở trên đầu. Thỉnh thoảng lại có anh vấp ngã dúi dụi và ai đó nói đùa: “Tháo đạn đứng dậy”! Cứ như là lúc ở thao trường ngoài Yên Tử.

Đại đội của Hân được đưa đến một bãi khách cũ, có sẵn cọc phụ để mắc võng, dây căng tăng và giá ba lô, giá súng nên rất nhàn. Có anh còn phởn chí, khe khẽ hát. Riêng Hân, trong khi giật thử dây võng xem đã đủ chắc chưa, chợt thấy cần phải cảm ơn biết bao, những ai đã nảy ra ý tưởng trang bị võng cho bộ đội. Nhờ có cái vật dụng rất tiện lợi này, mà bao nhiêu người đã không bị ướt, bẩn và các loại rắn rết, côn trùng đe dọa. Hồi chống Pháp, người ta chỉ có thể trải ni lông trên đám lá khô mà ngủ giữa rừng. Bây giờ có thêm cả chiếc tăng, một thứ mái nhà di động vô cùng tiện lợi được làm bằng loại ni lông dày, có vẻ rất bền để che mưa che nắng. Lại có cả những chiếc khoen cùng chất liệu cho lính dễ buộc dây. Tất nhiên, vào lúc này Hân còn chưa biết đến công dụng khác của mái tăng: nó sẽ là quan tài đưa các anh về với đất. Võng sẽ làm cáng thương và vải liệm. Hân nằm xuống chiếc võng còn thơm mùi vải mới, khẽ nhún thêm vài cái rồi đung đưa đôi chân để tận hưởng một thú vui nho nhỏ từ lâu đã bị lãng quên và tự nhủ, từ ngày mai cuộc thử thách cam go mới thực sự bắt đầu. Còn bây giờ, ngủ đã!

Buổi sáng đầu tiên ở Trường Sơn, Hân thức dậy trong tiếng sương rơi lộp bộp như mưa. Hơi nước từ khắp nơi bốc lên nghi ngút, làm nhòe cả cây rừng. Mọi người ăn sáng tại trạm, lĩnh nhu yếu phẩm cho chặng hành quân đầu tiên và nghe phổ biến nội quy trên đường. May mắn là gạo, ruốc, đường, sữa… tất cả chỉ độ bảy tám ki lô gam, cộng với quân tư trang, súng đạn, dao găm… mới khoảng hơn hai chục chứ không đến mức ba mươi, ba mươi lăm ki lô gam trên vai như những lời đồn thổi trước đây. Cứ đi bốn hoặc năm ngày tùy theo mức độ khó khăn vất vả của chặng đường sẽ được nghỉ một ngày để tắm giặt và lấy lại sức. Qua bốn, hay năm trạm sẽ đến một binh trạm, nghĩa là trạm lớn, đông người hơn, có cả bệnh xá và cơ sở vật chất, hậu cần đầy đủ. Ở đó, lính tráng được lĩnh gạo và thực phẩm bổ sung để đi tiếp. Tất cả đều phải tuân theo sự chỉ dẫn của giao liên, bao giờ cũng có hai người, một đi đầu và một khóa đuôi đề phòng bất trắc. Trung bình mỗi ngày sẽ phải đi khoảng trên dưới hai mươi cây số. Nhưng có khi phải mất tới hai ba ngày chưa chắc đã qua nổi một ngọn núi không nhìn thấy đỉnh vì đường đi vòng vèo và cây rừng che kín luôn tầm mắt. Có những cái dốc mà khi leo lên, đầu anh nọ thúc vào đít anh kia, mất hàng tiếng đồng hồ. Và có cả những chặng phải hành quân đêm để đảm bảo an toàn vì không thể đi được ban ngày.

Sau khi nghĩ đi nghĩ lại với rất nhiều tiếc nuối, cuối cùng Hân cũng đành phải đem bọc ni lông đựng cuốn sổ tay trong đó có mấy bài thơ và trang viết của anh nhét vào một hốc cây to gần ngay đầu võng. Chẳng biết là cây gì. Vĩnh biệt! Hân thầm nói với cái bọc ni lông ấy mà cảm thấy se lòng. Cho dù sau này, số phận có như thế nào thì mình cũng chẳng quay về đây được nữa. Đường đi ngày càng xa, sẽ đến lúc một cái cúc áo cũng muốn vứt đi cho đỡ nặng, nói gì đến sách vở và nhật kí! Không may mà chết đi, có ai đọc được lại bị đem ra cười cợt, chê bôi, đánh giá đủ điều… Hân không muốn thế. Chết là hết chuyện, là xong, có thế thôi.

 

Bắt đầu những thực hành về kĩ năng sống và đi lại ở trong rừng, cách căng tăng mắc võng thế nào cho thật chắc và không bị ướt nhưng tháo lại rất nhanh; cách uống nước sao cho đỡ khát và giữ được sức; dừng chân dưới trời mưa rồi chọn củi như thế nào để khi nấu nướng không bị khói… Toàn những thứ liên quan đến sự sống còn của người lính mà nếu không có nó, thật khó tồn tại được. Cũng từ chặng hành quân đầu tiên này, Hân và đồng đội của anh mới làm quen với cây gậy chống, cây gậy Trường Sơn và thấy được cách tuyên truyền độc đáo, là cổng chào hai mặt.

Ở mỗi binh trạm, không biết theo sáng kiến của ai, người ta đã dựng lên những cổng chào. Cái cũ cái mới, cái to cái nhỏ và cũng chẳng theo một kiểu cách nào, nhưng có một điểm rất giống nhau. Lối từ Bắc vào, là khẩu hiệu Nhiệt liệt hoan nghênh những người con ưu tú của hậu phương lên đường giải phóng miền Nam. Phía ngược lại, tức là từ Nam ra thì Nhiệt liệt chào mừng các đồng chí đã hoàn thành nhiệm vụ trở về được viết trên vải bạt, ni lông hoặc tấm cót. Câu chữ thì có thể khác nhau tí chút, nhưng nội dung cơ bản vẫn chỉ là một thôi, tuy chữ mờ chữ rõ.

Những đoàn vào ra ấy có sự khác biệt nhau rất lớn. Nếu như phía vào đông tới hàng trăm, toàn đám thanh niên quân phục chỉnh tề, ba lô nặng trĩu thì phía ra chỉ có từng nhóm nhỏ, chừng dăm bảy người đến vài ba chục là cùng, với lứa tuổi rất khác nhau, đôi khi còn kèm theo cả phụ nữ đang mang thai và trẻ em. Phần lớn đều ốm yếu, xanh xao, đeo những cái bồng[64] nhỏ xíu. Rất ít thương binh, những người nhìn một cái biết ngay. Các đoàn đi ra ấy không phải ngủ ngoài bãi khách mà được đưa vào trạm, nghỉ ngơi trong những căn lán có sẵn và được phục vụ cơm nước đàng hoàng. Còn những người đi vào thì sáng, hành quân. Chiều đến điểm dừng, tự đào măng, kiếm rau, nấu lấy mà ăn, nắm cơm cho bữa sáng hôm sau. Buổi trưa thì đang ở trên đường, không ăn gì cả. Xoong nồi đã được phát cho từng tiểu đội, mọi người cứ lần lượt thay nhau mà mang đi. May, là đồ nhôm Liên Xô cũng nhẹ. Người ta lại đã tính toán rất kĩ để mỗi chiếc vung được chia thành hai phần như hai cái ngăn để đựng thức ăn.

Trong cái đoàn quân đi vào ấy, Hân cứ băn khoăn tự hỏi liệu những ai sẽ còn sống để được đi ra. Cái chết có hàng trăm kiểu, và ngay khi vào đến Trường Sơn, anh đã biết thêm những biến thể của nó rồi. Có người, mắc võng dưới gốc cây to, nửa đêm bị cành cây khô rơi xuống ngang thân. Không thể đưa đi đâu cấp cứu mà có muốn cũng chẳng ai biết đường và không cả phương tiện liên lạc với trạm; y tá thì có dụng cụ gì đâu mà cấp cứu! Sáng ra, anh lính trẻ chỉ còn là cái xác không hồn. Có người bị nước lũ cuốn trôi, đồng đội chỉ biết đứng nhìn mà không ai dám cứu, vì sau vài cú va đập vào những tảng đá to, ai cũng có thể bị biến thành một thi thể nát nhừ. Rồi chết vì trượt chân, rơi xuống vực…

Đến binh trạm Mười lăm, một cậu tên là Long bên A 9 chẳng may bị sốt. Anh này, từ khi ở ngoài Bắc đã nổi tiếng lừng chừng, hay nói ngang và bị cho là mắc bệnh tư tưởng. Căn bệnh quái ác này hình như chưa xuất hiện trong y văn trên toàn thế giới, mà chỉ có ở Việt Nam, với tất cả những ai chẳng may bị cấp trên gán cho cái tội không muốn đi chiến đấu. Vì thế, người ta luôn luôn có thành kiến với loại đối tượng này. Long bị sốt đúng vào hôm được nghỉ chân ở binh trạm. Y tá đại đội, theo lệnh của ai chẳng biết, thay vì phải tiêm cho cậu ta thuốc sốt rét thì lại chỉ tiêm một ống nước cất thôi. Để xem nó như thế nào! Không tưởng tượng được, sáng hôm sau Long vẫn cắt cơn, run rẩy chống gậy đi. Mấy cán bộ đại đội đứng ở đầu dốc nhấm nháy nhìn nhau đầy ý nghĩa. Riêng Lệ, chính trị viên phó thì mỉm cười giễu cợt:  

– Ôi giời, trông có khác gì bà đẻ không kìa!

Hân ngoái lại, thấy Long đeo ba lô thõng về trước ngực, súng khoác trên vai, chân đi bít tất đến gần đầu gối đang dò dẫm từng bước trên đường, miệng há ra mà thở. Không ai biết, án tử đã được tuyên đối với Long vì căn bệnh tư tưởng mà cậu ta không hề mắc. Tiêm nước cất mà cũng khỏi sốt là thế nào?! Chắc lại giả vờ, định kiếm cớ để vào nằm bệnh xá của đường dây rồi tìm cách chuồn đây mà, ai còn lạ gì chúng mày! Hẳn đã có người nghĩ thế và họ càng tin hơn khi thấy Long, sau một đêm lại có thể bước đi.

Tuy không thân thiết gì với Long, nhưng xót cho người bạn cùng cảnh ngộ, Hân lặng lẽ gỡ lấy ba lô của anh này, chuyển sang vai mình. Long phều phào cảm ơn Hân, nhưng vẫn gần như đi một bước lại trượt chân một bước. Còn Hân, mệt đến đứt hơi vẫn tự hỏi, sao bộ đội mình khổ thế! Liệu có ở đâu trên thế gian này, những người lính phải đi bộ hàng nghìn cây số vượt núi băng rừng trong hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt để tới được chiến trường? Không, chỉ có ở Việt Nam! Cuộc Vạn lí trường chinh của Hồng quân Trung Quốc trước kia diễn ra trong một bối cảnh hoàn toàn khác; cho dù họ đã trải qua hai mươi mấy nghìn cây số từ nam lên bắc và chết đến hơn chín phần mười, thì đó cũng vẫn là một cuộc rút lui chiến lược. Mọi trận đánh trên đường chỉ là để thoát khỏi sự truy đuổi, bao vây của địch. Còn ta thì lại khác. Hành quân ra trận kia mà!

Tối hôm ấy, Long gục hẳn. Không thể ăn được một cái gì, cậu ta nằm trên võng, giãy giụa một lúc, sau đó ưỡn người lên một cái rồi nằm im. Bọt mép Long sùi ra, chân tay xuội hẳn, nhưng mắt thì không nhắm lại được mà hơi he hé. Tuy đã được gọi cấp cứu rất to nhưng mãi, y tá đại đội mới đủng đỉnh đến xem rồi lại còn tỏ ý ngạc nhiên, ơ, thế mà chết rồi à? Sao lại nhanh thế nhỉ! 

Tất nhiên, chết rồi thì phải chôn. Chờ đến khi trời sáng, người ta lấy ngay chiếc võng của Long để bọc cậu ta lại rồi gói ghém phía ngoài bằng tấm tăng vẫn mới nguyên. May mà sau một đêm, cái xác chưa bị con thú nào ăn mất hoặc mối xông, kiến cắn. Dây võng được cắt ra, buộc ở ba vị trí ngang cổ, bụng và dưới bắp chân. Tư trang của Long thì bàn giao lại cho trạm giao liên cùng với lí lịch trích ngang, để một lúc nào đó sẽ đưa ra Bắc, chuyển về cho gia đình. Ấy là nghe nói thế, chứ ai mà biết được liệu những di vật ấy có được đem ra Bắc thật hay không, và có mấy ai quan tâm đến nó. Nhưng dù sao, đó cũng là thủ tục không thể thiếu.

Trường hợp đầu tiên trong đại đội của Hân chết vì sốt rét ác tính diễn ra như thế. Nhưng mãi rất lâu sau, anh mới biết chuyện người ta đã tiêm nước cất cho Long. Còn lúc này, chiếc kim vẫn đang nằm trong bọc giẻ. Tiếp theo, có đến tận mười hai người nữa lần lượt được ghi vào danh sách nằm lại dọc đường, trước khi đại đội Hân vào đến khu tập kết Đống Đa ở miền Đông Nam bộ. Mười ba người! Vậy thì cả tiểu đoàn là bao nhiêu? Chưa kể số người chết vì những lí do khác. Mỗi năm, có bao nhiêu tiểu đoàn từ Bắc vào Nam? Sau này, liệu có bao giờ người ta dám công khai con số ấy? Hân không thể nào biết được. Việc của anh và đồng đội là đi. Chỉ có thế thôi. Không được thắc mắc, hỏi han gì hết.

Điều rất hay ho và cũng bất ngờ đối với Hân, là anh được biểu dương trước toàn đại đội sau hành động giúp đỡ Long. Chỉ tiếc là việc giúp đỡ ấy hoàn toàn vô nghĩa. Vậy mà ông Yên lại gọi Hân ra một chỗ động viên và hứa sẽ đưa anh vào diện cảm tình Đảng. Cố gắng lên, vào đến khu tập kết mà chúng tớ kết nạp được cậu thì tốt quá! Ở chiến trường, không cần phải xác minh lí lịch gì đâu! Ông ta thân mật vỗ vai Hân, khiến anh bỗng chốc cảm thấy lòng mình rạo rực như được tiếp thêm sức mạnh. Ô, có ai lại không mơ ước trở thành đảng viên cơ chứ! Được coi như một phần tử ưu tú, tiến bộ, được Đảng tin cậy và dìu dắt… Một cơ hội mới sẽ mở ra. Biết bao nhiêu là hi vọng! Nhưng tiếc thay, cơ hội ấy mãi mãi không bao giờ trở thành hiện thực đối với Hân, vì những lí do lãng xẹt.

 

Đi được một thời gian, lính tráng đã bắt đầu bị đói. Tiêu chuẩn mỗi ngày được bảy lạng gạo, nhưng thức ăn thì không có gì ngoài ít ruốc thịt hoặc bột trứng, thêm rau rừng hoặc măng, tùy vào khả năng tháo vát của mọi người. Lương khô, đường sữa phải để dành cho những khi cơ nhỡ. Tuyệt đối không được săn bắn thú vì biệt kích, thám báo địch như rươi. Nhỡ chẳng may lộ bí mật thì chết với chúng. Nhiệm vụ của ta lúc này là đi, chứ chưa phải đánh nhau! Vì thế, lính tráng được nhắc nhở là phải tăng cường cảnh giác, đi đâu cũng phải có từ hai đến ba người, súng đạn sẵn sàng.

Sức trẻ, lại phải đi suốt ngày này sang ngày khác nên đã đói lại càng đói thêm. Ăn uống thiếu chất, lính tráng đều xuống sức và gầy sút đi trông thấy. Nhưng càng vào sâu thì danh mục nhu yếu phẩm cấp cho bộ đội càng bị thu hẹp lại. Không còn đường sữa, mì chính, bột trứng và lương khô nữa. Có trạm chỉ còn gạo. Có trạm, đến gạo cũng không còn. Các đoàn quân phải đi nhổ sắn ở bãi tăng gia mà ăn. Lấy củ xong, lại chặt hom sắn vùi xuống đất để những người đi sau có được lứa sắn mới mà cho vào bụng. Chỉ lạ mỗi một điều, chất độc hóa học Mĩ rải xuỗng bất cứ nơi nào, cỏ cây đều chết hết. Chết cả những cây cổ thụ mấy người ôm. Nhưng cây sắn thì không. Nó vẫn lên xanh và chỉ mấy tháng sau đã cho những củ to mập mạp. Thú rừng có đào bới chán chê cũng không thể nào ăn hết.

Đói, nên lính tráng đua nhau đem đổi tất cả những gì có thể cho đồng bào dân tộc thiểu số để lấy thức ăn. Toàn những con người gầy gò, rách rưới, nước da đen sạm, hút những tẩu thuốc khét mù. Có người còn dắt theo cả những đứa trẻ cởi truồng, tay ôm quả bí ngô, con gà hay mớ rau gì đó. Những người này biết đâu là nơi bộ đội sẽ đi qua, nên cứ đứng đó chờ sẵn. Còn lính tráng thì cũng mong có cái để ăn thêm, nên đem đổi hết. Buồn cười là có anh định đùa, giơ ra mấy tấm ảnh con gái phương Tây lòe loẹt và bìa quyển Mao tuyển (sổ tay những lời dạy tiêu biểu của ông Mao) bằng ni lông đỏ cũng nhận được mớ rau be bé. Nhưng tăng, võng, mũ cứng, dép cao su, bi đông nước… thì không anh nào dám đem ra đổi. Đổi rồi thì lấy gì mà dùng? Khổ nỗi miếng ăn giục giã thôi thúc quá. Và thế là xảy ra trộm cắp lẫn của nhau.

Đại đội của Hân đã có người bị mất dép cao su. Người mũ cứng. Anh khác mất bi đông nước, dao găm… Thôi thế này thì chết rồi! Ai mà có thể đầu trần, chân đất hành quân? Lấy gì đựng nước uống? Dao găm không chỉ là vũ khí mà trước hết, nó là một công cụ rất quan trọng để chặt cây, chẻ củi, kiếm măng… Thế mà vẫn có kẻ đang tâm ăn trộm để đem đi đổi chác! Cực chẳng đã, lính tráng đành phải ôm lấy cả ba lô, dép cao su và mũ cối mà leo lên võng. Bi đông và dao găm thì luôn luôn đeo ở bên người. Nhưng những vụ trộm cắp vẫn xảy ra và giờ đây nó có vẻ luân phiên. Hôm nay, Hân thấy thằng A đi chân đất. Ngày mai, nó đã có đôi dép khác đi rồi. Ngày kia, lại thấy thằng B khóc vì mất dép. Mà dép đúc của Trung Quốc, đôi nào chẳng giống nhau! Truy làm sao được! Bi đông và dao găm cũng thế.

Cũng may, tình trạng ấy không kéo dài. Các chính trị viên đại đội nhắc nhở và quán triệt luôn. Nhưng điều quan trọng hơn, có lẽ là ở chỗ lính mình cũng hiểu ra, làm thế thì vô lương tâm quá. Đứa nào cũng khổ như nhau. Đứa nào cũng đang trên đường vào chiến trận, sao lại nỡ hại nhau như thế? Dần dần, tệ trộm cắp cũng lui và không thấy bà con người dân tộc thiểu số đứng chờ. Có lẽ tuyến đường đã vòng đi quá xa buôn làng của họ, nên người ta không bám theo nữa làm gì.

Mang sẵn trong lòng nỗi căm ghét các chỉ huy đạo đức giả và ăn bẩn, từ lâu Hân đã nung nấu mong muốn làm thế nào chửi được vào mặt bọn chúng một trận cho hả dạ. Nhưng làm sao mà thực hiện được điều này? Khó quá. Mãi, chẳng có cơ hội nào nên anh cũng không mong chờ gì nữa. Nhưng rồi dịp may hiếm có lại đến một cách bất ngờ, khiến anh quên luôn cả nỗi hi vọng vào ông Yên để trở thành người của Đảng.

Đã là lính ở chiến trường, ai cũng đều phải biết và thực hiện đúng nguyên tắc “Đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng”. Tuy nhiên, ở Trường Sơn thì vế một và ba được cho qua, còn vế thứ hai, phải thực hiện thật nghiêm không thì chết. Cái bếp Hoàng Cầm được sinh ra từ thời chống Pháp cũng chính là nhằm mục đích làm cho khói không thể bay lên được, chỉ lan ra trên mặt đất rồi tan dần. Còn hiện tại, thì lũ máy bay trinh sát L 19 và OV 10 thường xuyên bay lượn ở trên đầu và từ rất xa, chúng vẫn có thể phát hiện được khói bốc lên vào ban ngày, lửa vào ban đêm. Ngay lập tức, chúng chỉ điểm cho máy bay phản lực lao tới, ném bom hủy diệt.

Sẩm tối hôm ấy, sau khi đã cơm nước xong xuôi và nằm lên võng, Hân chợt nghe thấy tiếng điếu cày rít lên sòng sọc. Thì ra, chỗ của anh tình cờ lại cách ban chỉ huy đại đội có mấy bước chân, nhưng bọn họ ở trên cao, còn anh thì dưới bờ dốc thấp lại hơi lõm vào như một cái hàm ếch nên không nhìn thấy mặt nhau. Mà kể cũng lạ, trong khi nhiều người khác muốn vứt hết mọi thứ đi thì lão Yên này lại kì công đem theo một chiếc điếu cày suốt từ ngoài Bắc vào, cứ như là của gia bảo không bằng! Hân nhổm dậy, vì biết chắc thế nào cũng có thằng hút tiếp. Đây rồi! Không biết mồi lửa được châm từ củi hay lá cây nhưng cháy sáng cả một góc phía trên. Hân ngửa mặt, nhọn đít, dồn hết hơi sức gào lên đến mức to nhất để cho mọi người nghe thấy:

– Đ. mẹ thằng nào đốt lửa kia? Định giết các bố mày đấy à?!

Tiếng điếu cày tắt lịm giữa chừng. Ắng đi một lát, có lẽ vì thằng cha hút thuốc đang sặc khói và đúng như vậy thật. Hân nghe thấy tiếng ho bật ra như súng bắn liên thanh, mãi mới ngừng lại được rồi đến giọng của Yên vừa tức tối, vừa bất lực:

– Đứa nào đấy? Chửi cả người nhà nữa à? Người ta vừa mới hút điếu thuốc lào chứ có đun với nấu gì đâu mà chửi! – Và lại thêm một tràng ho sặc sụa.

– Ối, thủ trưởng, em xin lỗi!

Hân kêu lên, vờ như vừa nhầm lẫn nhưng trong bụng thì lại nghĩ, ai là người nhà của chúng mày! Suýt nữa thì anh phá lên cười sung sướng. Thế là mình đã chửi được chúng nó rồi! Mà chửi thẳng vào mặt thằng cha Yên nhé! Tức chưa con? Bố đã cho mày biết thế nào là lễ độ rồi nhé! Đồ bất nhân thất đức! Hân nằm lăn ra võng, đập tay đạp chân, cười không thành tiếng.

Sáng hôm sau, mấy cu cậu trong tiểu đội của Hân mắt tròn mắt dẹt nhìn anh đầy thán phục. Có người còn khen, rằng anh đã uống thuốc liều và cho chúng nó một bài học nhớ đời. Hân lấy làm khoái chí đến nỗi, đang leo dốc anh cũng phá lên cười sằng sặc với chính mình. Sướng thật!

Chính trị viên Yên không làm gì được Hân sau vụ ấy. Mà có thể làm gì được chứ! Đã mang thân vào đến đây, anh có còn gì để mất đâu! Hơn nữa, quy định là không được đốt lửa vào buổi tối và ban đêm kia mà! Chính trị viên đành chỉ còn nhắc nhở chung chung, rằng anh em nên ăn nói cho cẩn thận, có gì thân ái nhắc nhở nhau, đừng chửi bới lung tung dễ gây mất đoàn kết. Chẳng gì mình cũng là những người lính Cụ Hồ… Ra thế kia đấy! Sao tự nhiên nó lại thay đổi giọng điệu nhanh thế nhỉ! Hân hơi ngạc nhiên trước thái độ của chính trị viên và cũng nhận ra, thôi thế là xong! Đừng hi vọng gì vào chuyện sẽ được kết nạp hay cảm tình gì nữa. Và thực tế sau này diễn ra đúng như anh dự đoán.

Mấy năm sau, khi đã trở ra miền Bắc, Hân được biết ông Lễ đã lên thượng úy, chỉ huy một đơn vị lính cải tạo ở Trấn Dương, Vĩnh Bảo. Ông Lệ, bây giờ là thiếu úy, được điều về trung đoàn. Dương, số phận thế nào không biết. Riêng “ông lấy đầu” thì lâm vào tình trạng thật đáng buồn. Được an dưỡng trong khi chờ đợt tuyển quân mới, ông ta léng phéng ngay với một bà có chồng đang chiến đấu ở miền Nam. Bị lũ trẻ con rình mò bắt được quả tang ngay tại trận, Yên bị khai trừ Đảng và sau đó cho phục viên. Thế là xong đời một kẻ vốn chuyên nghề rao giảng toàn những điều cao đạo nhưng bản thân lại chẳng ra gì.

 

*

*          *

 

Sau Tết ít lâu, Hân có cảm giác Cường không đến với Phương Linh thường xuyên như trước. Cô gái cũng không xuống chỗ Hân. Anh có thêm thời gian cho riêng mình để học hành và nghỉ ngơi nhưng cũng lại thiêu thiếu đi một điều gì đó. Quả thật, những câu chuyện không đầu không cuối của đôi trai gái yêu nhau có khi lại cho Hân biết khá nhiều điều thú vị về cuộc sống, con người ở đây và cả những chuyện tiếu lâm chính trị, những thứ vốn chẳng bao giờ có thể tìm thấy trên sách báo.

Chẳng hạn, nếu ra đường gặp một ông mugích[65] nào đó xoắn xít khen người Việt Nam là dũng cảm, anh hùng, là rất tốt… thì chắc chắn đó là một gã đang say rượu hoặc sắp sửa xin tiền để uống. Hay khi đến một kí túc xá sinh viên nào đó, gặp phải bà già gác cửa không muốn cho vào thì chỉ cần giúi cho bà ta một hộp cao Sao vàng là xong. Sau này Hân được biết thêm là với những công việc lớn nhỏ khác, cứ quà cáp đầy đủ vào là được. Với hải quan, công an, hàng không… cũng vậy. Thậm chí, có những nghiên cứu sinh Việt Nam bị coi là bảo vệ thành công được luận án là nhờ Lúa mới, một thứ rượu mà người Nga rất thích. Đây hình như cũng là mặt hàng xuất khẩu duy nhất của Việt Nam được đánh giá cao ở Liên Xô.

Hân không nhịn được cười khi nghe Phương Linh kể chuyện tiếu lâm về tệ ăn hối lộ ở đất nước này. Một người dân vùng Trung Á về thăm Mátxcơva. Anh ta muốn mua mấy thứ cần thiết nhưng không được vì tất cả đều là hàng mẫu, không bán. Nhưng đến khi có người mách nước, anh ta trả thêm tiền cho các cô bán hàng thì lại mua được ngay. Mãn nguyện, anh này chỉ còn mong được vào Lăng viếng Lênin lấy một lần nhưng bị lính gác chặn lại vì đã hết giờ. Theo lời khuyên của người đàn ông nọ, anh ta liền bước tới, cắm vào lưỡi lê của hai người lính gác cửa Lăng, mỗi người một tờ giấy bạc năm rúp. Ngay lập tức, cả hai liền rập mạnh gót giày đứng nghiêm, giơ tay chào theo đúng điều lệnh quân đội rồi mới hỏi:

– Thế bây giờ, ông muốn vào trong đó xem hay để chúng tôi khiêng ông ấy ra đây ạ?

Hân biết, Lăng Lênin là một công trình kiến trúc nom giản dị khiêm nhường nhưng vẫn toát lên vẻ trang nghiêm, thành kính, nằm trên Quảng trường Đỏ. Trước cửa Lăng, luôn luôn có hai người lính danh dự đứng gác suốt ngày đêm và mỗi giờ lại đổi gác một lần. Người ta gọi đó là vọng gác số Một của đất nước. Phía sau Lăng có một khu đất rộng mênh mông, kéo dài đến tận gần chân tường thành Điện Kremli, được dùng làm nơi chôn cất Xtalin và các Tổng Bí thư kế tiếp của Đảng Cộng sản Liên Xô. Mỗi ngôi mộ đều được xây bằng đá hoa cương, có dây xích chắn và bức tượng bán thân của người quá cố. Còn trên tường thành, người ta đục những ô nhỏ hình chữ nhật đứng theo một kích cỡ giống nhau để gắn hộp tro cốt của các vị lãnh đạo ở cấp thấp hơn, các danh nhân văn hóa và những người có cống hiến đặc biệt xuất sắc cho đất nước. Hân bắt gặp ở đó từ Giucốp, Côrưlốp đến Gagarin và nhiều tên tuổi khác.

Lịch sử của Lăng Lênin cũng trải qua những bước thăng trầm. Nằm đối diện một khu nhà đồ sộ được xây từ thời Nga hoàng, sau này trở thành cửa hàng Bách hóa tổng hợp lớn nhất Liên Xô, lúc đầu Lăng được dựng tạm lên bằng gỗ. Sau đó người ta mới xây dựng thành công trình vĩnh cửu bằng hai loại đá hoa cương màu đen và đỏ sẫm, rất hài hòa với cảnh quan Điện Kremli cũng như khu vực xung quanh. Đến năm một chín năm ba, Lênin bỗng có thêm Xtalin vào nằm bên cạnh. Từ đó, phía trên cửa Lăng có tên của hai người bạn chiến đấu gần gũi một thời. Nhưng rồi dưới sự chỉ đạo của Tổng Bí thư Khơrussốp, với lí do chống lại tệ sùng bái cá nhân, thi hài của Xtalin đã được đem ra an táng phía sau Lăng. Từ đó, trên Lăng chỉ còn hai chữ Lênin giản dị nhưng không kém phần trang trọng. Chỉ có điều, kẻ đã đưa Xtalin ra khỏi Lăng, đến lượt mình lại bị các đồng chí và đàn em của ông ta hạ bệ với lí do độc đoán, chuyên quyền và những tội danh khác dài dằng dặc. Ông ta chết như một thường dân và được chôn ở nghĩa trang ngoài thành phố.  

Cũng như rất nhiều người khác đến Mátxcơva trong những năm tháng ấy, Hân đã vào Lăng để được thấy Lênin. Thành kính, tôn thờ thì ít thôi, nhưng vì sự hiếu kì thì chắc chắn. Khổ nỗi, dòng người xếp hàng rất dài, chờ đợi mất thời gian nên Hân liền nói khó với viên cảnh sát trật tự, nhờ giúp đỡ. Anh này gật đầu thông cảm, khoát tay cho gã trai Việt Nam đứng lên phía trước. Thế là chỉ mấy phút sau, Hân đã được thấy Lênin.

Cái con người bé nhỏ nhưng vô cùng vĩ đại ấy nằm đó, quần áo, lá cờ, vòng hoa… thảy đều cũ kĩ và bạc phếch, không còn nhận ra được màu gì nữa. Hân chợt nhớ đến hình ảnh của Người qua những mét phim tư liệu. Dường như lúc nào cũng tràn đầy nhiệt huyết và năng lượng trên diễn đàn, trong nhà máy, giữa anh em lính thủy… Bây giờ, vị lãnh tụ lừng danh ấy nằm đây, thật khiêm nhường trong chiếc quan tài bằng thủy tinh lạnh lẽo.

Tất nhiên vào lúc này, Hân không thể biết được rằng chỉ hơn chục năm nữa thôi, cái đất nước vĩ đại của Lênin sẽ hoàn toàn thay đổi. Và sự thay đổi ấy sẽ phủ định sạch trơn mọi thành quả của Cách mạng tháng Mười cũng như tất cả những gì mà người dân Xô viết đã phải tốn biết bao nhiêu mồ hôi, xương máu để xây dựng nên và gìn giữ qua nhiều thế hệ. Thậm chí một số kẻ còn lên tiếng đòi phá bỏ Lăng và đem thi hài Lênin đi hỏa táng. Cũng từ đó, không còn ai đứng gác trước cửa Lăng. Nhưng cách đó không xa, ở một góc khác dưới chân tường thành Điện Kremli, bên Mộ chiến sĩ vô danh với hình tượng lá cờ được đặt nằm và chiếc mũ sắt Hồng quân tạc bằng đồng, Ngọn lửa vĩnh cửu vẫn cháy suốt ngày đêm, bất chấp nắng mưa, dông bão, tuyết rơi… tưởng nhớ những người con Xô viết đã hi sinh trong chiến tranh Vệ quốc.

Có một chuyện tiếu lâm khác, còn tệ hơn. Mấy bà nông trường viên làm việc trên cánh đồng. Họ nghĩ mãi vẫn không định nghĩa được chủ nghĩa cộng sản là gì. Cuối cùng, tất cả bèn cử một người đại diện về Mátxcơva để hỏi Brêgiơnhép[66]. Bà này đến nơi, vào Điện Kremli gặp Tổng bí thư. Không biết giải thích thế nào cho bà nông dân kia hiểu, Brêgiơnhép nhìn qua cửa sổ, ngẫm nghĩ một hồi rồi bảo:

– Bà có thấy không, kia là xe ô tô của tôi. Bên cạnh đó là xe của Côxưghin[67]. Nếu có thêm xe của bà vào nữa thì đó là chủ nghĩa cộng sản.

Bà nông dân cảm ơn Tổng bí thư rồi hớn hở ra về. Hôm sau, lại đi làm ở ngoài đồng. Không thấy chiếc ô tô con nào gần đó, mà chỉ có đống bao tải để đựng khoai tây. Bà băn khoăn một lúc rồi cuối cùng nói với mọi người:

– Các bà có thấy không, đây là bao tải của tôi. Đây là bao tải của các bà. Bao giờ có thêm bao tải của Brêgiơnhép và Côxưghin vào nữa thì đó là chủ nghĩa cộng sản.

Hân cũng chẳng thể nào ngờ được, là người ta lại có thể chiết tự bốn chữ viết tắt CCCP, thành Đất nước của các nhà lãnh đạo già nua nhất. Đúng đến từng chữ một! Không khó để nhận ra ở các nước được gọi là xã hội chủ nghĩa, bộ máy lãnh đạo cấp cao nhất gần

như đều ở lứa tuổi sáu bảy mươi, thậm chí nhiều hơn. Đến nỗi, ngoài sáu mươi rồi còn được coi là trẻ! Cùng với đó là tệ sùng bái cá nhân rất nặng.

Người ta thần thánh hóa lãnh tụ của đất nước mình như thể đó là các siêu nhân chứ không phải là con người nữa, với đủ các phẩm chất thiên tài, vĩ đại, cực kì… và mỗi lời nói của các vị ấy đều là chân lí. Hô “muôn năm”! chưa đủ, còn phải “muôn muôn năm”!. Đây là điều hình như chẳng bao giờ thấy ở các nước tư bản và đế quốc. Mà “muôn” tức là nghìn. “Muôn muôn năm” là một ngàn lần của nghìn năm, tức một triệu năm đấy nhé! Vẫn chưa đã. Người ta còn hô “muôn muôn muôn năm”! cho lãnh tụ vĩ đại, anh minh của họ. Ôi, khẩu hiệu của những người tự xưng là cộng sản, tự cho mình theo chủ nghĩa duy vật, không tin vào chúa trời và thần thánh! Có lẽ bởi vì họ đã tự tạo nên thần thánh cho mình.

 

*

*          *

 

Ở Mátxcơva được ít lâu, Hân lờ mờ nhận ra rằng trong lòng đất nước này hình như đang tiềm ẩn những nguy cơ nào đó, chưa dễ gọi tên ra được. Nhưng rõ ràng, Liên Xô không phải giàu có hay hùng mạnh như người ta vẫn tuyên truyền và ảo tưởng. Sản xuất thì trì trệ. Năng suất lao động thấp. Hàng tiêu dùng thì vừa thô kệch vừa nghèo nàn, đơn điệu. Mức sống người dân không cao. Tiếng là mọi thứ đều bán tự do, nhưng ở nhiều nơi, một số loại thực phẩm thiết yếu vẫn phải bán theo talông (thì cũng là tem phiếu!) hoặc dành cho các bậc lão thành.

Rất nhiều lần, Hân nhìn thấy những người dân xếp hàng dài để mua một thứ gì đó, nhất là hàng nhập khẩu, như quả chuối Nam Mĩ, chai dầu gội đầu của Hunggari hoặc đôi giày Nam Tư, Tiệp Khắc… Rất nhiều phụ nữ ngoại thành hoặc từ các thành phố vệ tinh của Mátxcơva luôn luôn tràn ngập các cửa hàng thực phẩm, mua mỗi lúc hàng chục kilôgam thịt, các loại pho mát, giò và xúc xích. Các cô bán hàng thì vừa bán vừa mắng xa xả vào mặt người mua, còn các bà chắc là đã quá quen rồi, chỉ hoàn toàn toàn im lặng. Nhìn những phụ nữ ấy, Hân bỗng thấy thương cho họ. Tất cả đều giống nhau ở chỗ ăn mặc tồi tàn, dáng người phục phịch, nặng nề. Vòng eo của họ chắc phải đến một mét năm mươi hoặc nhiều hơn. Mua xong rồi, họ khoác những dây xúc xích và giò lên vai, xách những cái làn hoặc túi du lịch nặng trĩu rời khỏi cửa hàng và chỉ đến khi ấy các bà mới nói cười hể hả, gương mặt giãn ra đầy mãn nguyện. 

Cái mặt trái trong đời sống xã hội của người dân Xô viết không phải chỉ giản đơn có thế. Trộm cắp, ma túy, lừa đảo, giết người, đĩ điếm… vẫn tồn tại ở khắp mọi nơi nhưng những người như Hân làm sao mà biết được. Không ít những vụ án động trời diễn ra nhưng đều bị bưng bít hết. Từ việc một phi công chiến đấu điều khiển chiếc MiG 25 bay sang Nhật xin tị nạn chính trị cho đến vụ các khán giả giẫm đạp lên nhau, chết tới cả chục người sau một trận bóng đá ngay tại sân vận động Lênin ở Mátxcơva. Rồi những cuộc thanh trừng trong Đảng hay các vụ đàn áp văn nghệ sĩ…

Những tin tức như thế chẳng bao giờ thấy trên báo chí và truyền hình. Sáng sáng, người dân Thủ đô vẫn xếp hàng trước các kiốt mua báo mới, toàn những tin tức tốt lành. Đất nước của ông Brêgiơnhép có vẻ vẫn vững như bàn thạch. Liên Xô đã xây dựng xong chủ nghĩa xã hội phát triển và đang chuẩn bị cơ sở để tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Người ta ra rả khẳng định như thế, nhưng làm sao mà tin được chứ?

Hơn một lần, Hân tự hỏi cái gọi là chủ nghĩa xã hội phát triển là như thế này ư? Chẳng lẽ người dân Xô viết cứ thế này mà tiến được lên chủ nghĩa cộng sản? Liệu có nhầm lẫn gì ở đây chăng hay người ta cố tình lừa mị nhau và nói quá lên? Tất nhiên, không bao giờ Hân lại đem thắc mắc ấy của mình ra trao đổi với các thầy cô hoặc bạn bè cùng lớp. Có một cái gì đó từ trong tiềm thức nhắc nhở anh, đây là điều tối kị. Nhưng nếu chủ nghĩa xã hội thật sự là tốt đẹp, tuyệt vời, là thiên đường của những người bị áp bức, bất công trên toàn thế giới thì tại sao chẳng bao giờ có ai từ các nước tư bản đế quốc chạy sang phe ta tị nạn mà chỉ toàn ngược lại? Như ở Đông Đức và Tây Đức ấy!    

Thông tin từ Việt Nam cho biết, rất nhiều người đã vượt biên. Không ít ông già bà cả, thiếu nữ, trẻ em… bị trấn lột, bị cưỡng hiếp và thậm chí là giết chết. Nhiều người bỏ mình trên biển vì bị đắm tàu. Nhưng những cuộc trốn chạy vẫn diễn ra gần như không lúc nào ngừng. Có người bị bắt lại, bị tống giam, nhưng vừa mới ra tù lại trốn đi lần nữa. Các trại tị nạn ở Hồng Kông, Singapore… luôn luôn đầy nhóc các “thuyền nhân” người Việt. Mà đó không phải chỉ toàn là những người có dính líu tới chế độ cũ, không thể sống chung với cộng sản hoặc phường lưu manh trộm cắp. Trái lại, còn có cả những người từng là cán bộ nhân viên nhà nước hẳn hoi.

 

Đang suy nghĩ vẩn vơ về sự vắng mặt bất thường của Phương Linh thì chiều hôm ấy, sau khi đi học về, Hân nhận được mẩu giấy nhắn tin của cô đặt trên bàn. Có lẽ cô xuống dưới này, không gặp được anh nên viết để lại. Mảnh giấy chỉ nguệch ngoạc có vài dòng: “Anh Hân. Khi nào anh đi học về thì ghé qua chỗ em nhé. Chiều nay em ở nhà. Phương Linh”. Hân xé nhỏ mảnh giấy rồi ném nó vào sọt rác: anh không muốn những dòng chữ ấy lọt vào mắt của một người nào khác.

Hân dừng lại trước cửa phòng của Phương Linh và bấm chuông. Một âm thanh gắt gỏng chói tai bỗng ré lên, khiến cho ai cũng có thể giật mình. Hân không hiểu tại sao người ta lại có thể sản xuất và sử dụng những cái chuông cửa kinh hồn như thế. Nhưng cũng phải một lát sau mới có tiếng dép từ trong phòng đi ra. Cánh cửa mở và trước mắt Hân là một cô gái Nga có mái tóc nâu gợn sóng buông xuống ngang lưng, đôi mắt xanh hơi xám và cái nhìn đầy vẻ ngạc nhiên.

– Xin lỗi, tôi muốn gặp Phương Linh…, – Hân lắp bắp trong khi nghe rất rõ máu đang chảy dồn lên hai bên vành tai và thái dương của anh.

– À, có, có… Mời anh vào, cô ấy đang ở trong này. – Ira tránh sang một bên, nhường lối cho Hân.

Sẽ chẳng bao giờ cô gái Nga này hiểu được tại sao Hân lại lúng túng ngượng ngùng đến thế. Lần đầu tiên anh gặp cô và lại ở khoảng cách rất gần. Chiếc áo liền váy của cô mỏng tang, nhìn thấy cả đồ lót bên trong. Cổ áo lại khoét quá sâu khiến cho anh chàng người Việt chỉ trong khoảnh khắc cũng đã kịp thâu tóm vào trong mắt một đôi vú căng tròn được phô bày ra quá nửa. Một làn da trắng nõn, mịn màng. Cặp đùi phốp pháp đầy khêu gợi và đôi chân thẳng tắp.

Hân bước vào, nhưng chưa nhìn thấy Phương Linh. Như hiểu được nỗi băn khoăn của anh, Ira mỉm cười giải thích:

– Nó đang ở trong nhà tắm… Anh dùng trà nhé?

– Cảm ơn. Tôi… Không cần đâu!

Hân đáp và cố gắng bắt mình nhìn sang phía khác. Chao ôi, cái thân hình ngồn ngộn như bốc lửa và hấp dẫn nhường kia!… Ira đâu có biết, ở Việt Nam, không dễ nhìn thấy đôi bắp chân thiếu nữ. Cả cái miền Bắc của anh, từ em gái nhỏ đến bà già quanh năm suốt tháng chỉ mặc quần đen, cho dù áo có thể nâu, trắng hay xanh lá cây gì đó. Nhưng những chiếc quần đen ấy, tuy chất liệu khác nhau, thì ít nhất cũng phải che kín đến mắt cá chân. Suốt bốn mùa. Đến nỗi, mỗi khi nhìn thấy cô nào buộc phải xắn quần lên trong những lúc trời mưa hoặc đi lao động chẳng hạn, Hân đều cảm thấy rạo rực hết cả người. Những bắp chân cớm nắng trắng làm sao… Hân và những gã trai như cậu chỉ biết nuốt nước bọt nhìn trộm và thầm liên tưởng đến những gì xa hơn thế.

Cô gái người Nga này làm sao mà tưởng tượng được rằng, hai mươi bảy tuổi, Hân vẫn chưa hề biết đến một tình yêu đúng nghĩa. Cái tình yêu thật sự mà trước sau gì người ta cũng đều trải nghiệm với đủ các cung bậc thăng trầm của nó. Và cơ thể con gái nào cũng vẫn là cả một kho tàng bí mật đối với Hân. Vì thế nên một lần đi tàu điện, thấy cô gái Nga mặc mini juýp đùi trần đứng sát bên anh do bị chen lấn và xô đẩy, Hân sững sờ choáng váng hết cả người. Cái bản năng đàn ông trỗi dậy bất thình lình khiến anh khó xử và đâm ra xấu hổ với chính mình.

Hân chết đứng ngay tại chỗ, tay nắm chặt lấy cột chống trên tàu, vờ như đang mải nghĩ một điều gì lung lắm. Đến khi cô gái ấy xuống tàu, anh mới nhận ra mình đã bỏ qua bến đỗ cần phải đến. Còn bây giờ là lần thứ hai Hân bị rơi vào tình huống khó xử, nhưng tệ hơn lần trước rất nhiều. Vậy mà Ira vẫn thản nhiên đi lại, nói cười đúng như một cô nàng hiếu khách trong khi anh đang phải gồng mình lên ngó quanh, chứ không phải là thử cố hình dung xem bên trong chiếc quần lót mini màu trắng mỏng manh kia có những gì.

May mắn cho Hân, là vừa lúc ấy thì Phương Linh từ trong nhà tắm bước ra. Anh hơi giật mình khi thấy cô tiều tụy hẳn. Không kìm được, Hân khẽ kêu lên:

– Em làm sao thế? Ốm à?

– Không, – Phương Linh hơi lắc đầu. – Anh ngồi xuống đi.

– Trông em gầy quá!

– Không, em vẫn vậy mà… – Phương Linh nói, nhưng không lấy gì làm tự tin cho lắm.

Ira đã trang điểm xong, thay bộ váy áo khác trông càng thêm lộng lẫy. Cô khoác túi lên vai rồi nháy mắt với Phương Linh:

– Vui vẻ nhé!

– Tạm biệt! – Phương Linh nói và đưa tay lên vẫy vẫy.

Đợi cho Ira khuất sau cánh cửa, cô mới tiếp:

– Nó lại đi gặp người yêu đấy. Nếu có nhanh thì cũng phải vài ba hôm nữa mới về.  

– Trời! – Hân khẽ kêu lên. – Vẫn là cái ông bị cụt chân ấy à?

– Vẫn ông ấy đấy. Nó bảo, anh ấy lại mới lên Mátxcơva công tác.

– Không thể tưởng tượng được, nó xinh như thế cơ mà… – Hân bỗng ngừng lại giữa chừng.

– Thì… tình yêu mà anh! – Giọng Phương Linh không thể hiện sắc thái gì rõ rệt.

– Nào, thế em nhắn anh lên đây có việc gì thì nói đi. – Hân sực nhớ, liền pha trò. – Anh đang dỏng tai lên đây.

– Thì… lâu rồi không gặp, muốn anh tới chơi, ngồi tán gẫu vậy thôi mà… – Phương Linh trả lời và tránh cái nhìn của Hân. – Em ngại xuống dưới đó vì không muốn gặp những người mà em không thích.

– Thế sao lâu rồi không thấy Cường đến đây?

 Phương Linh hơi cúi đầu khiến cho mái tóc của cô xõa xuống, gần như che hết mặt:

– Có lẽ… Cường không đến nữa đâu, anh ạ!

– Sao lại thế? – Hân hơi giật mình, hỏi lại. – Có chuyện gì à?

Phương Linh vẫn ngồi trên giường, thõng hai chân xuống sàn nhà, đưa một ngón tay lên miệng và khẽ cắn. Mãi sau cô mới nói được bằng giọng nghẹn ngào:

– Em và Cường chia tay nhau rồi!

Hân giật mình trước thông tin ấy, nhưng chẳng biết làm gì hơn là im lặng, nhìn đôi vai gầy của Phương Linh rung lên từng đợt. Loáng thoáng hiện ra trong tâm trí Hân là hình ảnh của đôi tình nhân hôm nào, khi anh vừa mới chân ướt chân ráo đến đây. Và gương mặt xinh trai của Cường có một cái gì đó thật trong sáng và thánh thiện.

– Cường có bạn gái mới rồi, anh ạ. Từ hồi trước Tết cơ, – Phương Linh nói qua tiếng nấc. – Anh có biết con Thanh Hằng không, cùng sang đây với em một năm, học khoa Tâm lí…

– Có, anh có biết. Hôm Tết nó còn lên hát bài Cô gái vót chông mà!

– Đó, đó… – Phương Linh phụ họa theo, hoàn toàn vô thức.

Đúng là Hân có biết Thanh Hằng. Một cô gái trẻ trung, sôi nổi tuy có vẻ hơi đua đòi, rất biết cách ăn diện lại to cao, hấp dẫn hơn hẳn Phương Linh.

– Rồi lại còn lòng thòng với cả con Ôlja nữa, hồi đi thực tế ở Baican – Amua ấy. – Phương Linh vẫn chưa dừng lại được. – Thế mà đến tận bây giờ em mới biết.

Hân bối rối, bẻ khớp ngón tay kêu lục khục. Mãi sau anh mới hỏi:

– Nhưng làm sao mà em biết được?

– Thì cũng tình cờ thôi. – Phương Linh nhếch mép cười cay đắng. – Cường còn chụp ảnh khỏa thân cả hai đứa nữa. Một hôm, em sang bên chỗ Cường chơi, nhưng Cường đi vắng. Trong lúc ngồi chờ trong phòng, em tìm sách báo để đọc thì bất ngờ thấy cả một tập ảnh dày… – Phương Linh giơ ngón tay trỏ và ngón cái ra làm cữ.

Tình cờ ư? Hân không tin vào điều Phương Linh vừa nói. Liệu có đúng thế không, hay chính cô đã chủ động tìm cách kiểm tra xem người yêu mình sống thế nào… Hân thầm nghĩ nhưng không tiện nói ra nên đành phải thăm dò:

– Có khi đấy là ảnh nghệ thuật thì sao?

– Hừ, anh mà cũng nói như vậy à? – Phương Linh nhìn Hân đầy nghi hoặc. – Chẳng lẽ em không hiểu thế nào là ảnh nghệ thuật hay sao? Em đã gặp cả ba người và tất cả đều đã nhận hết rồi nên em mới quyết định chia tay chứ!

Hân điếng người, không biết nói gì nữa. Thì ra, cô gái này bản lĩnh hơn anh tưởng. Dám đi gặp tình địch để làm cho ra lẽ! Điều này đâu phải ai cũng có gan làm.

Phương Linh đã thôi không khóc nữa. Cô lau nước mắt, sửa lại mái tóc, vẻ đã bình tĩnh hơn một chút:

– Anh không biết đâu, Cường còn làm những điều tệ hại khác nữa cơ… Chỉ tiếc là em quá yêu Cường, tin Cường và không hề nghĩ đến kết cục như thế này. Em phải trả giá cho hành động của mình… Vậy đấy.

Từ lâu, Hân đã nhận thấy bộ mặt con người ta xấu nhất là khi nó ở trong ba trạng thái: say rượu, khóc lóc hay cười thỏa mãn một điều gì đó. Cả ba tình huống ấy đều làm cho mặt mũi người ta biến dạng, và đó cũng là lúc cái tôi của họ bị phơi bày trọn vẹn, không thể nào che giấu được. Nhưng vào lúc này anh chỉ thấy tội nghiệp cho Phương Linh, mi mắt sưng húp, mũi đỏ ửng và gương mặt xanh xao hốc hác đến lạ thường.

Hân lúng túng ngồi trên ghế, không góp được vào một câu nào. Mà nói gì được trong hoàn cảnh của anh. Một gã trai chưa từng trải nghiệm những tình cảm và quan hệ lứa đôi thì làm sao mà biết được những đam mê, thất vọng, điên cuồng… của tình yêu là như thế nào! Chả trách Trịnh Công Sơn viết: Tình yêu như trái phá, con tim mù lòa… Hình như trong khi yêu, con người ta đều phải mù lòa đi một chút.

– Thế là hết cả rồi, anh ạ! – Phương Linh lại sụt sùi. – Em chẳng còn gì nữa… Từ nay, em không biết sống thế nào…

– Em cứ bình tĩnh đã… Đằng nào thì chuyện cũng đã xảy ra như thế rồi… – Hân an ủi – Mọi cái rồi sẽ qua. Không yêu người này thì yêu người khác, lo gì!

– Cái chính, là em không còn tin ai được nữa! – Phương Linh khẽ lắc đầu buồn bã. – Nhưng mà… anh đã yêu ai bao giờ chưa?

– Chưa… – Đến lượt Hân cũng lắc đầu và mặt anh bỗng đỏ bừng.

– Đó, thế thì anh làm sao mà hiểu được! Em ngại rằng sau Cường, em sẽ không thể yêu ai được nữa. Giữa Cường và em đã từng có biết bao nhiêu là tình cảm và kỉ niệm… Em đã cho Cường tất cả rồi… Vậy mà chỉ qua thời gian rất ngắn, Cường đã phản bội em như thế…

Phương Linh ngừng lại, lau nước mắt rồi mới tiếp:

– Anh có tưởng tượng được không, có những hôm, Cường chỉ đến đây một lát rồi nhảy sang bên kia ngủ với con Ôlja hoặc đến chỗ con Hằng. Có hôm thì ngược lại. Em hỏi, thì Cường luôn mồm nói là bận học hành thi cử rồi làm bài tập nọ kia… Đấy, cái bận của các anh là như thế đấy! Em không thể nào tưởng tượng được đàn ông các anh lại có thể lăn lộn được với hết người này đến người khác như thế. Gần như trong cùng một lúc… Trời ơi là trời!

Hân choáng váng trước những lời lẽ mà Phương Linh vừa mới trút ra cay đắng. Không biết làm gì hơn, anh đành phải lặng im chịu trận. Và trong tâm trí anh, không hiểu tại sao cứ hiện lên không cưỡng lại được, hình ảnh căn phòng dưới ánh điện sáng choang. Một đôi trai gái trần truồng đang quấn quýt, đam mê, say đắm… Anh như nghe thấy cả tiếng rên rỉ, ôm ghì, nhay ngoạm của họ trong cơn phấn khích đến tột cùng. Chao ôi, tình yêu, tình dục là cái quái quỷ gì mà nó làm khổ con người ta đến thế! Và xưa nay, trên thế gian này đã có biết bao nhiêu người chết vì tình! Từ những đấng quân vương cho đến những tao nhân mặc khách; lãnh đạo quốc gia và những tướng soái lừng danh. Nghệ sĩ nổi tiếng và cả những người chỉ đơn giản sống như lá cây ngọn cỏ…

Vào lúc này, Hân chưa hề biết anh đang bị cuốn vào một câu chuyện oái oăm. Sẽ đến lúc anh phải chứng kiến những việc bi hài hơn thế này nhiều. Còn bây giờ, khi cái đầu đã bớt nóng đi, Hân chỉ thấy dấy lên nỗi xót xa, thương cảm cho cô gái đang ngồi trước mặt. Lần đầu tiên, anh chợt nhận ra Phương Linh bé nhỏ, mong manh, dễ tổn thương đến chừng nào. Hân thầm trách Cường là kẻ bạc tình và đối xử quá ư tệ hại với Phương Linh, nhưng cũng chẳng thể làm gì được bởi vì đối với anh, cậu ta nào có lỗi gì đâu! Trong tình yêu, việc phân xử đúng sai là điều vô cùng khó. Hơn nữa, Hân làm sao có thể nhân danh ai mà phán xét? Anh không có tư cách gì để làm việc ấy.

 

*

*          *

 

Không biết vì lí do gì, nhưng đúng là ngay từ khi còn nhỏ Hân đã có xu hướng sống thu mình lại, ít cởi mở với mọi người. Dường như lúc nào cậu cũng chỉ đắm chìm trong thế giới nội tâm chật hẹp và những suy nghĩ viển vông, thậm chí có thể bị coi là dở hơi nữa nếu nói cho người khác biết. Chẳng hạn, nhìn thấy máy bay trên trời, Hân đã mong có ngày được đi máy bay. Xem phim Liên Xô, cậu ao ước một lần được đặt chân đến đất nước tươi đẹp ấy. Bao nhiêu thời gian rỗi rãi, Hân dường như chỉ dành hết cho sách vở. Và sách vở lại càng khiến cậu đắm chìm trong những ảo tưởng vô bờ. Hân đọc say mê tất cả những gì có được bằng cách mua, mượn hoặc đi thuê, thôi thì đủ cả.

Nhưng rồi qua biến động thời gian, dần dần Hân quên hết những mơ ước viển vông ngày trước. Cũng chẳng biết tự bao giờ, anh đã trở thành một kẻ bi quan, chán nản và bế tắc. Khi được lệnh vào Nam, Hân không tin mình có một ngày về. Vì thế, anh hết sức ngạc nhiên được người ta cho đi khám thương[68] xếp loại và đưa ra miền Bắc. Lúc này, Hiệp định Paris mới kí được một năm, tình hình chiến sự giằng dai chưa biết đến lúc nào ngừng và còn lâu mới nghe nói đến mùa Xuân đại thắng… Hân mừng quá, đến nỗi suốt đêm không ngủ được. Sống rồi! Anh chỉ mong giá mà có cánh để được bay về ngay lập tức mặc dù vẫn biết, cả cái miền Bắc đói nghèo vẫn phải chạy ăn từng bữa, cuộc sống vô cùng cơ cực nhưng dù sao cũng vẫn còn hơn là ở trong này…

Thực tình, việc Hân được ra Bắc là nằm trong chủ trương chung của cấp trên. Để chuẩn bị cho tình hình mới, người ta quyết định tinh giản đội ngũ, cho ra Bắc tất cả những ai không còn khả năng chiến đấu đang dồn ứ lại tuyến sau; những người ở chiến trường đã quá lâu và những kẻ bất mãn, chây ì. Tất nhiên, Hân không thuộc về hai loại sau, nhưng đằng thằng ra, nếu ở đơn vị khác, chắc gì anh đã gặp may như thế! Anh đã thấm vào đâu cả về tình trạng thương tật và thời gian ở chiến trường. Chẳng qua là sau khi bị thương, nhờ có chút hoa tay, Hân được đưa về làm nhân viên đồ bản thuộc phòng tham mưu sư đoàn. Thêm vào đó, thủ trưởng của Hân cũng tỏ ra ưu ái với anh.

Người đàn ông tuổi bốn mươi ấy tên là Nguyễn Hải Ninh, quê Hà Tĩnh. Chẳng biết thế nào, suốt gần chục năm ở chiến trường, ông chỉ từ trung úy lên được đến thượng úy, theo cách gọi ở đây là “tiểu đoàn bậc phó”. Điều đặc biệt ở ông, là mặc dù đã đánh rất nhiều trận, nhưng không hề bị thương một lần nào. Sốt rét cũng không. Chỉ có điều, từ lâu ông đã nghe phong thanh về chuyện vợ con, gia đình mình ở ngoài Bắc không được hay cho lắm. Đến khi có Hiệp định Paris, một đứa cháu ông là lính động viên năm bảy hai vào trong này và tình cờ gặp chú, liền kể hết đầu đuôi mọi chuyện. Thì ra ở quê, vợ ông lỡ có con với một tay đội trưởng hợp tác xã và bị vợ hắn đánh ghen chém cho một nhát, may mà không chết. Con trai ông về sống với ông bà nội, còn đứa con gái của vợ ông và gã kia thì ở cùng mẹ nó.

 Nghe xong chuyện ấy, ông thượng úy không tỏ thái độ gì rõ rệt. Có lẽ vì ông đã chuẩn bị tinh thần để đón nhận nỗi đau này từ lâu rồi. Mà cũng có thể, ông che giấu cảm xúc của mình không muốn cho người khác biết. Dù sao, phải đến rất khuya đêm hôm ấy, Hân mới nghe thấy tiếng ông trở mình trên võng cùng với một tiếng thở dài thật não nề:

– Đàn bà…

Hân lặng người, không dám động đậy vì sợ thủ trưởng biết anh còn thức. Sáng hôm sau, ông thượng úy lại làm việc, nói cười, đi đứng như không có chuyện gì xảy ra. Mãi đến khi Hân có quyết định chính thức được ra Bắc, ông mới nói riêng với anh những điều như được rút ra từ gan ruột của mình:

– Thôi, mày còn trẻ, ra ngoài ấy đi mà còn học hành rồi lo chuyện vợ con. Tao thì chẳng có cách nào ra được, mà cũng chẳng biết ra để làm gì. Không cẩn thận lại bị người ta cho là “tư tưởng”. Đời tao coi như là xong rồi! Nỏ biết trông chờ vào mô nữa! – Câu cuối, ông thượng úy nói bằng giọng cố tình giễu cợt.

Hân không biết nói gì sau khi nghe những lời lẽ ấy. Anh biết, nếu không được thủ trưởng của mình giúp đỡ, thì đừng có mà mơ đến việc ra Bắc dễ dàng đến thế. Tâm lí chung, ai cũng mong còn sống cho đến khi chiến tranh kết thúc và được trở về, dù có đói khổ thế nào. Cái miền Bắc, lúc sống ở đó có mấy người biết trân trọng, tự hào. Đến khi vào chiến trường, đối mặt với đủ loại gian khổ và chết chóc mới nhận ra, dù thế nào cái mảnh đất xa vời vợi ấy vẫn hơn tất cả. Bởi vì ở đó có bố mẹ, anh em, bè bạn, người thân… Nhưng biết bao nhiêu mơ ước ngày về đã bị phạt ngang bởi súng đạn, bom mìn, bệnh tật, cái đói và cái rét. Bao nhiêu người phải vĩnh viễn nằm lại ở chiến trường. Ai biết được, đằng sau vẻ khô khan pha chút lạnh lùng, ông Nguyễn Hải Ninh lại có tấm lòng nhân ái, bao dung như thế. 

Việc chuẩn bị cho chuyến đi được tiến hành rất nhanh. Mỗi người được cấp một cân ruốc thịt do anh nuôi của đơn vị tự làm và một cân đường kính, cộng với hai tháng phụ cấp lại còn tổ chức liên hoan chia tay nữa. Ông Nguyễn Hải Ninh không nói gì thêm với Hân, không gửi anh, dù chỉ một lá thư ra Bắc và một lời hẹn gặp nhau sau chiến tranh cũng không. Đối với người đàn ông từng trải này, hình như cái cánh cửa của thế giới nội tâm đã được đóng lại rồi.

Đoàn cán bộ, thương bệnh binh ra Bắc đợt này tập trung tại R, với tổng số lên đến hơn một trăm người và được đi xe ô tô trên toàn tuyến chứ không phải hành quân bộ như lúc vào chiến trường. Có Hiệp định rồi có khác! Bao nhiêu người mừng rỡ nói với nhau như thế. Nhưng vừa mới trước Tết mấy hôm, quân Trung Quốc đã đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa. Nhiều binh sĩ Sài Gòn chết và bị thương, một số tàu chiến bị đánh chìm. Nguyễn Văn Thiệu lên án mạnh mẽ hành động xâm lược này của Trung cộng, vinh danh các chiến hữu Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã bỏ mình vì nước đồng thời kết tội chính quyền Bắc Việt ươn hèn làm ngơ để mất đất đai của cha ông… Sài Gòn tổ chức quốc tang và ở nhiều nơi, người dân biểu tình phản đối quân Trung Quốc.

Những tin ấy, Hân lõm bõm nghe được qua đài Sài Gòn nhờ một người có chiếc máy thu thanh bán dẫn và anh em trong đơn vị kháo nhau. Lạ, là Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa hoàn toàn im lặng, không hề có tuyên bố gì. Nghe nói có ông còn lấy làm sung sướng vì “Các đồng chí Trung Quốc giải phóng Hoàng Sa giúp chúng ta rồi!”. Nhưng sự thật đâu phải là như thế! Nhiều năm sau, Hân mới biết sự kiện năm bảy tư chỉ là để Trung Quốc hoàn tất cuộc xâm lược đã được khởi đầu từ năm năm sáu, khi họ chiếm Phú Lâm, hòn đảo lớn nhất tại Hoàng Sa. Còn Ba Bình, đảo lớn nhất ở quần đảo Trường Sa, có nước ngọt thì đã bị Tưởng Giới Thạch đưa quân ra chiếm từ tháng Mười năm bốn sáu!

Trung Quốc dám ngang nhiên cướp lấy Hoàng Sa là do họ đã mặc cả với Mĩ qua câu nói của Mao: “Mi không động đến ta thì ta không động đến mi”. Vào cái ngày mười chín tháng Giêng năm bảy mươi tư ấy, tàu chiến của Hạm đội bảy Mĩ đang có mặt ở gần nơi xảy ra chiến sự nhưng đã không làm gì để cứu giúp đồng minh. Những binh lính, sĩ quan quân đội Sài Gòn bỏ mình trong trận chiến không cân sức ấy sẽ mãi mãi chẳng bao giờ biết được họ đã bị bán đứng như thế nào hay tại sao họ chết. Nhưng họ thật sự đáng được tôn vinh như những người dám chiến đấu hi sinh để bảo vệ nước non này, đã tiêu diệt được một số quân Trung Quốc và tàu của chúng.

Những người sống sót, bị bắt làm tù binh thì bảy tám tháng sau mới được âm thầm trao trả cho chính quyền Sài Gòn theo những mưu toan từ phía bên kia. Họ không muốn mọi chuyện trở nên ầm ĩ. Rồi từ sau tháng Tư năm bảy nhăm, các cựu quân nhân ấy của Nguyễn Văn Thiệu phải che giấu thân phận, làm đủ mọi việc để mưu sinh. Chẳng ai dám khoe khoang gì việc mình đã từng là sĩ quan hay binh lính trong quân đội Việt Nam cộng hòa! Cho dù là đã chiến đấu bảo vệ Hoàng Sa chứ không phải chống lại quân Bắc Việt.   

 

*

*          *

 

Sau bốn năm ngày ngồi trên thùng xe lắc lư chao đảo kể từ khi rời căn cứ ở Tây Ninh, Hân đã đặt chân lên miền Bắc. Khác hẳn với hơn ba tháng hành quân bộ ngày nào. Những bữa cơm ngon lành, nóng sốt. Không một ai phải nằm lại dọc đường. Đặc biệt, không còn nỗi nơm nớp lo máy bay bắn phá hay biệt kích, thám báo rình mò gì nữa. Nhiều đoạn còn bắt gặp cả các “thím bộ đội” đang lắp đặt đường ống dẫn dầu, xác những chiếc xe vận tải cháy trơ khung và những chiếc cầu mới bắc… Hân nao nao trong dạ xen lẫn bùi ngùi, không biết cùng đại đội với anh còn lại được mấy người và rồi đây sau chiến tranh, anh sẽ gặp được những ai. Hơn một trăm chàng trai, phần lớn là chưa vợ thậm chí còn chưa cả người yêu lúc vào Nam chiến đấu… Cũng không làm thế nào xác định lại được con đường mà anh và đồng đội đã đi qua. Đường Trường Sơn gần như dịch chuyển, thay đổi từng ngày do bom đạn, bão lũ và cả yêu cầu của chiến trường…

Hân được đưa về đoàn an dưỡng của Bộ tư lệnh Quân khu. Đơn vị có bộ khung như một trung đoàn, nhưng không biên chế theo từng tiểu đoàn mà xuống thẳng các đội, ngang với đại đội. Nhiệm vụ của đoàn là tiếp nhận các hạ sĩ quan và chiến sĩ trong toàn thành phố; phân loại, tổ chức an dưỡng và cho đi điều trị, sau đó giải quyết theo chính sách. Sĩ quan từ chuẩn úy trở lên thì không về đây, mà an dưỡng ở nơi khác.

Doanh trại của đoàn an dưỡng là những dãy nhà một tầng, nền đất mái ngói, chạy dài theo một con mương thủy lợi, rất tiện cho lính tráng bơi lội và tắm giặt. Hai bên bờ mương, những hàng cây phi lao xanh thẫm và cao vút gợi vẻ thanh bình. Nghe nói trong suốt cuộc chiến tranh phá hoại của Mĩ không hề có một quả bom hay viên đạn nào rơi xuống nơi này. Chỉ có nghèo đói và thiếu thốn thì ở đây chắc cũng chẳng kém gì nơi khác, qua cung cách sinh hoạt của người dân, những mái tranh xiêu vẹo và cả những con trâu gày trơ xương, bước đi không vững. 

Trong mỗi ngôi nhà kê được tới hơn ba chục chiếc giường sắt cá nhân, nghĩa là đủ cho cả một trung đội. Cũng vẫn là hiệu kẻng duy trì giờ giấc trong ngày, từ báo thức, thể dục sáng, cơm nước đến đi ngủ vào buổi tối. Chiếc kẻng là một quả bom to rỗng ruột được treo ngay vọng gác, có tiếng vang đi rất xa. Sướng một cái, là không còn phải tập đội ngũ, kiểm tra điều lệnh hay đi vác củi, vì ở đây người ta đun nấu bằng than quả bàng là một loại than cám được ép lại thành viên. Thương bệnh binh không phải là quân nhân trong đơn vị nên các ông mãnh công thần này có thể thoải mái vào làng tán gái, uống rượu hoặc làm gì tùy thích nếu họ có khả năng làm việc đó, chẳng ai ngăn cản hay nhắc nhở. Thỉnh thoảng lại được xem phim do đội chiếu bóng lưu động từ Quân khu về phục vụ, chưa kể những buổi biểu diễn văn nghệ theo kiểu cây nhà lá vườn.

Hết đợt an dưỡng một tháng với tiêu chuẩn một đồng hai một ngày, thương bệnh binh bắt đầu được khám và phân loại thành từng nhóm chuẩn bị ra quân, tức là cởi áo lính làm dân. Có tất cả ba hướng đi cho mọi người chọn lựa. Phục viên, là trở về địa phương tự lo lấy việc làm ăn sinh sống. Ai chọn theo hướng này sẽ tùy theo cấp bậc và thời gian phục vụ trong quân ngũ mà được lĩnh khoản tiền chế độ nhiều hay ít. Rất nhiều người xin phục viên vì có thể được lĩnh ngay một lúc tới hàng mấy trăm đồng, đủ để cưới vợ, thậm chí là mua nhà (tất nhiên là nhà gianh vách đất thôi) hoặc chí ít cũng có thể ăn chơi thỏa thích trong vài ba tháng.

           Hướng thứ hai, xin chuyển ngành. Nghĩa là làm đơn rồi chờ đó, nếu nhà nước có nhu cầu tuyển dụng thì sẽ được gọi đi. Tất nhiên trong quá trình chờ đợi này, thương bệnh binh không còn được hưởng chế độ an dưỡng, mà chỉ có sáu hào tám một ngày. Nhưng như thế cũng nào có hề gì! Nhiều người theo hướng này vì đây là cơ hội nghìn năm có một thoát được khỏi cái kiếp bán mặt cho đất bán lưng cho giời, trở thành cán bộ, công nhân viên nhà nước, có sổ gạo, tem phiếu đàng hoàng, đồng lương ổn định. Song le, không phải ai cũng chọn được nghề thơm tho, đắt giá như lái xe, cơ khí hay nhân viên mậu dịch… có cơ hội hái ra tiền. Có người được gọi đi làm công nhân cầu đường, thợ xây dựng hoặc khai thác mỏ… đều sợ hết vía đành lắc đầu từ chối. Nhưng nhà nước không nuôi báo cô mãi được, nên cuối cùng cũng phải chấp nhận lấy một công việc nào đó hoặc phục viên.

Hướng thứ ba, ít người chọn lựa hơn, dành cho những ai đã học hết cấp ba hoặc được đặc cách công nhận tốt nghiệp phổ thông trước khi đi bộ đội. Nhà nước cho phép đối tượng này đi ôn luyện văn hóa và thi đại học hoặc trung cấp chuyên nghiệp theo nguyện vọng của từng người. Thậm chí, chưa có bằng tốt nghiệp phổ thông vẫn có thể xin học theo chương trình bổ túc văn hóa cho đến hết cấp ba rồi sau đó thi luôn vào đại học. Con đường xa hơn, cũng không thể nói là không vất vả. Hơn nữa, mấy năm chinh chiến, bom đạn làm rơi rụng hết mọi kiến thức rồi, cùng với đó là nỗi ngại dùi mài kinh sử, biết bao giờ mới ra trường… Nhiều anh thấy ngại vì lớn tuổi rồi, chẳng thà về quê lấy vợ, đi cày, kiếm thằng cu tí còn hơn.

Mang trong mình mấy vết thương và loại bệnh khác nhau, anh chàng cựu chiến binh Hân quyết định thi vào trường sư phạm, khoa văn. Anh không chọn Tổng hợp vì sợ điểm chuẩn vào trường ấy cao hơn, thi khó hơn lại không dễ xin việc sau khi tốt nghiệp. Mặt khác, từ rất lâu Hân đã có một mong muốn khác người, là được rời xa thành phố đất chật người đông, lên hẳn nơi rừng xanh núi đỏ nào đó mà lập nghiệp. Cái cảm giác cô đơn luôn ngự trị trong suốt những năm tháng tuổi thơ vẫn theo anh cho đến tận bây giờ và thói quen sống một cách đơn giản khiến Hân chẳng có nhu cầu gì cao lắm.  Nhưng anh đã tự chuẩn bị kĩ càng cho nghề dạy học đến mức lặng lẽ luyện cách phát âm thật chuẩn, không đánh đồng tr và ch, s và x, “giê i”, “dê đê” và “e rờ” như phần lớn dân miền Bắc. Không có chiến chanh, xản xuất, dân dan, diệu chè… gì hết mà cứ phải đúng như khi viết, rất rõ ràng. Đến một lúc nào đó, có người còn nhận ra Hân nói như văn viết, không có rằng thì là mà… gì hết.

Còn một hướng nữa, nhưng không ai chọn lựa và nó chỉ dành cho những kẻ bị tước quân tịch, đuổi về địa phương vì một lí do nào đó, như trộm cắp, vi phạm kỉ luật hay tự thương trong thời gian ở chiến trường chẳng hạn. Trường hợp này tuy không nhiều, nhưng vẫn có. Một buổi sáng, cả trung đoàn bộ nháo nhác hẳn lên khi có tổ quân pháp từ Quân khu xuống làm việc. Chiếc com măng ca đít vuông chạy vào, dừng lại ở giữa sân. Ba bốn người vừa sĩ quan vừa lính tráng tay áo đeo băng đỏ, súng ống đầy mình nhảy xuống. Họ làm việc với Ban chỉ huy trung đoàn một lúc rồi sau đó, cậu công vụ của trung đoàn và hai người nữa tất tả đi xuống đội ba, cách đó mấy bước chân. Khoảng mươi mười lăm phút sau, nhóm người này quay lại với một anh chàng cao lớn lênh khênh đang run rấy bước đi, mặt cắt không còn hạt máu. Tuy không bị trói hay khóa tay, nhưng toàn bộ con người, dáng dấp của anh ta, lạ lùng thay, dường như đã toát lên vẻ thảm hại, dúm dó của một tù nhân thực sự.

Nhóm người bước vào phòng làm việc của trung đoàn bộ. Đến lúc ấy, người ta mới đọc quyết định bắt, lột bỏ quân hàm, quân hiệu của phạm nhân rồi dẫn đi. Bây giờ thì anh ta đã bị khóa hai tay quặt ra phía sau, mái tóc bù xù rũ xuống. Bị hai nòng súng AK thúc hai bên, anh ta chật vật leo lên xe và bị kẹp giữa những người lính quân pháp với bộ mặt như được làm bằng đá. Đến lúc này, chiếc xe mới từ từ bò ra cổng trước cái nhìn ngạc nhiên, thảng thốt của những người chứng kiến.

– Không làm cách nào thoát được đâu! – Vị trung tá, chính ủy trung đoàn thủng thẳng nói như giảng giải. – Tự thương là tội to lắm, chẳng khác gì đào ngũ hay đầu hàng địch. Người ta đã có cách để đánh dấu bọn này… Nhìn vào vết thương là biết ngay.

Chuyện các y bác sĩ bí mật đánh dấu theo quy ước vào vết thương của những kẻ hèn nhát thì Hân đã nghe từ khi còn ở chiến trường. Nhưng anh không ngờ đến hôm nay lại tận mắt nhìn thấy hệ quả của nó. Không ai trốn chạy được khỏi quá khứ của mình. Hân thầm nghĩ và buồn thêm cho một phận người. Cũng chỉ vì ham được sống thôi. Chẳng biết liệu anh ta có phải ra tòa án binh, tù tội gì không hay chỉ đơn giản là về quê trong cảnh bị ghét bỏ, coi thường, chẳng dám ngẩng mặt lên nhìn ai nữa. Vết nhơ trong lí lịch của một kẻ tự thương làm sao mà gột sạch được đây! Rồi hàng xóm láng giềng, vợ con của anh ta sẽ nghĩ gì… Và như vậy, sống có khác gì đã chết!

 

Sau những biến đổi thăng trầm của cuộc sống, lúc còn đang ở trong cơ chế quan liêu bao cấp cũng như khi đất nước đã chuyển sang kinh tế thị trường, Hân vẫn biết ơn Đảng và nhà nước về những đãi ngộ đối với thương bệnh binh và quân nhân xuất ngũ trong thời kì đó. Nếu không có những chủ trương chính sách từ trên xuống và cả một guồng máy vận hành, anh không thể hình dung được cái gì sẽ đến với mình. Có lẽ lại quay về với cuộc sống của một công nhân rồi lấy vợ, có con… chẳng còn mơ được đến điều gì khác. Nhưng cơ hội đổi đời đến một cách bất ngờ, và hình như trong việc này còn có cả sự an bài của số phận nữa chăng?

Hân cũng lấy làm may mắn, vì nếu anh còn ở trong quân ngũ, tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh và tiếp tục phục vụ quân đội thì không biết cái gì sẽ xảy ra. Bởi lẽ gần như ngay sau khi giải phóng Sài Gòn, ta đã phải đối mặt với những vụ việc bất ngờ ở biên giới Tây Nam rồi sau đó là phía Bắc. Những người một thời từng được coi là bạn bỗng chốc biến thành kẻ thù tàn bạo, ra sức chém giết và đốt phá, mặc dù những dấu hiệu đầu tiên đã xuất hiện từ khá lâu rồi. Cụ thể, vào những năm bảy hai, bảy ba, lính Pôn Pốt đã tìm cách đánh phá một số kho tàng của Quân giải phóng trên đất Campuchia. Lác đác có những cán bộ chiến sĩ ta đi công tác lẻ bị giết và cướp súng. Hân đã từng được nhắc nhở về chuyện đó để đề phòng, và anh cũng bị một phen hú vía.

Lần ấy, Hân phải đem báo cáo lên nộp ở trên R. Anh chàng hạ sĩ hai mươi ba tuổi liền mượn khẩu K 54 của ông Ninh đem theo cho oai, vì “đeo AK vướng lắm”. Bảy mươi cây số đi và về trong ngày, chắc không có gì đáng ngại. Thủ trưởng của Hân đồng ý, và thế là anh sung sướng nhảy lên xe đạp rong ruổi đường trường. Không may, đi thì chẳng sao nhưng lúc về, xe bị vỡ ổ trục, không tìm được nơi nào chữa. Hân hì hục dắt xe, hết lên dốc lại xuống đèo mà muốn về đến nhà còn phải đi tới gần hai mươi cây số nữa. Trời thì sắp tối rồi.

Hân chờn chợn khi thỉnh thoảng lại nhìn thấy một vài người đàn ông Campuchia cởi trần, khăn cà ma[69] vấn trên đầu hoặc thắt ngang hông, vai vác dao quắm xuất hiện trên đường. Cứ như họ sắp sửa xông vào chém đến nơi! Chẳng biết được tạo nên bằng loại thép gì, nhưng những con dao quắm ấy đều rất sắc, chém một nhát là có thể bay đầu người khác như chơi. Một ông tiểu đoàn phó trong sư đoàn của Hân đã bị giết và cướp súng theo cách ấy. Đến hàng tuần lễ sau, nhờ mùi hôi thối bốc lên nồng nặc trong rừng cao su, người ta mới tìm thấy xác. Mà người Khơ me, như được phổ biến hay truyền tai nhau sao đó, rất khoái chém đầu những lục thum (ông lớn) Việt Nam đeo súng ngắn. Tiền thưởng sẽ cao hơn là súng AK thì phải.

Hân đánh liều ghé vào một nhà dân, xin ngủ nhờ để có gì thì sang mai sẽ tính. Hai vợ chồng chủ nhà còn khá trẻ, mặc dù ngôn ngữ bất đồng nhưng vẫn hiểu được ý anh. Họ không những cho Hân ngủ lại, mà còn dọn cơm mời anh ăn cùng. Đứa con trai chừng độ ba bốn tuổi của họ cứ ngơ ngác nhìn người khách lạ, thỉnh thoảng lại hỏi một câu gì đó mà Hân không hiểu, đành chỉ cười trừ.

Cơm nước xong xuôi, vợ chồng chủ nhà chỉ chỗ cho Hân mắc võng. Mặc dù đã tự nhắc mình cảnh giác, khẩu K 54 được bí mật lên đạn, giắt ở cạp quần, nhưng Hân vừa mới nằm xuống là đã gần như thiếp đi ngay trong giấc ngủ ngon lành, không còn biết trời đâu đất đâu gì nữa.

Tưởng mọi thứ cứ bình lặng trôi qua như thế, nhưng đến quá nửa đêm, khi Hân vừa vô tình mở mắt ra thì bỗng thấy ngay một người đàn ông to lớn cới trần từ phía bên ngoài cầu thang nhà sàn gần như sắp nhảy bổ vào mình. Anh chồm dậy, rút phắt khẩu súng ở cạp quần ra và chẳng biết bằng cách nào, đã phóng vèo ngay được xuống đất, may mà không bị què chân. Người đàn ông, sau giây phút giật mình, cố giải thích cho Hân hiểu là anh ta vừa xuống dưới nhà đi đái. Chẳng qua trong lúc thần hồn nát thần tính nên Hân mới hoảng sợ thôi.

Hân khóa chốt an toàn khẩu súng, giắt lại nó vào cạp quần rồi bước lên nhà sàn. Nhưng từ lúc ấy, anh không tài nào chợp mắt được nữa, chỉ mong trời chóng sáng. Đến khi hai vợ chồng nhà nọ nổi lửa nấu cơm thì Hân đã cáo lui, không quên đưa cho họ ít tiền cùng với lời cảm ơn vì đã cho ăn cho ngủ. Anh dắt chiếc xe đạp hỏng, thất thểu bước đi và không hiểu cái gì sẽ xảy ra, nếu ai đó có ý định xấu với mình. Khẩu K 54 với sáu viên đạn làm sao chống trả được đây, mà Hân còn chưa bắn súng ngắn bao giờ! Người dân Campuchia, trông thì hiền lành đấy và đúng là có nhiều người rất tốt. Nhưng ai dám chắc trong số họ không có những kẻ vừa vui vẻ cười nói xong là đã có thể vung dao, chém cổ anh ngay. Mối thù truyền kiếp của họ đối với Việt Nam còn đó, lại thêm những cố vấn Trung Quốc giật dây ở sau lưng… Có lẽ chính vì thế mà ngay sau khi những lá cờ nửa đỏ nửa xanh bay trên nóc Dinh Độc Lập, bọn Pôn Pốt đã lập mưu lừa hơn năm trăm người dân Việt Nam từ đảo Thổ Chu, đưa về đất liền Campuchia, giết chết. Tiếp đó là biết bao nhiêu vụ tàn sát dã man suốt dọc các tỉnh biên giới Tây Nam. Nhiều nơi, quân và dân ta trở tay không kịp. Vậy mà trong diễn văn mừng chiến thắng, người ta từng khẳng định thật hùng hồn: “Lần đầu tiên kể từ một trăm mười ba năm nay, đất nước ta sạch bóng quân xâm lược… Chiến thắng này mở ra một kỉ nguyên hòa bình, độc lập, tự do vĩnh viễn trên toàn đất nước ta…”

Chao ôi, liệu có ảo tưởng quá không? Bao nhiêu triều đại phong kiến Việt Nam đã từng phải chống lại các cuộc xâm lược từ phương Bắc. Đến lúc thắng giặc rồi vẫn phải cử người đi sứ cống nạp, xin được phong vương. Một ông vua của ta, chừng nào còn chưa được phong vương, chừng ấy còn bị coi là chưa hợp pháp. Đến cái tên nước cũng có lúc là do ngoại bang ban cho nốt! Không ai dám hi vọng gì về một nền hòa bình vĩnh viễn; có chăng chỉ là dài hay ngắn mà thôi. Từ các triều Đinh, Lí, Trần, Lê đến Tây Sơn rồi nhà Nguyễn sau này cũng đều thế hết. Và trong quyết định cho ra quân hàng loạt sau khi giải phóng miền Nam, phải chăng không có sự chủ quan, nóng vội để rồi khi chiến tranh nổ ra ở biên giới Tây Nam tiếp đó là phía Bắc, quân ta bị thiếu hụt nặng nề những người đã kinh qua trận mạc. Thay vào đó toàn là những thanh niên đói ăn rách mặc vừa được động viên[70], chưa biết mùi súng đạn là gì. Chết rất nhiều. Những liệt sĩ mười bảy, mười tám tuổi. Hạt bo bo, khoai, sắn… độn cơm. Thức ăn thì chỉ có ít lạc mốc rang thật mặn, cá khô nhiều lúc có cả giòi và “canh toàn quốc” là loại canh chẳng thấy rau đâu, chỉ toàn những nước. Mà cũng nào có đủ no đâu! Nhiều khi hàng tuần lễ liền không biết mùi miếng thịt. Còn khổ hơn cả thời đánh Mĩ.

 

*

*          *

 

Đơn vị ôn thi văn hóa của Quân khu đóng ngay bên bờ dốc đứng của sông Cầu. Đó là những dãy nhà vách đất, mái tranh được bố trí trên những sườn đồi thoai thoải. Về mặt biên chế, đơn vị ngang với một tiểu đoàn, gồm ba đội (không có chữ “đại”), tương ứng với ba khối thi A, B và C, đứng đầu là mấy ông thượng úy và trung úy được biên chế về đây từ các nguồn khác nhau, nhưng không có ai từ chiến trường miền Nam ra cả. Họ thật sự là “úy không quân” vì bộ khung gọn nhẹ chỉ thêm vào đó vài người làm chị nuôi, tiếp phẩm, y tá, vv. Còn lính, thì chính là những người như Hân, chỉ ở đây khoảng ba bốn tháng để ôn lại kiến thức trước khi thi đại học.

Không có cấp trung đội, các học viên được bổ trí thành từng tiểu đội, ở gọn trong một nhà. Các tiểu đội trưởng đều do cấp trên chỉ định trong số học viên. Có việc gì thì họ chạy thẳng lên ban chỉ huy đội và ngược lại, khi cần các ông ấy cũng trực tiếp xuống gặp mọi người. Không có khâu liên lạc trung gian. Nhưng cái hay nhất, là không có ai quát nạt, đe dọa, cũng chẳng bao giờ phải xếp hàng, đi đều bước và hát trước lúc ăn cơm. Cán bộ (đại) đội cũng không đến nỗi mặt sắt đen sì như những ngày Hân vừa mới vào quân ngũ.

Sự vui vẻ, thoải mái ấy có được là do vị thế của những người đi học. Toàn những trung sĩ, thượng sĩ lâu năm, có anh còn chuẩn úy chứ đâu phải lính trơn mà đòi quát tháo! Có người được tặng cả huân chương Chiến công, anh khác mấy lần “dũng sĩ”, chớ có đùa! Chưa kể, toàn là dân có học, đáng được coi là trí thức rồi. Khác lắm so với các chỉ huy, phần lớn là bổ túc hoặc sống lâu lên lão làng, chứ văn hóa chỉ lớp năm lớp sáu. Thực tế cho thấy, các thủ trưởng chân đất thường rất ngại đám lính có học vì chúng rất cứng đầu cứng cổ lại còn hay cãi, không dễ gì sai khiến hay chỉ bảo. Tuy vây, ở một đơn vị ôn thi văn hóa thì có nhiều việc lắm đâu để mà lo đụng chạm.

Giảng viên đứng lớp của Hân là ba vị trung úy, với ba môn: văn, sử, địa. Tuổi tác, dáng vẻ, quê quán khác nhau nhưng họ đều giống nhau ở chỗ chưa kịp tốt nghiệp đại học sư phạm thì đã bị động viên năm bảy hai. May không phải cầm súng mà được trưng dụng làm giáo viên văn hóa, được phong hàm sĩ quan và công việc thì nhàn hạ. Chiến tranh, chết chóc ở đâu chứ với ba ông trung úy này, thì tất cả chỉ là những giờ lên lớp cho các đối tượng khác nhau, lúc thì bổ túc, bồi dưỡng, lúc lại ôn thi đại học. Rỗi rãi thì nằm khểnh đọc báo, nghe đài hoặc lang thang đâu đó. Tất nhiên, tháng một đôi lần cũng phải họp hành, sinh hoạt chi bộ hoặc chi đoàn rồi học chính trị, v.v. Thêm vào đó là đi lấy củi và lao động giúp dân, như gặt lúa, đào mương… chẳng hạn. Lẽ đương nhiên, những việc ấy không phải chỉ dành riêng cho các thầy, mà tất cả các học viên cũng phải làm, bình đẳng như nhau hết.

Ở cái đơn vị tạm thời này của Hân có đủ những người từ khắp mọi nơi trong địa bàn của Quân khu. Tất cả đều giống nhau ở chỗ chịu khó học hành nghiêm chỉnh, không cần ai nhắc nhở. Vì thế mà các cán bộ ở đây lại càng nhàn. Còn các học viên, ngoài giờ lên lớp nghe giảng và học nhóm hay thảo luận bài, thường không lúc nào rời quyển sách. Có những anh thỉnh thoảng lại luân phiên truy bài người khác và để người khác truy mình nhằm kiểm tra lại những gì đã học. Anh thì ra rả như cuốc kêu, nghe mà sốt cả ruột, đối lập hoàn toàn với những người chỉ lầm rầm trong miệng như Hân.

Cũng có người lại hơi lập dị ở chỗ, không dùng bút máy hay bút bi, mà chọn ngòi bút lá tre chấm mực như học sinh cấp một. Có điều, mực mà anh ta dùng không phải loại đóng lọ bán ở cửa hàng, cứ việc mua về viết. Anh ta kì khu mài mực tàu thành một thứ mực viết riêng đen nhánh, không thể lẫn với ai. Mỗi bài học đều được anh nắn nót kẻ tiêu đề, ghi chép rất cẩn thận. Hân xem thử vở của anh ta mà phát hoảng: chữ nào chữ ấy, dòng nọ dòng kia đều tăm tắp như những đàn kiến duyệt binh, không thiếu một ý nào thầy đã giảng. Hân ngạc nhiên và kính nể lắm, nhưng càng sửng sốt hơn khi biết anh này đã từng ba bốn lần được phong tặng danh hiệu dũng sĩ các loại và được bồi dưỡng anh hùng. Tiếc là anh lại bị thương và sau đó thì chiến tranh kết thúc.

 

Cùng lớp học với Hân ở đây có hai nhân vật hơi đặc biệt. Một, tên là Bản, cùng đoàn an dưỡng với anh, dáng người thấp đậm có đôi mắt to và cái mũi cà chua đỏ ửng. Người kia là Toàn, cao và trắng trẻo. Anh này bị thương, mất một mắt và phải lắp mắt giả nên thường đeo kính râm, trông có vẻ hơi bí hiểm. Toàn có một chiếc ghi ta mới toanh, được mua bằng hai tháng phụ cấp thượng sĩ, trong lúc còn đang an dưỡng. Thỉnh thoảng anh lại ra gốc cây sau nhà vừa đàn vừa hát vào những khi rỗi rãi. Hân chỉ lạ ở chỗ, không hiểu tại sao anh ta lại có thể gân cổ lên mà hát: Biết bao giờ tình ta phai mờ… Trọn đời em thương nhớ anh

Ca khúc Nỗi buồn của nàng Xonvây[71] từ một đất nước xa xôi nào đó vang lên với cái giọng thuốc lào khê nồng khê nặc hòa lẫn tiếng ghi ta bập bùng không phải là không gây ấn tượng. Chả thế mà mấy cô chị nuôi mắt tròn mắt dẹt mê ra phết. Thỉnh thoảng lại bỏ cả việc, “Anh Toàn ơi, hát đi”! Nhưng tại sao lại Biết bao giờ tình ta phai mờ? Thế chẳng hóa ra là nàng Xonvây ấy lại cầu mong cho tình yêu của mình phai nhạt đi à? Phải là Có bao giờ tình ta phai mờ… chứ! Hân đem suy nghĩ ấy của anh ra nói với chàng ca sĩ, nhưng bị anh này gạt đi ngay một cách phũ phàng:

– Ông thì biết cái đếch gì! Lại còn định dạy khôn người khác. Lời bài hát của người ta đúng là như thế rõ ràng!..

Hân chưng hửng, đành im lặng trong khi Toàn lại ôm đàn lên, gào thật nhiệt tình:

Mùa đông dù chưa qua… Như bóng dáng xuân tươi phai dần. Mà anh vẫn xa xôi chưa về… Lòng em luôn luôn thầm nhớ. Biết bao giờ tình ta phai mờ…

Nhiều năm sau, Hân mới biết nguồn gốc của bài hát ấy là đâu. Anh được đọc bản dịch bài thơ trong vở kịch thơ của Henrik Ibsen, nhà viết kịch nổi tiếng người Na Uy, được Grieg phổ nhạc. Hiểu thấm thía nội dung của ca khúc lừng danh, lòng chung thủy và nỗi chờ mong của nàng Xonvây đối với người yêu đang ở nơi góc biển chân trời nào đó… Khác rất nhiều so với những gì mà Toàn đã hát ngày xưa! Giá như anh ta biết được chính xác lời bài hát!

Có lẽ vì thấy mình có trí nhớ siêu phàm, nên Bản tự đề ra một mục tiêu rất khác thường là phải học thuộc lòng cả ba quyển sách giáo khoa văn, sử, địa. Anh này dứt khoát cho rằng, thầy thì không thể nào bằng sách được! Cho nên, bao nhiêu lời thầy giảng trên lớp, anh ta chỉ ghi quấy quá rồi cho qua hết. Về đến nhà là giở sách ra ngay. Và đúng là chỉ sau gần ba tháng ôn thi tập trung, Bản đã thuộc lòng cả ba quyển sách giáo khoa lớp mười thật. Hơn thế nữa, anh ta còn tự hào thách đố mọi người kiểm tra bằng cách lật giở bất kì một trang nào đó để anh ta đọc xem có sai một dấu chấm, dấu phẩy nào không. Kết quả, là Bản khiến cho mọi người phải lè lưỡi, lắc đầu kinh ngạc. Sau đó, anh ta còn tiến thêm một bước xa hơn, thấy ai giở sách ra học liền bước đến bên, nửa đùa nửa thật đầy vẻ tự hào:

– Nào, trang bao nhiêu, bài nào, để tôi đọc cho mà nghe…

Hân không học theo kiểu ấy vì anh nghĩ, kì thi đại học không phải dành cho những người chỉ biết học thuộc lòng. Nó có những yêu cầu khác, đòi hỏi năng lực tư duy và tổng hợp cao. Vì thế, mặc ai nóng ruột hay nghĩ thế nào, Hân vẫn túc tắc như một con kiến tha mồi chứ không hề vội vã. “Dục tốc bất đạt”, các cụ đã dạy thế rồi. Anh củng cố kiến thức theo cách hệ thống lại những điều đã học, thỉnh thoảng lại đặt câu hỏi, đoạn ấy nói về cái gì, hay nội dung bài ấy là gì, trả lời câu hỏi ấy thế nào? Có những sự việc, sự kiện hay vấn đề gì đáng chú ý và mối liên hệ, tác động qua lại giữa chúng ra sao? Bài học rút ra? Chỉ những khi bí lắm, Hân mới giở sách vở ra để kiểm tra số liệu hay dữ kiện.

Cuối tháng Sáu, việc ôn luyện đã xong. Các thầy giáo tổ chức thi thử cho học viên nhằm đánh giá chất lượng học tập nói chung. Cũng đánh số báo danh, mỗi bàn chỉ ngồi hai người, quy định thời gian làm bài cụ thể. Thi xong, bài được thu về, rọc phách đàng hoàng, để chấm cho thật khách quan với thang điểm mười chứ không phải là năm như lúc học. Kết quả, gần hai phần ba số học viên đạt tổng điểm từ mười bốn trở lên, mức điểm được cho là sẽ đỗ. Như vậy cũng có nghĩa là khoảng hơn một phần ba sẽ trượt. Mọi người bắt đầu bàn tán xì xào, có anh thở dài sườn sượt, buồn ra mặt. Các thầy bèn động viên, rằng vẫn còn thời gian để cố gắng đạt kết quả tốt hơn; dù sao đây cũng mới chỉ là kì thi thử. Nhưng họ cũng khẳng định là đã chấm đúng theo cách thức và ba rem ở các trường đại học, nhằm có được kết quả sát thực tế nhất với kì thi chính thức.

Bài thi được trả lại cho các học viên. Bản ngạc nhiên thấy mình chỉ được mười sáu điểm. “Ca sĩ” Toàn, mười hai. Còn Hân, hai mươi mốt điểm, một kết quả thật bất ngờ đối với nhiều người. Bản hậm hực bực mình ra mặt:

– Hừ, các ông ấy chấm kiểu gì thế này không biết! Môn nào tôi cũng làm dài đến bốn tờ. Không thiếu một số liệu hay dữ kiện nào nhé! Đáng lẽ tôi ít nhất cũng phải hăm mốt hăm hai điểm chứ sao lại thế này…

Anh ta cay cú mượn luôn cả ba bài thi của Hân để đọc và so sánh với mình. Không hiểu tại sao cái thằng cha này, bài văn làm như thế mà được tận bảy điểm, lại còn phê tốt. Bài sử, chỉ dài có hơn một tờ, số liệu chẳng có bao nhiêu, lời lẽ thì chăng giống sách giáo khoa tí nào mà được những tám. Còn bài địa thì không thèm chấp làm gì. Sáu, là xứng đáng rồi. Môn phụ ấy mà!

Nghe thấy Bản kêu ca nhiều quá, nên Toàn đành phải xen vào:

– Thôi ông ơi, mười sáu cũng đã đủ để đi học nước ngoài rồi, ông còn mong gì nữa! Tôi còn đang lo về quê cày ruộng đây này.

Câu nói của anh chàng ca sĩ thuốc lào bịt ngay được cái mồm của Bản. Đúng là theo quy định của nhà nước, năm ngoái, thí sinh khối C chỉ cần đạt mười tám điểm là được đi học ở nước ngoài. Nhưng thương bệnh binh và cán bộ đi học lại được ưu tiên cộng thêm hai điểm. Nghĩa là chỉ cần mười sáu. Năm nay thì chưa biết sẽ thế nào, nhưng nghe nói, tỉ lệ chọi vào Trường đại học Sư phạm một Hà Nội là một trên mười bốn. Mười bốn người mới được một. Cao hơn tỉ lệ thi vào Tổng hợp, một trên mười hai. Nếu kết quả cuộc thi thử là chính xác thì số bị trượt rõ ra là không hề ít. “Ở đây bọn mình có gần năm chục thằng. Không xét theo tỉ lệ chọi, mà căn cứ vào điểm thi thì như vậy là giỏi lắm cũng chỉ đỗ được hơn ba chục. Ông Hân này chắc là chiếm được một suất rồi,” – Toàn nói với vẻ buồn rầu một cách chân tình.

Vẫn như mọi khi, Hân đứng ngoài những lời bàn tán và dự đoán. Anh chỉ cười cười: “Ôi dào, chẳng may chó ngáp phải ruồi ấy mà”! khi Báu lần đầu tiên vờ khen anh học giỏi và chắc chắn là đi học nước ngoài. Của đáng tội, ngay từ những ngày đầu tiên về đoàn an dưỡng, Hân đã không ưa cái anh chàng mũi đỏ này. Lúc nào cũng ra vẻ ta đây, khệnh khà khệnh khạng. Nói năng thì cứ như là bố người ta… Đến đây, tiếp xúc nhiều lại càng chán. Chao ôi, cái thói hợm mình, hãnh tiến và hay ghen tị của người đời! Luôn luôn sợ kẻ khác hơn mình, dù chỉ một tí một teo. Lúc nào cũng muốn mình là nhất, mà không hề biết mình thật sự là ai. May mắn cho Hân, là anh tự biết mình. Nhưng chính cái “biết” ấy nhiều khi lại trở thành lực cản, khiến anh chẳng làm gì được nữa.

Kì thi đại học chính thức diễn ra nghiêm túc và không hề căng thẳng, ít nhất cũng là theo cảm nhận của Hân. Sự căng thẳng hình như đã dồn hết vào lúc mọi người được phổ biến quy chế thi từ trước đó. Những là mấy giờ phải có mặt điểm danh, hiệu kẻng thế nào; mấy giờ nhận đề thi, cách ghi tên tuổi vào giấy thi, giờ giấc làm bài… Các thí sinh không phải đi đâu cả, mà cứ ở ngay đây, với phòng thi chính là lớp học của họ và hội trường. Một số giảng viên từ các trường đại học về tận nơi để coi thi. Nhìn chung họ cũng dễ gần, tuy cực kì nguyên tắc. Ví dụ, anh nào xin ra ngoài uống nước, họ cũng cho người theo mặc dù thùng nước được để ngay cửa lớp.

Một ngày rưỡi đã trôi qua. Các giảng viên coi thi niêm phong hòm đựng bài thi và quay về Hà Nội. Cả đơn vị không có ai vi phạm quy chế thi. Không anh nào dám đem tài liệu vào phòng thi, mà nếu có đem vào cũng chẳng làm gì được. Hân cảm thấy nhẹ bẫng cả người, như vừa trút xong gánh nặng. Không biết mình sẽ được bao nhiêu điểm, nhưng anh vẫn tin là sẽ đỗ. Vấn đề là không biết sẽ được học ngành nào vì thực tế cho thấy, bất kể thí sinh ghi nguyện vọng thế nào, nhưng vẫn có nhiều trường hợp bị gạt sang ngành khác, thậm chí là trường khác. Chẳng hạn, có cô xin học sư phạm văn thì được gọi vào tâm lí học. Anh khác, thi Đại học Bách khoa lại bị gạt sang Lâm nghiệp, v.v.

Hai ngày sau khi kì thi kết thúc, các học viên giải tán. Ở đâu lại về đấy, chờ kết quả là những tờ phiếu báo điểm được gửi qua đường bưu điện. Bắt đầu những ngày dài cổ mong đợi vào mỗi buổi chiều, khi liên lạc từ trung đoàn bộ xuống phát thư, báo cho cả đội. Phải chờ đến buổi chiều, là do đường sá xa xôi, lại qua hai cái phà nên chẳng làm thế nào nhanh hơn được. Vì thế mà một tờ báo Nhân Dân hay Quân đội nhân dân ở đây bao giờ cũng phải đọc chậm hơn nơi khác ít nhất là một hai ngày. Giấy báo điểm thi cũng thế thôi. Làm sao mà nhanh hơn được!

 

Cuối tháng Tám, những tờ giấy báo điểm thi đầy mong đợi ấy mới lác đác về đến đơn vị an dưỡng của Hân. Anh được tám điểm, anh chín điểm, có anh chỉ được năm điểm cho ba môn thi, ai nấy đều buồn thấy rõ. Chỉ còn biết chờ, may ra được gọi đi trung cấp. Bản, có vẻ khá hơn, được mười một điểm rưỡi! Cao nhất trong số những người đã nhận được giấy báo. Nhưng với số điểm ấy, anh ta không đủ để đỗ vào trường Sư phạm. “Nhà thông thái”, kẻ thuộc lòng ba quyển sách giáo khoa ấy hoang mang cực độ. Giọng anh ta run lên như muốn khóc:

– Trời đất ơi, sao lại thế này! Bài tôi làm không sai một tí nào… Đúng là chúng nó chấm lếu chấm láo rồi… Không thể nào tin được! – Bản rên rỉ với hết người này đến người khác và anh ta còn than vãn, kêu ca đến mấy ngày liền.

Rất lạ, là mãi vẫn không thấy giấy báo điểm của Hân. Anh bắt đầu lo nghĩ vẩn vơ, chẳng lẽ thất lạc đâu đó hay mình bị trượt? Nhưng rồi Hân lại gạt đi, vì nếu trượt thì cũng vẫn phải có giấy báo điểm chứ! Ở đây, bao nhiêu người nhận được rồi. Hân bắt đầu lo ngại cho tương lai của mình. Anh đã tính đến việc đi học trung cấp luật (theo nguyện vọng hai trong đơn dự thi), hoặc cùng lắm, lại quay về làm công nhân vậy. Trăm đường không tránh khỏi số. Nhưng tại sao lại thế? Trong suốt thời gian thi, mình đã cẩn thận đến thế, suy nghĩ kĩ rồi mới viết. Thậm chí còn đọc đi đọc lại xem đã đúng và đủ ý chưa trước lúc nộp bài…

Bản cũng làm ra vẻ quan tâm đến tờ giấy báo điểm của Hân, nhưng theo một suy nghĩ khác. Hân biết, anh ta đoán rằng có một trục trặc nào đó đã xảy ra, và rất mong Hân sẽ trượt. Như vậy, Bản sẽ đỡ xấu hổ với mọi người vì cái kết quả kia của anh ta. Nhưng trong khi che giấu suy nghĩ ấy, Bản vẫn thẽ thọt với Hân những lời lẽ như thể hết sức cảm thông và chia sẻ:

– Anh vẫn chưa nhận được giấy báo à? Sao lại lạ thế nhỉ? Hay thử lên trên đoàn  hỏi xem, chứ anh học giỏi thế kia mà! Anh mà trượt nữa, thì cả đoàn mình không anh nào được đi đại học năm nay mất! Lúc thi thử, anh còn được tận hai mươi mốt điểm… Đâu phải chuyện đùa!

Thằng… đểu thật! Nó lại mỉa mai, nói kháy mình! Mà mình có trêu chọc hay tỏ ra coi thường gì nó đâu. Hân thầm nghĩ và chỉ muốn đấm vào cái mũi đỏ kia một quả. Xem máu của nó tóe ra như thế nào! Hai mươi mốt điểm! Giờ, nếu mà mình trượt thì chắc là nó sướng lắm đây. Hân đáp lại cũng bằng cái giọng y như thế:

– Giỏi thì cũng còn lâu mới bằng được ông. Tôi có học thuộc được lấy một chương hay một bài nào trong sách giáo khoa đâu! Với lại, học tài thi phận ấy mà!

Có vẻ như một mũi tên đã trúng hai đích. Một, đánh vào niềm tự hào về trí tuệ của Bản. Hai, để anh ta tịt luôn cái thói mỉa mai châm biếm nhằm biện hộ cho sự kém cỏi của mình. Và đúng là Bản đã tịt luôn thật. Anh ta chỉ còn than vãn cho số phận hẩm hiu chứ không dám so kè gì nữa. 

Đến gần cuối tháng Mười, Bản nhận được giấy gọi vào học dự bị tại Trường đại học Sư phạm Hà Nội. Anh ta mừng rơn vì dự bị vẫn còn hơn là trượt! Nhưng mặt Bản méo xệch hẳn đi khi đến hôm sau, có tin Hân được gọi đi học ở nước ngoài. Thì ra, giấy báo điểm của anh được giữ lại ở Bộ tư lệnh Quân khu. Người ta gọi điện xuống dưới này, yêu cầu thông báo và làm thủ tục ra quân cho Hân. Đúng ngày ấy, giờ ấy anh phải có mặt để nhận giấy tờ nhập học lớp tiếng Nga của Khoa Lưu học sinh, Trường đại học Ngoại ngữ Hà Nội. Như vậy cũng có nghĩa là Hân sẽ được đi học ở Liên Xô rồi.

Hân bàng hoàng sung sướng, tưởng không tin vào những điều vừa nghe thấy. Nhưng ông thượng úy trưởng ban tham mưu của trung đoàn không đùa. Ông ta hướng dẫn Hân những việc cần làm, hẹn hai ngày sau có mặt ở trung đoàn bộ để nhận quyết định chuyển ngành và những giấy tờ cần thiết khác. Đến lúc ấy, Hân mới thở phào nhẹ nhõm và mọi lo âu được giải tỏa hoàn toàn.

– Nhưng mà em được bao nhiêu điểm ạ? – Hân sực nhớ đến điều quan trọng nhất. – Em…

– Mười tám rưỡi! – Ông thượng úy mỉm cười khẳng định rồi quay lưng đi thẳng, có lẽ vì thấy không cần phải nói thêm gì nữa.

– Anh Hân sướng nhé, tôi đã nói mà… – Bản đứng bên Hân từ nãy, giờ mới lên tiếng. – Giá mà anh sẻ bớt cho tôi được hai điểm nhỉ. Anh vẫn đi học ở nước ngoài, còn tôi thì đỗ vì năm nay vào Đại học Sư phạm chỉ cần mười ba điểm.

Bất chợt, Hân không khỏi động lòng trắc ẩn khi nghe giọng nói nghẹn ngào của Bản. Chẳng bù cho những lúc anh ta tự cho mình là một nhân vật siêu phàm, coi người khác như rơm rác. Hân đành phải tìm cách an ủi gã “quân tử hỏng thi”, mặc dù anh cũng biết mình không thực lòng cho lắm:

– Tôi… chẳng qua là do ăn may ấy mà! Ông cứ cố gắng lên, năm sau thi lại thế nào mà chẳng được điểm cao. Có khi anh em mình lại gặp nhau ở Liên Xô ấy chứ…

Hơn ba ngày sau, vào một buổi chiều, Hân có mặt ở Bộ tư lệnh Quân khu. Tiếp anh là một trung úy trực ban chừng ngoài ba mươi tuổi, khá kiệm lời. Hân xem giấy báo điểm, thấy dấu bưu điện ngày hăm lăm tháng Chín. Vậy là đã gần một tháng. Chẳng lẽ người ta còn đi thẩm tra lí lịch của mình? Mà… sao lại tập trung muộn thế? Mãi tận hăm lăm tháng Mười. Hân đoán, có lẽ Khoa Lưu học sinh này khai giảng muộn. Mình vẫn còn được hai ngày nữa để đi đường… Nhưng thôi, dù sao mọi việc cũng xong rồi! Văn, bảy điểm rưỡi. Sử, tám điểm. Gần giống với lần thi thử. Nhưng Địa, được có ba. Không ai nghĩ, đề thi môn Địa lí năm nay lại xoáy vào có đúng một bài về khí hậu Việt Nam và ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển kinh tế nói chung; có biệt lệ nào không… Tất cả ở ngay phần mở đầu của sách giáo khoa. Hân chủ quan, bỏ qua bài ấy mà chỉ chúi mũi vào hai chương nông nghiệp và công nghiệp. Chẳng cần gì đến khả năng nhắm mắt cũng vẽ được bản đồ của anh. Vì thế, địa lí là môn thi khiến Hân tắc tị, không biết viết thế nào, cuối cùng đành phải nộp bài, ra khỏi phòng thi sớm. Chứ có ngồi ở đó cho đến lúc hết giờ cũng chẳng để làm gì. 

Theo phổ biến từ trước đó, Hân tháo quân hiệu, quân hàm, nộp cho sĩ quan trực ban. Thoáng trong một giây, anh lại nhớ đến những hình ảnh trong lễ hạ sao trước khi đơn vị đi B, để từ đó trở thành người lính Quân giải phóng. Mới đấy mà đã gần sáu năm trời! Viên trung úy hờ hững nhét quân hàm, quân hiệu của Hân vào trong ngăn kéo trước khi buông một câu gọn lỏn:

– Xong rồi!

Hân chào sĩ quan trực ban rồi khoác ba lô lên vai. Từ giờ phút này trở đi, không còn trung sĩ Nguyễn Đình Hân nữa. Chỉ có công dân Nguyễn Đình Hân. Anh đã trở về đúng nghĩa một thường dân như biết bao nhiêu người khác. Bộ quân phục, chiếc mũ cối, đôi dép cao su và chiếc thắt lưng chỉ còn như những vật lưu niệm về một thời đã qua. Hân muốn khóc, muốn cười, muốn hát nhưng không thể. Gần sáu năm, anh mới có một buổi chiều như thế này, cái buổi chiều mà từ những năm tháng ở rừng cho đến tận sáng nay, anh vẫn không thể nào hình dung ra được.

 

*

*          *

 

Hà Nội đây rồi! Không khó khăn gì lắm, Hân cũng tìm được nơi cần đến, tất nhiên là phải sau vài lần hỏi thăm đường. Ngôi trường này ở mãi tít ngoại thành và được gọi là Trường Ngoại ngữ Thanh Xuân, gần thị xã Hà Đông. Muốn đến được đó phải qua ngã tư Sở (còn được gọi là ngã tư Khổ vì hay xảy ra tình trạng tắc đường); khu Cao – Xà – Lá, nơi có các nhà máy Cao su Sao Vàng, Xà phòng Hà Nội và nhà máy Thuốc lá Thăng Long, chưa kể đến nhà máy Bóng đèn phích nước Rạng Đông cùng với nhiều xí nghiệp, cơ quan khác.  

Trường Ngoại ngữ Thanh Xuân có hai hệ khác nhau. Một, là đào tạo cho nhu cầu trong nước, chiếm tỉ lệ áp đảo, với số lượng sinh viên khá đông, vào học từ đầu tháng chín. Hệ kia, thuộc Khoa Lưu học sinh, có nhiệm vụ trang bị kiến thức ngoại ngữ cho những người sẽ đi học nước ngoài, ít hơn hẳn. Nhưng ở khoa này, đông nhất là những người học tiếng Nga. Có tới tận bốn lớp, khoảng hơn một trăm nam nữ. Trong đó, lớp C1 hay còn gọi là lớp học thẳng, khi sang đến Liên Xô sẽ vào năm thứ nhất luôn. Các lớp còn lại sẽ có thêm một năm dự bị. Hân sung sướng khi thấy mình được học ở C3, nhàn hơn, vì C1 dường như chỉ dành cho những nhân tố được coi là xuất sắc, chủ yếu là học sinh phổ thông, người Hà Nội.

Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà lớp C3 của Hân chỉ toàn là những “cán bộ đi học”. Ba mươi mốt anh chàng và cô nàng, cao nhất với quân hàm chuẩn úy, thấp nhất là hạ sĩ, tất cả còn giữ nguyên nếp sống trong quân ngũ và nước da mai mái của những người sốt rét rừng. Trừ ngoại lệ Trần Kha ra không kể. Nước da của anh ta xấu, là do nó xấu thôi. Lọt thỏm vào giữa đám đàn ông đông đúc, có được đúng hai hạt “mì chính cánh” nữ thanh niên xung phong và bộ đội. Cô thanh niên xung phong tên là Hường, quê Thanh Hóa, có dáng người hơi thấp, vẻ hiền lành. Cô kia là Báu, người Hà Tĩnh, thành viên cũ của đội văn nghệ xung kích trung đoàn, đảng viên hẳn hoi nhưng giọng hát thì không hay lắm.

Bắt đầu những ngày gian khổ giữa thời bình. Hân và bảy người nữa được bố trí ở một phòng. Bốn chiếc giường gỗ hai tầng. Một chiếc quạt trần treo giữa phòng chỉ có thể chạy lờ đờ mỗi khi có điện. Hai bóng đèn tròn thõng xuống, đỏ quạch không khác đèn dầu. Đánh răng rửa mặt, ra bể nước ngoài sân. Nhà tắm công cộng được chia làm hai dãy cho nam và nữ, gần nơi ở. Nhà vệ sinh thì lại ở mãi tít ngoài cổng trường, chắc là để cho người ta dễ thu dọn mà không ảnh hưởng gì đến việc đi lại, học hành. Mùa hè, muốn có nước dùng, sinh viên phải cắt cử nhau dậy từ ba bốn giờ sáng mà lấy vào xô, chậu. Mùa đông, tắm bằng nước lạnh, răng đánh cầm cập vào nhau trong khi sởn da gà. Ăn, theo tiêu chuẩn mười sáu đồng một tháng, cơm độn mì sợi đen sì. Học, thì có sách giáo khoa và tài liệu phần lớn được in rônêô nhòe nhợt trên giấy nứa, đọc đến toét cả mắt. Vì thế, mỗi người phải sắm cho mình một chiếc đèn dầu, và dưới mỗi gầm giường là lỉnh kỉnh đủ các loại xô chậu, bát đũa và hộp xà phòng các loại.

Như đã thành lệ, mỗi khi phòng nào có ai đó đi chơi, thì vé ăn của anh ta (hay cô ta) sẽ được giao lại cho người trong phòng sử dụng. Nhờ thế, bữa cơm ấy sẽ khá hơn một chút. Tuy nhiên, cũng có lần đương sự đi rồi lại phải quay về vì một lí do nào đó, như chủ nhà đi vắng hoặc người ta không giữ lại ăn cơm. Thế là cả lũ lại lâm vào tình trạng dở khóc dở cười, vì không còn cơm cho kẻ đi ăn hụt. Lí do, là bữa chiều ở đây bao giờ cũng bắt đầu từ lúc năm giờ ba mươi, để cán bộ, nhân viên nhà ăn còn dọn dẹp và ra về. Đến đây, có người nảy ra sáng kiến: đã thế thì không giao vé cho ai vội mà cứ giữ đấy, để đến lúc chắc ăn mới đem dùng. Trên vé có ghi ngày, thì chữa ngày đi. Thế là xong. Mấy bà phát cơm có xem kĩ vé bao giờ. Giấy xấu, in ấn lèm nhèm, chẳng ai phát hiện được. Mà có phát hiện thì đã làm sao! Cùng lắm chỉ bị người ta nhắc nhở bận sau không được làm như thế nữa. 

 

Tranh thủ những khi rỗi rãi, Hân lại nhảy tàu điện đi chơi Hà Nội. Những con tàu nhỏ bé và cũ kĩ được sơn hai màu vàng và đỏ chỉ có hai toa, chậm đến nỗi người ta có thể nhảy lên hoặc xuống ngay cả khi nó đang chạy trên đường. Cũng không hiếm khi đám trẻ con trèo me trèo sấu đánh đu ở đuôi tàu, trốn vé. Sau này, khi người ta xóa bỏ hệ thống tàu điện từ thời Pháp thuộc ấy, tiếng chuông leng keng rất đặc trưng của nó cũng mất luôn, chảng còn thấy lại ở đâu được nữa.

Hân không thể quên được cảm giác ngỡ ngàng khi lần đầu tiên anh đặt chân đến bên hồ Hoàn Kiếm. Địa danh lịch sử với truyền thuyết Lê Lợi trả gươm là đây. Nước hồ xanh màu rêu nhưng có lẽ không đến nỗi bẩn lắm, đúng như cái tên Lục Thủy. Biết bao nhiêu tác phẩm văn chương, hội họa, nhiếp ảnh và âm nhạc đã nói đến nơi này. Cái hồ từng được người nước ngoài ví như một lẵng hoa trong lòng Hà Nội. Cái lẵng hoa ấy, trong mắt Hân thật cổ kính và yên bình với bờ hồ phẳng phiu, cỏ mọc lan đến tận bên mép nước. Anh ngồi xổm, vốc nước lên rửa tay rồi tiện thể rửa luôn cả đôi chân đi dép cao su đầy bụi. Đó đây vẫn còn những cột điện bằng sắt được dựng lên từ thời Pháp, những thùng thư bưu điện màu vàng và những chiếc ghế đá xiêu vẹo hẳn do người ta phá phách. Phía xa, Tháp Rùa trông thật khiêm nhường ở một góc hồ. Còn đây, Đài nghiên, Tháp bút, cầu Thê Húc, đền Ngọc Sơn… mái ngói rêu phong dường như tự ẩn mình dưới những tán cây.

Không thể phân biệt được người Hà Nội với dân tứ xứ nếu không nghe giọng nói và nhìn vào thái độ. Đơn giản, là vì tất cả đều lam lũ như nhau. Cái nghèo hình như không có sự phân biệt vùng miền nào hết. Nhưng cứ thấy ai ăn mặc tươm tất một chút, da dẻ hồng hào, xách cặp giả da… thì đều có thể khẳng định, đó là cán bộ nhà nước. Nếu người ấy lại ngồi trên xe con nữa, thì đích thị là ông cốp rồi. Hân rút ra nhận xét như thế và tự hỏi, liệu đến bao giờ mình có được cái vẻ ngoài ung dung, nhàn tản như những vị kia. Chắc là khó lắm. Vì cái số của anh nó vất vả, tất bật thế nào… Đi đâu hay làm gì cũng cứ vội vội vàng vàng như có lửa đốt dưới chân, chẳng thể nào khác được.

Hân cũng lang thang đến khu vực Nhà hát lớn, Bảo tàng Lịch sử và Bảo tàng Cách mạng. Anh ngạc nhiên khi thấy ở đó có cả nắm đất mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ghé môi hôn khi Người trở về Việt Nam sau gần ba mươi năm ở nước ngoài. Chao ôi, liệu có thật thế không? Chẳng lẽ phải hôn lên mảnh đất quê hương mới thật sự là người yêu nước? Còn nếu không hôn thì sao? Rồi Bác lại còn cẩn thận cất giữ nắm đất, bất chấp nhà tù của Tưởng, qua những ngày Cách mạng tháng Tám và kháng chiến để sau này trao cho viện bảo tàng? Thật khó mà tin được! Thế mà cũng tuyên truyền!

Tất nhiên, thắc mắc thì thắc mắc thế thôi, nhưng Hân không dám hỏi lại cô thuyết minh hay chia sẻ ý nghĩ với ai. Anh sợ, nếu nói ra điều ấy, rất có thể chỉ cần bước ra đến cửa là đã bị hỏi thăm rồi. Hân không thể quên chuyện xảy ra với Hiển, một người nằm sát bên anh ở đoàn an dưỡng. Cậu này vốn là người biết kẻ vẽ và chụp ảnh, nghĩa là có cái gì đó để người ta tận dụng làm công tác tuyên huấn trên trung đoàn. Bị thương, gãy một cẳng chân và thủng ruột, Hiển được xếp loại Hai (sau đổi lại cách gọi thành loại Ba), mất ba mươi lăm phần trăm sức khỏe.

Hiển được ông Tu, trưởng tiểu ban tuyên huấn thuyết phục đừng ra quân vội, mà lên công tác ở trung đoàn bộ với ông. Công việc không có gì phức tạp, chỉ là cờ đèn kèn trống ấy mà! Đấy cũng là bước thử thách cuối cùng để kết nạp Hiển vào Đảng, vì anh đã có hồ sơ đối tượng Đảng từ miền Nam ra. Nhưng ai lại kết nạp một người đang an dưỡng? Dựa vào đâu? Có thành tích công tác gì mà kết nạp? Chẳng lẽ lại khoe đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ an dưỡng, ăn hết bao nhiêu là cơm, uống hết bao nhiêu là thuốc à? Làm gì có chuyện ấy, hì hì…

Nghe bùi tai và cũng vì mơ ước cháy bỏng được trở thành người của Đảng, Hiển vác ba lô lên trung đoàn bộ. Đúng là công việc không có gì phức tạp thật, mà lại vui. Mỗi tháng, cùng với hai cộng sự nữa anh ta chỉ phải lo tổ chức một buổi chiếu phim cho đơn vị và bà con địa phương; cắt dán khẩu hiệu tuyên truyền nhân dịp lễ lạt gì đó rồi treo lên cổng chào, hoặc trang hoàng hội trường mỗi khi có sự kiện gì quan trọng và chụp ảnh. Ông trung đoàn trưởng là người rất mê hát chèo, nên ở đây có cả một đội văn nghệ xung kích hát í a ì a mà nòng cốt của nó là mấy cô y tá, quân nhu, cấp dưỡng. Vì thế, Hiển cũng phụ giúp phần sân khấu, phông màn, loa đài… khi gánh hát này biểu diễn.

Công việc kéo dài được hơn một năm gì đó và đơn vị cũng đã cử người về quê Hiển, thẩm tra lí lịch chờ ngày kết nạp. Bỗng đùng một cái, anh chàng buộc phải nhận quyết định phục viên, không được ở lại trong quân ngũ một ngày nào nữa. Lí do, là Hiển đã có sai phạm nghiêm trọng về quan điểm và tư tưởng. Ai lại giữa lúc cả nước mừng chiến thắng, mọi người đang hân hoan vì từ nay không còn lo gì đến chiến tranh, cậu ta lại ngứa mồm nói một câu không thể nào tin được:

– Thủ trưởng ạ, em nghĩ là đánh nhau với Mĩ xong rồi, mình còn phải đánh nhau với Trung Quốc! Chứ tình hình này, không yên được với nó đâu!

Thủ trưởng ở đây chính là ông Tu, vẫn được gọi đùa là Dương Tu, một nhân vật trong Tam Quốc bị Tào Tháo giết chỉ vì cái tội nghe mật khẩu “kê cân” đã hiểu ngay chủ tướng sắp lui binh và đem nói cho người khác biết. Ông Dương Tu thời hiện đại này được phân công theo dõi giúp đỡ Hiển và khi thấy cậu ta nói thế liền lừ mắt, hừ một tiếng. Đảng đã khẳng định là từ nay, không còn một kẻ thù nào dám động đến non sông đất nước ta; hòa bình, độc lập, tự do vĩnh viễn rồi. Thế mà cái thằng trung sĩ quèn một tí tuổi đầu này dám cãi lại à? Rõ là ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung! Hơn nữa, Trung Quốc là người bạn lớn của nhân dân Việt Nam, đã giúp đỡ ta bao nhiêu là nhiều, làm sao lại đánh nhau với Trung Quốc được! Quan điểm đâu, lập trường tư tưởng đâu? Láo thật!

Ông Tu báo cáo lên chính ủy trung đoàn. Đảng ủy trung đoàn họp với chi bộ ban chính trị. Tất cả nhất trí dừng việc kết nạp Hiển. Nhưng cũng không cần phải kỉ luật cậu ta về mặt chính quyền, vì khép vào tội gì cũng khó. Tốt nhất, cứ cho phục viên về địa phương theo dõi, giúp đỡ thêm. Đỡ lôi thôi phiền phức. Tất nhiên, cũng phải giải thích sao cho khéo, đừng để cậu ta phản ứng.

Vào một ngày cuối năm, nhân dịp họp hành tổng kết, Hiển nhận được quyết định ra quân. Anh ngạc nhiên, thắc mắc thì được giải thích đại khái là đồng chí đã hoàn thành nhiệm vụ ở chiến trường, nay đơn vị xét thấy nên để đồng chí về địa phương công tác thì tốt hơn, nên đã quyết định như thế. Còn chuyện vào Đảng thì ở đâu mà chẳng phấn đấu được, nóng vội làm gì. Xưa nay, Đảng không bao giờ bỏ qua những quần chúng tốt, chỉ sợ mọi người không kiên trì phấn đấu thôi. Hiển xin ở lại đến sau Tết, chờ một thời gian để chuyển ngành, nhưng bị gạt đi. Vì tiêu chuẩn an dưỡng đã hết, lại không thuộc biên chế của đoàn nên đành chịu. Hơn nữa, quyết định đã kí rồi không thay đổi được nữa. Người ta giải thích cho Hiển như thế.

 

Hân tiễn chân Hiển ra khỏi doanh trại. Vẫn còn sớm nên hai người tạt vào một quán nước bên đường. Hân gọi hai chén nước chè và mấy chiếc kẹo lạc, nói chuyện vẩn vơ. Hiển vẫn chưa biết về quê rồi sẽ làm gì. Sức khỏe như thế này mà lại con trâu đi trước, cái cày theo sau cũng oải. Nhưng thôi, có hơn một trăm đồng tiền phục viên đây, ăn một cái Tết thật to cái đã, mọi việc tính sau! Rồi chẳng biết nghĩ ngợi thế nào, Hiển loay hoay mở chiếc phong bì đựng hồ sơ đối tượng Đảng đã được dán kín và đóng dấu niêm phong cẩn thận. Anh ta lấy giấy tờ trong đó ra đọc và bỗng lặng đi một lúc. Như vẫn không tin vào đôi mắt của mình, Hiển đọc đi đọc lại đến mấy lần. Uất ức và cay đắng, anh ta đưa cho Hân xem mấy tờ giấy ấy.

– Ông thấy thế nào? – Hiển khẽ hỏi sau khi Hân đã đọc xong.

– Tôi nghĩ… nó nhận xét thế này thì chẳng bao giờ ông được kết nạp đâu! Sai phạm nghiêm trọng về lập trường tư tưởng cơ mà! Tội to như thế… Lại còn “Phải đánh nhau với Trung Quốc”… Đúng là ông nói thế thật à?

– Đúng! – Hiển gật đầu xác nhận.

– Thế thì chết rồi! Ai bảo ông nói thế?

– Tôi nghĩ thế! Đấy rồi ông xem… Còn tôi, còn ông đây. Thế nào rồi bọn Tàu nó cũng đánh ta. Mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm rồi. Tại vì mình không chịu đi theo nó mà lại bám đít Liên Xô. Ông đã hiểu chưa?

Hân im lặng, không biết nói gì. Hiển thở dài não nuột, chậm rãi nhét mấy tờ giấy ấy vào lại phong bì rồi mới nói bằng giọng đầy nuối tiếc:

– Thế là công tôi mấy năm ở chiến trường thành công cốc! Lại còn dũng sĩ diệt xe cơ giới hẳn hoi… Gãy cả chân, thủng cả bụng mà chẳng được cái đéo gì!

– Thì… ông vẫn còn phấn đấu được nữa mà… – Hân tìm cách động viên, mặc dù chính anh cũng chẳng tin vào điều ấy.

– Thôi, từ nay thì tôi xin chừa! – Hiển đứng dậy, kéo Hân ra khỏi quán. – Đi nào!

Ra đến bên ngoài, Hiển ngẫm nghĩ thêm một lúc rồi chậm rãi xé chiếc phong bì đựng hồ sơ đối tượng Đảng của anh thành từng mảnh rồi vứt xuống ruộng lúa. Đằng nào thì cũng không dán lại được nữa, lộ ngay. Đành coi như không có chuyện gì xảy ra, hoặc mình chưa từng là đối tượng đối tung gì hết. Nếu địa phương có hỏi về việc xác minh lí lịch thì sẽ tính sau, có khó gì đâu! Thậm chí bọn chúng nó còn không muốn cho những người như mình vào Đảng ấy chứ… Để cho chúng nó dễ bề bịt miệng người khác ấy mà! Một cơn gió thổi qua, những mảnh giấy vụn bay tung như đàn bướm. Hiển đái xuống đó một lúc rõ lâu, cài lại cúc quần rồi mới thở dài thêm lần nữa:

– May mà thằng Tâm bảo mật nó báo cho tôi biết, chứ không thì bỏ mẹ! Mình đem hồ sơ này nộp cho xã, khéo nó lại bắt và khép vào tội phản động cũng chưa biết chừng! Chưa kể…

– Không đến nỗi ấy đâu! – Hân ngắt lời Hiển vì thấy có người từ đằng xa đi tới.

– Đến quá đi ấy chứ! Ông không biết đâu… Mẹ, không thể tưởng tượng được, cái thằng Dương Tu nó lại đểu với mình đến thế!

– Không phải riêng mình ông Tu, mà ông ấy cũng có đểu gì với ông đâu! Chẳng qua do tất cả mọi người đều nghĩ phải như thế mới là đúng. Tự nhiên ông lại nói như thế làm gì! Đảng có cho nói thế đâu!

– Mẹ cha chúng nó chứ! Công sức của tôi đổ ra như thế…

Hiển vẫn chưa nguôi được nỗi hậm hực và cay cú trong khi Hân lại tỏ ra rất thờ ơ. Ham vào Đảng để làm gì cho khổ! Chẳng lẽ không phải đảng viên thì không thể sống tử tế được à? Anh thầm nghĩ và tin rằng ông Tu không có lỗi gì trong chuyện này. Ngài trung úy bốn mươi hai tuổi, trưởng tiểu ban tuyên huấn này chỉ suy nghĩ và hành động đúng như những gì đã được học qua nghị quyết và chỉ đạo của cấp trên thôi! Đó cũng là những điều mà ông ta tin là đúng. Hân chia tay Hiển sau khi đã chúc anh đảng viên hụt ăn một cái Tết vui vẻ, cái Tết đầu tiên của hòa bình, từ năm Ất Mão sang Bính Thìn với nhiều hi vọng.

Hơn hai tháng sau, Hân đi ôn luyện văn hóa để thi đại học. Nhưng có ai ngờ lời tiên đoán của Hiển lại linh nghiệm và nhanh chóng trở thành hiện thực đến thế, tuy không thật đầy đủ và hoàn toàn chính xác. Đó là, trước khi đánh nhau với Trung Quốc, ta còn phải gian nan khốn khổ với bọn Pôn Pốt ở phía Tây Nam. Một cuộc chiến tuy không dài lắm về mặt thời gian, nhưng mức độ dã man, tàn bạo của nó thì đúng là chưa từng thấy. Và cũng từ cuộc chiến tranh này mà người ta buộc phải nói đến từ diệt chủng. Những kẻ tự xưng là cộng sản chân chính ở Campuchia không chỉ giết chóc vô cùng man rợ phụ nữ, trẻ em Việt Nam mà còn tàn sát cả hàng triệu đồng bào của chúng, theo những cách thức như ở thời Trung cổ. Đó là điều mà ngay đến Hítle cũng không dám làm với những người dân Đức nói chung, tất nhiên trừ các đảng viên cộng sản.

Cái gì đã khiến cho Hiển có dự cảm như vậy? Một anh đầu binh cuối cán, vốn sống đâu có nhiều, bản lĩnh chính trị bằng không, suýt mang vạ vào thân. Phải chăng có một cái gì đó đã ăn sâu vào trong tiềm thức của cả dân tộc Việt Nam này, như một mạch ngầm chảy tự ngàn đời chỉ chờ lúc bật ra một cách hoàn toàn tự phát. Rằng đừng có tin vào Trung Quốc, ông hàng xóm lúc nào cũng chỉ nhăm nhe thôn tính Việt Nam bằng cách này hay cách khác. Xưa đã vậy, nay cũng vậy và mãi mãi về sau này cũng vậy!

Thực tế cho thấy, Trung Quốc có biên giới với bao nhiêu quốc gia, thì họ gần như gây chiến với đủ bấy nhiêu nước thậm chí là cùng phe xã hội chủ nghĩa như Mông Cổ, Liên Xô… để tranh giành lãnh thổ và khẳng định chủ quyền. Cùng lúc đó lại to mồm buộc tội người khác là bành trướng, bá quyền và xâm lược. Họ cũng chẳng ngại ngần gì việc dùng ngay cả những thủ đoạn rất tiểu nhân, như cho người sang xâm canh xâm cư, thậm chí nhổ cột mốc đường biên, cắm sâu vào đất Việt Nam. Trên biển thì lại càng trắng trợn, hung hăng hơn nữa. Cứ nhìn vào vụ Hoàng Sa năm bảy tư, chiến tranh biên giới phía bắc năm bảy chín và Gạc Ma – Trường Sa năm tám tám thì biết. Vì thế, đừng có bao giờ quên cảnh giác! Đừng tưởng rằng nó đã “cộng sản” rồi thì sẽ tử tế với ta. Cũng đừng tưởng thắng Mĩ rồi thì ta muốn làm gì cũng được!

 

 

            Năm

 

Trong số các thầy cô giáo dạy tiếng Nga ở Khoa Lưu học sinh chỉ có thầy Việt, chủ nhiệm lớp của Hân là đi học ở Liên Xô về, còn lại đều tốt nghiệp trong nước. Nhưng tuổi tác thì sàn sàn như nhau, trên dưới ba mươi. Tất cả cũng đều giống nhau ở chỗ không lấy gì làm giàu có hay dư dả. Mùa đông, các thầy chỉ khoe được cái áo rét duy nhất, là áo đại cán chính hiệu hoặc may theo kiểu ấy bằng vải kaki Liên Xô. Riêng thầy Việt thì có thêm chiếc áo vét và áo khoác ngoài. Thầy cũng là người duy nhất có được chiếc xe đạp Con én đem từ Liên Xô về, trông thật ấn tượng với chiếc ghi đông nhôm uốn cong và khung xe vững chãi. Người đạp xe lúc nào cũng chúi đầu về phía trước như một cua rơ thật sự. Mà thầy Việt, vừa đẹp trai lại vừa có vẻ rất thể thao. Chắc là nhiều em mê lắm, Hân thầm nghĩ.

Các cô thì có vẻ khá hơn, có lẽ vì phụ nữ thường hay làm đẹp. Cô thì có đến hai ba chiếc áo len và áo khoác. Có cô còn diện cả áo rét của nước ngoài. Hân biết được điều đó vì phòng học chật chội, khoảng cách giữa thầy và trò rất gần, tất cả đều đập ngay vào mắt. Lại nữa, mấy ông cựu chiến binh cùng lớp với anh thuộc vào loại trời gầm, để ý từng li từng tí một đến các cô rồi đem ra bàn tán với nhau. Cũng dễ hiểu, vì phần lớn các cô đều chưa chồng, mà học viên có người còn hơn tuổi các cô, lại đã vợ con đùm dúm ở quê.

Hân không tham gia cái trò săm soi khiếm nhã của mấy anh bạn học. Nhưng anh không khỏi mủi lòng khi chợt nhận ra sao các cô giáo của mình khổ thế. Đang tuổi thanh xuân nhưng chẳng mấy cô tươi tắn hồng hào. Một vài cô lại còn gày gò, thấp bé đến buồn. Do chỗ ngồi ngay bàn đầu, nên dù không muốn, Hân vẫn thấy hết tất cả mọi khiếm khuyết hay sơ suất của các thầy cô, không giấu đi đâu được. Ví dụ như có thầy mặc chiếc sơ mi nhàu nhĩ đến mấy ngày liền. Có thầy, đầu tóc trắng những gầu. Hân ngạc nhiên khi phát hiện chiếc quần lụa đen của một cô bị thủng. Lỗ thủng ấy, không biết do gián nhấm hay chuột cắn, to bằng cỡ đồng xu ở ngay gần cạp quần. Cô giáo đã vá ở phía trong và Hân sẽ không biết đến lỗ thủng ấy nếu không có lúc cô phải kiễng chân lên viết bảng. Chiếc áo của cô hơi ngắn, bị kéo xếch lên tận phía trên cạp quần và miếng vá hiện ra… Tất nhiên, cái mà Hân nhìn thấy thì những người khác cũng đều thấy hết. Điều đáng nói là hôm sau, miếng vá ấy đã được xoay về phía trước. Hân lại nhìn thấy nó khi cô đứng quay mặt về phía học viên, chỉ tay lên bảng, ra bài tập cho mọi người đặt câu.

Nghe thấy tiếng cười của mấy học viên nam ở cuối lớp, cô giáo liền dừng lại:

– Sao, có chuyện gì thế các anh?

Tiếng cười, tuy đã bị kìm nén nhưng vẫn chưa dứt hẳn. Cô giáo càng ngơ ngác hơn, nhìn quanh một lượt:

– Lạ nhỉ, có gì đâu mà cười? Chẳng lẽ tôi nói gì sai à? Động từ rabôtat, có nghĩa là làm việc…

– Không, có gì đâu ạ! – Thoại, lớp trưởng của Hân lên tiếng và vẫn cứ cười.

Cuối cùng thì cô giáo cũng đoán ra. Cô cảnh giác, quay về phía bảng rồi kín đáo nhìn xuống, kiểm tra xem mình có sơ hở gì không. Thì ra, hai vạt trước của chiếc áo trắng mà cô đang mặc bị đã bị kéo vếch lên từ bao giờ. Cô vội vàng kéo xuống, trong lúc tiếng cười của mấy gã trai láo lếu bật lên thành những tràng dài. Cô giáo đỏ mặt ngương ngùng, không nói gì được nữa. Cả lớp đã nhìn thấy cái bụng dưới tròn tròn của cô và miếng vá trên chiếc quần lụa đen rồi.

Sau lần ấy, có cảm giác các cô giáo trở nên rất cảnh giác với lớp của Hân. Bằng chứng, là không ai còn kiễng chân lên viết bảng. Các cô chỉ viết từ ngang tầm ngực của mình trở xuống, hết chỗ thì xóa đi rồi viết tiếp. Thỉnh thoảng, các cô lại kiểm tra và chỉnh đốn trang phục. Cũng không còn cô nào dại dột đứng ngay ngoài cửa, giữa luồng ánh sáng mặt trời. Thế là chẳng anh nào còn có thể “xem phim”, chữ mà cả lũ dùng để chỉ những lúc nhìn thấy bộ đùi khẳng khiu hay mập mạp của các cô hiện ra trong chiếc quần lụa mỏng khi bị ánh nắng chiếu xuyên qua. 

 

Không có nhiều chỗ để đi chơi, loanh quanh Văn Miếu – Quốc Tử giám rồi Bảo tàng Mĩ thuật mãi cũng chán, Hân tìm đến một thú vui giản dị và không mất tiền, là căn giờ nghe ca nhạc trên Đài Tiếng nói Việt Nam. Chuyện này thì dễ, vì trong sân trường có một cái loa truyền thanh công cộng to đùng. Chả làm phiền đến ai, phải mỗi tội không có quyền chọn lựa bài hát hoặc điều chỉnh âm lượng theo ý muốn. Nhưng như vậy cũng là tốt lắm rồi; và thật khó có thể đòi hỏi gì hơn được.

Hân thích nhất là hai chương trình Khắp nơi ca hát Ca nhạc theo yêu cầu thính giả, được phát sóng định kì. Những giọng hát Quốc Hương, Trần Khánh, Quang Hưng, Trần Thụ, Trung Kiên, Thanh Huyền, Diệu Thúy, Mĩ Bình, Hân Nhân, Bích Liên… rồi Huy Túc, Ngọc Bé…luôn luôn cuốn hút anh. Chỉ tiếc là chẳng bao giờ được xem họ biểu diễn và cái loa nhiều khi đầy những tiếng ù ù oạc oạc hoặc lúc to lúc nhỏ, đến là bực mình. Nhưng như vậy vẫn còn hơn tối tối đi xem ké truyền hình ở một nhà nào đó trong khu tập thể của trường.

Trước năm bảy nhăm, cả miền Bắc gần như còn chưa biết đến truyền hình. Từng có giai thoại, rằng vào cái năm bảy mươi hai khủng khiếp, khi những người lính Bắc Việt tiến vào Bình Long, Phước Long, Tây Ninh… không ai biết được tại sao ở trên nhiều nóc nhà dân lại lô nhô những cây cột với các nhánh bằng kim loại xòe ra như xương cá, dây dẫn lòng thòng. Không anh nào dám hỏi xem đó là cái gì vì sĩ diện. Mình là dân miền Bắc xã hội chủ nghĩa, chẳng lẽ lại kém bọn chúng nó à? Sau, có người dân địa phương mới hỏi, ngoài Bắc các chú có nhiều tizgi không? Tưởng đâu tizgi là cái gì đó như xe máy Honda ấy, nên có anh bộ đội ta mới trả lời một cách hùng hồn: “Thiếu gì, chạy đầy đường”!

Có câu trả lời như vậy, là bởi vì tuy rằng từ năm bảy mươi, người ta đã từng phát sóng thử nghiệm chương trình truyền hình đầu tiên ở Đài Tiếng nói Việt Nam, nhưng ứng dụng của nó thì còn chưa ai biết, trừ những người trong cuộc. Chiếc máy thu hình vẫn còn là một cái gì đó quá xa vời trong tâm thức của số đông, trừ các quan chức đến một cấp nào đó và những người may mắn được đi nước ngoài. Phải chờ đến sau giải phóng, cùng với quá trình “Miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng”, những chiếc ti vi đầu tiên, chủ yếu là của Nhật mới xuất hiện ở một số gia đình vào loại có máu mặt. Đúng vào lúc Truyền hình Việt Nam bắt đầu phát sóng đều đặn vào các buổi tối chỉ với một kênh duy nhất, tất nhiên là đen trắng.

Những chiếc máy thu hình ấy có một sức cuốn hút vô cùng lớn. Người ta không chỉ nghe mà còn được xem, cho dù hình ảnh có lúc chập chờn, méo mó do bị nhiễu sóng, ăng ten được đặt không đúng hướng hoặc do máy thu quá cũ. Nhưng cứ nhìn thấy những hình ảnh chuyển động không ngừng ngay trước mắt là thích rồi. Vì thế, sau bữa cơm tối là nhiều người đã rủ nhau sang nhà hàng xóm để xem truyền hình miễn phí, từ Những bông hoa nhỏ đến chương trình thời sự rồi ca nhạc hoặc phim. Khổ nỗi, nhà chật người đông, gia chủ nhiều khi phải méo mặt thu xếp chỗ ngồi cho những vị khách không mời. Trong phần lớn trường hợp, là lau sạch nền nhà cho mọi người ngồi đó, chứ làm gì có đủ ghế! Thế mà tất cả vẫn vui vẻ ngồi xem, lại còn vừa xem vừa bình luận. Điếc cả đầu. Chưa kể, có những người đến muộn không còn chỗ, cứ thế án ngữ ngay ngoài cửa sổ hau háu nhìn vào cái màn hình nhỏ xíu. Không còn cho một tí gió nào lùa được vào nhà mà trời thì nóng. Đã thế, có kẻ xấu tính lại còn cố tình xỏ nhầm vào những đôi dép còn mới của người khác để đi về khiến chủ nhà bị vạ lây, nhiều khi không biết nói gì.

Chậm hơn những chiếc ti vi một chút, xe máy Nhật cũng bắt đầu xuất hiện. Một phương tiện đi lại mới hoàn toàn về chất đã cho thấy tính ưu việt của nó so với những chiếc xe đạp sử dụng sức người. Câu thành ngữ thời hiện đại Vô tuyến vỡ nhà, Honđa vỡ đầu đã ra đời trong hoàn cảnh ấy; kì diệu thay sức sáng tạo của nhân dân! Những con người không chỉ tạo nên biết bao nhiêu chiến công hiển hách mà còn xây dựng cả một kho tàng vĩ đại các loại ca dao, tục ngữ, thành ngữ… cho tất cả soi vào và chiêm nghiệm, rút ra những bài học cho mình.

Nhưng ngay cả khi câu thành ngữ mới ấy đã trở nên quen thuộc, hẳn cũng không có ai dám nghĩ rằng nó lại mang tính dự báo đáng lo ngại và đau lòng đến thế: sẽ đến lúc mỗi ngày có tới hàng mấy chục người chết và bị thương vì tai nạn giao thông, chủ yếu do xe máy gây ra. Mỗi tháng, trên dưới một nghìn. Có năm lên đến đỉnh điểm hơn mười hai nghìn người chết. Hàng nghìn người khác trở thành tàn phế suốt đời. Đủ mọi lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp trên khắp các vùng miền, nhưng chủ yếu là thanh niên, những người vốn rất liều lại chẳng cần suy nghĩ trước sau gì hết. Tiếc, là nhiều khi họ không chết mà lại khiến cho người khác chết oan.

 

*

*          *

 

May mắn cho Hân, là sau hơn năm tháng ở cùng phòng với Kha và Ánh, anh được chuyển sang phòng khác cùng với Vượng. Kí túc xá còn nhiều chỗ trống và người ta thấy để bốn anh “Việt cộng” ở cùng một phòng cũng hơi bất tiện hay sao đó. Căn phòng mới này ở phía cuối hành lang, cùng diện tích với phòng cũ và theo danh sách, có cả một sinh viên người Li Băng. Nhưng từ lúc Hân dọn sang nhà mới cho đến tận khi kết thúc năm học, anh chỉ nhìn thấy cậu ta được đúng một lần. Đó là lúc anh chàng đẹp trai một cách dễ sợ, da trắng râu quai nón về lấy đồ rồi biến mất. Có điều, Hân vừa mới chuyển chỗ được vài hôm thì đã xảy ra một sự kiện bất ngờ.

Chiều ấy, Hân vừa mới đi học về thì Ira đã xuống tìm với vẻ mặt đầy lo âu căng thẳng. Anh còn chưa kịp hiểu đầu đuôi thế nào thì đã bị cô ngó trước nhìn sau rồi kéo ra một góc, thì thầm:

– May quá, gặp được anh đây rồi! Tôi hỏi, thì người ta bảo anh đã chuyển sang đây. Tìm mãi…

– Sao, có việc gì thế?

– Anh có rỗi không, thử lên xem Phương Linh thế nào… Nó có vẻ lạ lắm.

Hân ngạc nhiên:

– Lạ thế nào? Có chuyện gì xảy ra à?

– Tôi nghĩ… Hình như nó định tự tử!

Hân bỗng giật mình:

– Cô ấy nói với cô như thế à?

– Không… – Ira hơi lắc đầu. – Là tôi đoán thế. Nhưng tại vì tôi phải đi bây giờ, nên đành xuống tìm anh. Vì dù sao… tôi thấy anh có vẻ thân với nó, mà nó cũng quý anh. Anh có hiểu không?

Thôi được rồi, tôi lên ngay đây, – Hân gật đầu và thầm lo lắng mơ hồ. Chẳng lẽ mọi việc lại trở nên nghiêm trọng đến mức ấy hay sao? Một cô gái bị người yêu phản bội, đau khổ và thất vọng tìm đến cái chết. Ngay tại đây, trong kí túc xá này.

– Cám ơn anh nhiều! – Ira nói rồi quay đi với những bước dài.

Phương Linh đã lầm khi đoán cô bạn cùng phòng sẽ biến mất ít nhất cũng trong vòng vài ba ngày, Hân thầm nghĩ. Nhưng cái gì đã khiến cô gái Nga phá lệ của mình như thế? Hay là cũng lại chia tay nhau rồi?

Hân trở vào trong phòng, khoác thêm chiếc áo rồi theo cầu thang bộ lên tầng mười sáu vì anh biết giờ này, chờ thang máy sẽ rất lâu. Anh cũng rút kinh nghiệm hôm trước, không bấm chuông mà giơ tay gõ cửa.

– Vâng! Mời vào!

Nghe giọng của Phương Linh vọng ra, Hân thấy nhẹ cả người. Anh khẽ xoay tay vặn trên cánh cửa rồi bước vào phòng, trong lúc trái tim bỗng nhói lên một cái.

Tựa lưng vào khung cửa, nơi ô kính đã được mở toang, Phương Linh ngồi đó, hai tay bó gối. Cô đang quay mặt nhìn xuống dưới đường với mái tóc rối bù.

Không được làm cho cô ấy giật mình! Hân tự nhủ và nhẹ nhàng bước tới, ôm lấy Phương Linh rồi bế cái thân hình nhẹ bẫng ấy đặt xuống giường. Sau đó, anh mới thở phào, đóng cửa kính rồi kéo rèm che kín lại.

– Sao em dại thế? – Hân ngồi xuống bên bàn và hỏi.

Phương Linh ủ rũ cúi đầu, không nói. Đến lúc này, Hân mới nhận thấy trên mặt chiếc tủ con cạnh đầu giường có một đĩa thức ăn gồm mấy lát bánh mì, pho mát đã khô queo và cốc nước chè đen nổi váng.

– Anh… nghĩ là em sẽ nhảy xuống à? – Mãi rồi cô gái cũng ngẩng lên, hỏi.

– Không. – Hân khẽ lắc đầu. – Nhưng em ngồi thế, nguy hiểm lắm. Nhỡ chẳng may có cơn gió mạnh hoặc em bị chóng mặt rơi xuống thì sao?

Phương Linh im lặng. Còn Hân thì đúng là không tin cô sẽ dại dột nhảy xuống đường hay làm điều gì tương tự. Bởi vì nếu thật sự muốn tự tử, cô đã có thừa thời gian để làm việc đó. Rất may, anh đã không làm cho Linh kinh động. Ai mà có thể hình dung được cái gì sẽ xảy ra nếu đúng vào lúc Hân xuất hiện, Phương Linh lại buông tay, gieo mình xuống dưới kia. Sự ngăn cản nhiều khi lại biến thành lực đẩy cho người ta hành động. Và… thế là xong! Từ tầng mười sáu xuống dưới đường nào có ít ỏi gì. Cho dù chiều cao của mỗi căn phòng chỉ chừng hai mét rưỡi, thì như vậy tổng cộng cũng đã là bốn mươi, bốn mươi mốt mét rồi! Không ai có thể sống được sau khi rơi từ độ cao như thế. Nhưng cũng lạ ở chỗ, bề dày của tường nhà chỉ chưa đầy một gang tay lại còn khung cửa nhô lên, tại sao Phương Linh có thể ngồi ở đó lâu đến thế! Chỉ cần cô sơ sẩy một tí trong khi tìm cách thay đổi tư thế cũng có thể biến thành tai họa chết người.

Không biết nói gì nữa, Hân đành im lặng và lúc này anh mới có dịp nhìn Phương Linh kĩ hơn. Dưới ánh đèn vàng, mặt mũi cô vẫn xanh xao đến thảm hại với hai mắt thâm quầng và mi mắt sưng vù do khóc quá nhiều. Mái tóc thì xơ xác, rối bù, điều mà Hân chưa từng thấy ở Phương Linh.

– Em… chỉ muốn ngồi chơi một lát vậy thôi mà… – Cuối cùng cô gái cũng lên tiếng bằng cái giọng khê nồng.

– Không ai lại ngồi chơi như thế! – Hân nhẹ nhàng bẻ lại. – Em đã hiểu chưa?

– Hiểu rồi… – Phương Linh nhếch mép cười thiểu não.

Như chợt nhớ ra, Hân khẽ hất hàm về phía đĩa thức ăn và cốc nước:

– Sao em không ăn đi?

– Em không đói.

– Không đói cũng phải ăn đi chứ! Em lạ thật! – Hân khẽ càu nhàu. – Không thì lấy đâu ra sức mà học với hành?

– Em chẳng muốn học với hành gì nữa, – Phương Linh nhấm nhẳn. – Em bỏ học đến cả tuần nay rồi.

– Thế thì không được rồi! – Hân ngao ngán lắc đầu. – Dù thế nào, em cũng vẫn phải sống, phải học hành cho tử tế chứ!

– Anh… có yêu ai bao giờ đâu mà nói… – Phương Linh cãi, làm cho Hân phải ngạc nhiên, hơi ngớ người ra một lát.

– Đúng là anh chưa yêu ai thật, – Hân khẽ gật đầu xác nhận. – Nhưng không phải vì thế mà anh không biết. Cũng như không ai trong chúng ta phải thò tay vào lửa mới biết là lửa nóng, hoặc lấy đá đập vào chân mình mới biết đau… Có đúng không?

Hân còn muốn nói với Linh, rằng mất tình yêu không phải là mất tất cả; chia tay Cường, có thể cô gặp người còn tốt hơn và rõ ràng, sự phản bội của Cường là điều không ai có thể chấp nhận được. Nhưng không nên vì thế mà tự làm khổ mình. Chẳng việc gì phải bỏ ăn bỏ uống, giam hãm mình trong bốn bức tường. Phải ra ngoài, đi đây đi đó cho khuây khỏa chứ. Tự giày vò mình thế này có được gì đâu… Nghĩ vậy, nhưng Hân không nói ra vì anh biết, có nói thì cô cũng chẳng thèm nghe cho nào.

Đứng ở góc độ một người đàn ông, Hân vẫn không hiểu tại sao một thanh niên mới hai mươi, hai mươi mốt tuổi như Cường lại có thể cùng một lúc nói lời yêu với ba cô gái, bằng cả ngôn ngữ mẹ đẻ và tiếng Nga, thứ tiếng mà cậu ta mới làm quen chưa được bao lâu. Hơn nữa, Cường làm sao có đủ thời gian (và cả sức lực nữa!) để hết chung chạ với cô này lại sang cô khác. Quả thật, trước đây mỗi khi nhìn thấy Cường khoác vai hoặc ôm eo Linh đi dọc hành lang, Hân đều không khỏi mường tượng ra cảnh hai người quấn quýt lấy nhau. Nhưng bây giờ… Thật là buồn!

Trong suốt một thời gian dài ở Việt Nam, trai gái muốn thoải mái một chút thôi cũng khó. Việc tìm hiểu nhau phải báo cáo tổ chức. Nam nữ không được ngồi trong phòng đóng kín cửa nếu chỉ có hai người. Lại còn bao nhiêu cặp mắt luôn luôn rình mò, soi mói từ nhà riêng đến cơ quan, rạp chiếu bóng, vườn hoa… Mà tất cả đều chỉ do những quan niệm hẹp hòi suốt từ trên xuống dưới. Chả thế mà khi biết được ai đang léng phéng với nhau, người ta thường kỉ luật họ rất nặng. Không thiếu cán bộ phạm tội hủ hóa bị hạ tầng công tác (tức là cách chức) và khai trừ Đảng. Ở nông thôn, người ta còn gần như gọt gáy bôi vôi chị em nào dám ngoại tình… Có lẽ vì thế nên khi ra đến nước ngoài, nhiều người đã bùng nổ yêu đương, như thể tận dụng thời cơ có một không hai vậy!

Tuy nhiên, Hân vẫn không hiểu nổi, tại sao Thanh Hằng lại dễ dàng đến thế với Cường. Cô học cùng khóa với cậu ta và Phương Linh ở Ngoại ngữ Thanh Xuân cho dù khác lớp. Không thể tin được là Thanh Hằng lại không biết gì về tình yêu giữa hai người. Còn như đối với Ôlja thì đã đành một nhẽ.

 

Sáng chủ nhật, Hân định cho phép mình dậy muộn vì đêm, anh bị mấy con rệp đốt rất đau. Không tưởng tượng được, đây là lần đầu tiên trong đời, anh biết thế nào là rệp. Chúng rất khôn, cắn xong một phát là ù té biến ngay vào dưới khe gỗ lát sàn. Không thể gọi người của ban quản lí kí túc xá vào lúc này, cũng chẳng có cách gì hơn, Hân tức tối rình bắt lũ rệp cho bằng được. Lục sục mãi, cuối cùng anh cũng tóm được một tên no kềnh no càng, to như hạt đậu xanh. Hừ, rệp của Liên Xô có khác! Hân nghiến răng, dùng móng ngón tay cái siết mạnh xuống sàn. Bép một tiếng, con vật khủng khiếp đã bị nghiền nát, máu vọt ra. Hân tiếp tục ngồi chồm hỗm, tự biến mình thành mồi nhử lũ rệp và bắt được thêm ba con nữa. Anh xử lí chúng cũng y như đối với con thứ nhất rồi sau đó một lúc lâu, không thấy có thêm gì nữa, Hân mới tạm yên tâm lên giường đi ngủ.

Đang lúc mơ mơ màng màng thì Hân bị đánh thức bởi tiếng gõ cửa hơi dè dặt. Ai thế nhỉ? Anh nhăn nhó nhìn đồng hồ báo thức: mới có tám giờ mười lăm phút. Hân đã vùi đầu vào gối, định ngủ tiếp thì tiếng gõ cửa lại vang lên lần nữa. Không biết làm thế nào, anh đành phải miễn cưỡng ngồi dậy, xỏ dép rồi cáu kỉnh bước ra. Phương Linh! Hân vội vàng xin lỗi rồi quay vào đánh răng rửa mặt và mặc quần áo dài. Thì ra, cô xuống rủ anh đi mua cái gì đó về nấu ăn, vì đã lâu không được ăn cơm Việt. “Không hiểu sao, tháng này tiền của em bị dư ra”… Phương Linh giải thích. Không tiện từ chối một đề nghị bất ngờ, mặt khác, việc nấu nướng đối với Hân cũng chẳng có gì là khó nên anh đành phải làm ra vẻ sốt sắng tán thành.     

Sau một đêm có lẽ là ngủ được, lại do biết cách trang điểm nên Phương Linh đã có vẻ khá hơn một chút, mặc dù cái quầng thâm xung quanh mắt vẫn chưa mất hẳn. Cô nói chuyện líu lo, cười rất vô tư cứ như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Hân biết, Phương Linh đang phải gồng mình lên, cố làm ra vẻ tự nhiên. Nhưng dù sao, anh cũng lấy làm mừng vì cô không còn như hôm qua nữa. Hân khoác thêm chiếc măng tô, đội mũ lông rồi cùng với Phương Linh đi xuống dưới đường.

Cuối tháng Hai, tuyết vẫn rơi nhè nhẹ nhưng trời ấm. Những bông tuyết trắng nõn và rất xốp phủ đầy đường phố, cành cây. Nhưng chỉ chừng dăm bữa nửa tháng nữa thôi, băng tuyết bắt đầu tan và những bụi tử đinh hương bên kí túc xá sẽ đâm chồi nảy lộc. Sau đó, những bông hoa màu tím nhạt sẽ tràn ra khắp các ngả đường. Hân nghe người ta nói thế và anh cũng có ý ngóng chờ xem mùa xuân Mátxcơva đẹp đến chừng nào, vì lúc anh đến đây thì đã sắp sang thu.

Ở cửa hàng, Hân và Linh chọn mua một con gà đông lạnh nhập từ Bungari, ít thịt bò, một túi khoai tây và mấy quả cà chua. Cô gái tranh lấy việc trả tiền nhưng Hân không chịu. Anh nhanh chân bước về phía bà thu ngân, đặt vào cái đĩa nhựa trước mặt bà ta tờ giấy bạc mười rúp, chờ lấy lại tiền thừa rồi cùng Phương Linh xách túi ra khỏi cửa. Ngang qua bến tàu điện, nơi một thân cây cụt chơ vơ đứng đó, Hân bỗng bật cười thành tiếng:

– Đây, Linh này! Người chết cóng của em đây!

– Ủa, thật đây hả anh? – Linh có vẻ ngạc nhiên nhìn cái cây rồi lại ngước nhìn lên tòa nhà kí túc xá, thử xác định xem phòng cô ở chỗ nào.

– Chắc chắn là như thế mà! – Hân khẳng định khi thấy Phương Linh còn chưa tin hẳn.

– Trời, ai mà biết được như thế này… – Phương Linh khẽ kêu lên rồi cũng mỉm cười, không tỏ thái độ gì rõ rệt.

Hân nói thế, vì vừa mới khuya hôm trước, khi anh ghé qua chỗ Linh xem tình hình thế nào thì thấy cô đang đứng bên cửa sổ, vén rèm nhìn xuống phố phường. Trong bóng đêm mờ nhạt hoe vàng dưới những ngọn đèn chiếu sáng, thỉnh thoảng lại có một chiếc tàu điện chạy qua. Ở ngay gần bến đỗ, có một bóng đen to lớn trơ trọi, đứng đó từ bao giờ không biết, bất chấp cả tuyết rơi và gió. Hân không biết đó là cái gì còn Linh thì quả quyết, chắc chắn là hai người đang ôm nhau và có khi họ đã chết cóng rồi.

Không nghĩ đó là một cây khô, vì không thấy một cái cành nào cả, nhưng Hân vẫn cãi vì nếu là người, chẳng ai lại có thể đứng lâu đến thế ngoài trời tuyết. Hơn nữa, đã mầy chuyến tàu điện chạy qua rồi. Linh thì lại cho đó là chuyện thường, và “Bọn Tây chúng nó có để ý gì đến những người khác đâu, đường phố lại vắng vẻ thế này”… Ira vẫn chưa về, nên chẳng có ai thêm vào để mà tranh cãi. Sau cùng, Hân phải phì cười chịu thua trước lí lẽ ngang phè phè ấy của Phương Linh. Còn bây giờ, anh mới biết cô cũng chẳng nhớ gì đến điều mình đã nói.

Hai người về đến chỗ của Hân, hơi lạ khi thấy cánh cửa chỉ khép hờ mặc dù lúc đi, anh đã khóa lại cẩn thận vì tối qua Vượng đi vắng. Hân vội bước vào và thấy ngay chiếc túi to đùng trên giường của Vượng như một tín hiệu cho biết cậu ta đã về, nhưng lúc này không có mặt trong phòng. Ngạc nhiên hơn là khuất vào phía trong, Cường đang ngồi trên chiếc giường trống của anh bạn Li Băng, chân đặt dưới sàn.

– A, Cường đấy à, đến lâu chưa? – Hân hỏi, thay cho lời chào vừa lúc Cường cũng đứng dậy, rất tự nhiên:

– Em vừa mới đến… Chào Phương Linh!

– Chào! Hôm nay lại đến đây chơi kia à?

Hân quay lại, đỡ lấy túi thức ăn từ tay Phương Linh và thấy cô hơi luống cuống với nụ cười gượng gạo, mặt mũi đỏ bừng.

– Đến chứ! Có gì đâu mà… – Cường vẫn tỏ ra rất thản nhiên. – Hai anh em đi mua gì về sớm thế?

– À, có gì đâu, Phương Linh rủ anh đi mua mấy thứ về nấu ăn vì lâu rồi, không ăn cơm Việt Nam nên xót ruột… Lại còn đang sợ thừa tiền ra nữa.

Hân mau mắn đáp và đúng vào khoảnh khắc ấy, anh chợt hiểu ra rằng còn rất lâu, Phương Linh mới có thể quên được chàng trai Hà Nội này. Chao ôi, yêu là phải khổ đến thế ư? Lấy cớ đi nấu cơm, Hân liền đem các thứ ra gian bếp công cộng để Phương Linh và Cường ngồi lại với nhau ở trong phòng.

Khoảng hơn một tiếng đồng hồ sau, khi mọi thứ đã xong xuôi, Hân bưng mâm lên thì thấy Cường và Phương Linh đang ngồi đối diện bên bàn, vẻ mặt cả hai đều có cái gì đó không được tự nhiên cho lắm. Nhưng thôi, thế cũng đã là tốt lắm rồi! Hân thầm nghĩ đúng vào lúc Phương Linh giả đò reo lên mừng rỡ:

– Trời, gì mà ngon dữ vậy ta? Anh Hân à, anh đúng là một thiên tài!

Chẳng biết thiên tài có phải vào bếp nấu cơm không? Nếu có, thì họ nấu thế nào? Dù sao, Hân cũng đã làm tất cả những gì có thể để cho ra được ba món, có lẽ là mơ ước của rất nhiều người trong nước lúc này: thịt gà luộc, khoai tây hầm xương bò và thịt bò xào bắp cải điểm mấy nhánh cần tây. Phương Linh mở vung nồi cơm xem thử rồi nhảy cẫng lên, vỗ tay bôm bốp:

– Lại còn cả cơm nấu bằng nước luộc gà! Hết ý! Nhưng mà… anh có rượu không hả anh Hân?

Cả hai người đàn ông đều hơi bị bất ngờ trước câu hỏi ấy. Nhưng Hân chỉ mỉm cười một cách hiền lành:

– Có. Nhưng mà xukhôie vinô[72] có được không?

– Tuyệt vời! – Phương Linh lại reo lên lần nữa. – Nào, Cường đâu!

Rượu đã được rót ra mấy cái cốc thủy tinh to tướng và dày cộp vẫn dùng để uống nước chè. Ba người cụng li và Hân cầm đôi đũa lên, giải thích:

– Bọn em biết không, món cơm nấu bằng nước luộc gà này là anh học được từ tiểu thuyết Vùng trời của Hữu Mai đấy!

– Anh Hân giỏi thật! – Cường lên tiếng. – Đúng là mọi thứ đều rất ngon. Ở nhà, mẹ em nấu chưa chắc đã được như thế này.

– Thôi đi cha! – Phương Linh hơi bĩu môi. – Chỉ được cái xạo là không ai bằng!

– Em ăn đi này!

Hân gắp miếng đùi gà, bỏ vào vào bát của Phương Linh. Đúng là anh nấu cơm bằng nước luộc gà theo lời của một nhân vật trong Vùng trời, mặc dù không biết họ nấu như thế nào vì tiểu thuyết không nói rõ. Đơn giản, chỉ là do một lần không biết làm gì cho hết nước luộc gà, chợt nhớ đến lời anh phi công trong tiểu thuyết kia, Hân liền nấu thử và thành công mĩ mãn. Gạo nhập khẩu từ đâu chẳng biết, nhưng người ta đóng trong mỗi túi giấy chỉ vừa đúng một ki lô gam, bán với giá tám mươi tám côpếch. Thứ gạo trắng tinh, hạt nhỏ và dài, cho ra những bát cơm vừa thơm vừa dẻo. Đến khi nấu bằng nước luộc gà, cơm lại càng ngon hơn vì nó vừa có vị béo lại thêm cảm giác đậm đà của nước dùng. Hân cũng đã từng có lần mời cặp đôi này ăn thử nên Phương Linh vẫn nhớ và chỉ cần mở vung nồi, cô đã nhận ra ngay thứ cơm đặc biệt.

Linh đã uống hết cốc rượu thứ nhất, trong khi cả Hân và Cường chỉ mới chạm môi. Cô khà một tiếng rồi rót tiếp cho mình cốc thứ hai:

– Trời, rượu gì mà ngon dữ vậy ta… Anh Hân này, anh đúng là số một!

Hân chưa kịp phản ứng gì trước hành động của Phương Linh thì Cường đã nhìn sang, nhắc: 

– Linh, thôi đừng uống nữa đi, kẻo lại say bây giờ!

Phương Linh làm như không nghe thấy, lại nâng cốc lên cụng thêm lần nữa:

– Chúc sức khỏe!

Cô gái ngửa cổ, chậm rãi uống liền một mạch. Cường nhoài người qua bàn định ngăn lại, nhưng Linh đã né sang một bên và tiếp tục uống cho đến hết. Xong, cô dằn mạnh cái cốc xuống bàn đánh cạch một tiếng:

– Ông đừng có mà tìm cách phá tui! Ha ha ha…

Giọng nói của Linh nghe đã hơi nhừa nhựa, và thái độ cô có vẻ bất thường. Hân cầm lấy cái cốc của cô, dẹp sang phía bên anh rồi bảo:

– Thôi, em đừng uống nữa, kẻo lại say bây giờ. Em ăn đi!

– Say là say thế nào! – Phương Linh cãi, nhưng lưỡi đã hơi líu lại. Cô cầm lấy miếng đùi gà trong bát, gặm và nhai bỏm bẻm như kiểu các bà lão nhai trầu. – Còn lâu em mới say được nhé! Anh cứ hỏi Cường mà xem…

Không ai biết được tại sao đúng vào lúc ấy, Vượng lại từ đâu đó quay về. Cậu ta mở cửa, nhưng thấy mọi người đang ăn uống nên lại lui trở ra. Còn ba người trong phòng cũng chẳng ai để ý gì đến điều đó. Hân lặng lẽ uống nốt cốc rượu của mình rồi bắt đầu cầm đũa, định ăn cơm. Nhưng thật bất ngờ, Phương Linh gục đầu đánh cộp một cái xuống bàn. Và trước sự hoảng hốt của hai gã đàn ông chưa biết xử lí thế nào, cô đã hộc lên một tiếng rồi nôn hết ra nhà.

Chẳng còn tâm trí đâu để mà ăn tiếp, Hân bèn đi ra ngoài. Ngẫm nghĩ thế nào, anh lại lấy chìa khóa, khóa luôn cửa lại vì sợ có ai đó vào thì thật bất tiện. Một số người Việt Nam ở đây vẫn chưa quen với việc bấm chuông hay gõ cửa mà! Như cái thằng Ánh ấy. Thôi cứ để cho Cường xoay xở với Phương Linh, mình thử đi xuống dưới nhà xem may ra có lá thư nào từ Việt Nam không. Hay quá! Cùng một lúc, Hân nhận được liền hai lá. Một, của ông Hương. Hai, của người bạn thân từ thời ở chiến trường. Hân nghiến ngấu đọc xong cả hai lá thư rồi mới bấm thang máy đi lên. Nhưng niềm vui nho nhỏ của anh bỗng nhiên tắt ngấm vì tiếng gào thét rất to của Vượng:

– Anh Hân! Mở cửa ra! – Cậu ta điên cuồng bấm chuông rồi lại nắm tay đấm thình thình lên cánh cửa:

– Mở cửa ra! Anh Hân, anh không được làm thế đâu!

Khoảng cách giữa Vượng và Hân lúc này có lẽ vẫn còn phải tới vài ba chục mét, nhưng anh thấy không việc gì phải vội. Thử xem cái thằng Đông Gioăng này định làm gì. Hân chậm rãi bước đến sát bên Vượng rồi mới hỏi:

– Vượng đấy à? Chìa khóa của em đâu?

– Ơ… – Gã trai quay lại, miệng há hốc, mắt trợn tròn không nói được câu nào.

– Em cũng có chìa khóa cơ mà? – Hân hỏi lại thêm lần nữa rồi mới tra chìa khóa của anh vào ổ khóa. – Sao em không lấy chìa của em mà mở?

– Em… hình như em để quên ở trong phòng.

Vượng nói rồi bất chấp cả phép lịch sự tối thiểu, xộc thẳng ngay vào như để tận mắt xem mọi việc thế nào mà không biết rằng Hân vừa ném về phía cậu ta một cái nhìn khinh bỉ. “Bố mày đây không đến nỗi khốn nạn như mày đâu, con ơi”! – Hân chợt rùng mình kinh tởm cho gã tay chơi vừa xúc phạm một cách nặng nề đến anh, qua hành vi của nó.

Thấy Phương Linh nằm thiêm thiếp trên chiếc giường trống của anh bạn Li Băng với Cường đang ngồi bên cạnh, Vượng hơi sững lại tẽn tò và khẽ làu bàu gì đó. Cậu ta nhấc chiếc túi của mình lên, tìm chìa khóa nhưng không thấy. Loay hoay một lúc chán rồi Vượng mới thọc tay vào túi chiếc quần bò đang mặc và… lấy ra chiếc chìa khóa cửa. Hơi sượng sùng với chính mình, cậu ta khoác túi lên vai. Bấy giờ Hân mới khẽ nói, chỉ đủ cho gã Đông Gioăng nghe thấy:

– Phương Linh bị say rượu. Anh phải khóa cửa lại vì sợ nhỡ chẳng may có ai vào, trông thấy thì chết.

– Thế mà em không biết. – Vượng đáp thay cho lời xin lỗi rồi cắm đầu đi thẳng.

Hân lặng lẽ quay vào, đứng đối diện với Cường. Anh xót xa nhìn Phương Linh đang nằm im như chết, mắt nhắm nghiền với một cái bướu nhỏ vừa mọc lên trên trán. Mái tóc của cô xõa ra, ôm lấy gương mặt xám sì, lấm tấm mồ hôi.

– Sao em không mở cửa cho thằng Vượng, để nó làm ầm lên như thế. Anh vừa mới đi đến đầu hành lang đã nghe thấy tiếng nó rồi…

– Cho nó vào làm gì, anh! – Cường chỉ hơi ngước nhìn lên và khẽ đáp.

– Ờ, nhưng mà để nó gào lên như thế cũng không hay. Có ai nghe thấy thì bất tiện, vì người ta sẽ hiểu lầm… – Hân nói, rồi bắt đầu thu dọn đống bát đũa ở trên bàn.

Việc Phương Linh say rượu nằm bẹp ở chỗ Hân, may quá không ai biết. Nhưng râm ran khắp đơn vị là chuyện sáng chủ nhật, hai ông bà ấy rủ nhau đi đâu từ sớm lắm. Có người còn khẳng định, Hân yêu Phương Linh và vì anh nhảy vào nên cô mới chia tay Cường, chứ không thì còn lâu! Lẽ tất nhiên, Hân không biết gì đến những lời đồn đại ấy, mà chỉ thấy Ánh và Hiền nhìn anh đầy vẻ khinh khỉnh, coi thường. Có lẽ một trong hai đứa này dậy sớm, nhìn xuống đường thấy Hân cùng với Phương Linh đi mua thức ăn và thế là thành chuyện.

 

*

*          *

 

Đường đến nơi làm việc của Phương Linh hóa ra cũng chẳng xa xôi gì. Đó là một ngôi nhà bề thế, có vẻ hơi nặng nề, xây theo kiểu Pháp. Hân lấy cớ giao bài tập trên lớp cho học viên, rồi cho dù không muốn ngồi sau một tấm lưng đẫm mồ hôi, anh vẫn đành phải bắt xe ôm để tới đây. Qua những bậc cấp, một cái sảnh rộng kê mấy chiếc ghế dài, Hân bước về phía cô nhân viên thường trực đang ló mặt lên sau cái quầy tiếp Hân bằng gỗ. Có lẽ do mới gần hai giờ chiều nên không khí hoàn toàn vắng lặng.

– Chào cô, – Hân cố gắng nở một nụ cười thân thiện. – Cô làm ơn cho tôi gặp chị Phương Linh.

– Dạ, anh có hẹn trước không ạ?

– Có. – Hân gật đầu khẳng định. – Cô làm ơn nói giúp, tôi tên là Hân mới ở ngoài Hà Nội vào công tác.

– Hâm ấy ạ? – Cô nhân viên thường trực, chẳng biết tại sao lại nghe nhầm ra như thế nhưng dù sao cũng thoáng chút nghi ngờ nên hỏi lại. – Anh…

– Vâng, đúng rồi! Hâm. – Hân suýt nữa thì phì cười. Hóa ra cái giọng Bắc của mình cũng đâu có dễ nghe với những người ở trong này.

– Dạ, anh ngồi chờ chút. Chị Phương Linh đang ở trên lầu.

Cô gái bấm số máy nội bộ rồi gọi cho Phương Linh. Hân giữ ý, lảng ra chỗ khác. Nhưng thay vì ngồi chờ, anh lặng lẽ đi đi lại lại, ngắm nhìn những bức tranh trang trí trên tường. Khá là lòe loẹt, nhưng không lấy gì làm đẹp.

Cũng phải mất một lúc khá lâu mới có tiếng giày cao gót từ trên cầu thang đi xuống. Hân thấy không cần phải quay lại ngay, vì đâu đã biết là ai. Thì đây, những bước chân chậm lại rồi dừng hẳn bên anh cùng với một tiếng gọi khẽ:

– Anh Hân!

Hân xoay người lại, bắt gặp ngay nụ cười vui vẻ và hơi giễu cợt của Phương Linh.

– Trời, thế mà con nhỏ nó nói, anh Hâm… Anh biến thành Hâm từ khi nào vậy? 

– Vừa mới đây thôi. Thì đúng là anh hâm thật mà! – Hân cũng cười xòa.

Bất ngờ, người đàn bà bé nhỏ ấy kiễng chân, lật ngay chiếc mũ phớt Liên Xô cũ nát của Hân ra và mỉm cười thêm lần nữa. Đúng là một hành động rất… Phương Linh. Cô ấy muốn thử xem mình đã hói đến thế nào! Hân cũng mỉm cười theo mà không hiểu tại sao đàn ông đứng tuổi lại thường hay bị hói.

– Trông anh có vẻ khỏe ghê! – Phương Linh nhận xét.

– Thì… em cũng vậy mà! Khác hẳn với thời còn đi học.

Hai người bắt tay nhau và thoáng một cái, Hân đã nhận ra chị có những thay đổi như thế nào về mặt ngoại hình. Mập ra nhiều, mặt cũng hơi già đi và đôi mắt không còn sáng long lanh nữa. Phương Linh mặc chiếc áo phông màu hồng (lại màu hồng!), chân váy đen và đôi giày cũng màu đen, để lộ hai bắp chân tròn lẳn. Nhưng ấn tượng nhất đối với Hân là sợi dây chuyền bằng kim loại trắng đeo trên cổ Phương Linh. Có lẽ là bạch kim với một hạt xoàn cỡ bằng đầu đũa, hình giọt lệ. Giọt lệ ấy dường như chỉ chực rơi xuống khe ngực khá sâu lộ ra qua cổ áo phông. Bao nhiêu đây nhỉ? Ba mươi, năm mươi hay một trăm triệu đồng?[73] Hân thầm ước lượng giá của viên kim cương ấy. Riêng bộ ngực của Linh, anh không biết đó là kết quả của một cuộc giải phẫu thẩm mĩ hay thế nào, nhưng rõ ràng đôi hông của chị rộng hẳn ra và toàn bộ dáng dấp, con người Phương Linh cho thấy đây là một phụ nữ tự tin và thành đạt.

– Anh em mình đi uống nước đi! – Phương Linh nói và nhẹ nhàng khoác tay Hân một cách tự nhiên.

Hai người đi xuống tầng hầm của ngôi nhà, nơi có một quán cà phê giải khát hẳn là ở dạng cho thuê dịch vụ như vẫn thường thấy ở nhiều cơ quan nhà nước. Linh gọi một li nước cam, còn Hân một líp tông nóng, chanh đường. Trong khi chờ đợi, chị mở chiếc xắc nhỏ, lấy bao thuốc Moore dài nguêu loại dành cho phụ nữ, rút ra một điếu rồi châm lửa hút. “Anh ấy vẫn không hút thuốc”, Phương Linh thầm nghĩ trước cái lắc đầu của Hân khi chị chìa bao thuốc cho anh.

– Anh có hay vào trong này công tác không? Đây là chuyến thứ mấy rồi?

“A, lại còn định kiểm tra nhau nữa đây”! Nhưng mọi chuyện cũng đơn giản thôi, có gì đâu. Hân đáp:

– Đây là chuyến thứ ba trong vòng hai năm. Thì anh chỉ vào dạy các lớp tại chức ấy mà. Mấy lần trước, anh cũng đã định đến thăm em nhưng rồi lại ngại…

Phương Linh tin vào lời Hân nói. Anh vẫn ăn mặc xuềnh xoàng, có vẻ như được chăng hay chớ và chưa xài điện thoại di động. Phương Linh không biết, thỉnh thoảng anh vẫn hỏi thăm qua người này người khác, biết chị vẫn khỏe, có công việc ổn định và một gia đình hạnh phúc. Điều mà có lẽ chẳng ai mong mỏi gì hơn. Hiềm nỗi, những lần trước vào đây công tác, Hân ở mãi tận bên Thủ Đức và thời gian lại ngắn hơn. Đó là chưa kể, anh không muốn khuấy động cuộc sống của một người bạn cũ. Ừ thì đã có lúc Phương Linh tỏ ra thân thiết với anh. Nhưng dù sao cũng đã qua mấy chục năm rồi!

– Anh thấy em thay đổi có nhiều không? – Phương Linh hỏi, mắt nheo nheo lại vì khói thuốc.

– Vẫn thế, tuy hơi mập ra nhưng càng có vẻ dễ thương và… tóc thì đen nhánh. Còn anh thì đã trở thành một ông già tóc bạc rồi.

“Anh ấy chưa bao giờ khen mình xinh đẹp hay dễ thương từ hồi nào tới giờ”. Phương Linh hơi mỉm cười vì câu nói của Hân. Hừm, cũng còn biết nịnh đầm kia đấy! Chị nhăn trán, cố nhại lại cách phát âm của người miền Bắc:

– Chưa! Tóc anh, nói như thế nào nhỉ… Mới “hoa dâm”. Tóc em nhuộm đấy, chứ cũng bạc nhiều lắm rồi, nhất là ở phía sau này này!

Phương Linh đưa tay vén mớ tóc sau gáy lên cho Hân xem, nhưng anh chẳng thấy gì ngoài cái gáy phẳng phiu của chị. Bốn mươi bảy rồi còn gì. Mùa thu của người phụ nữ. Phần lớn, tóc đã trở nên khô xác. Đuôi mắt đã hằn lên những nếp nhăn. Sức khỏe bắt đầu có vấn đề. Không ai cưỡng lại được, cùng lắm cũng chỉ che giấu được phần nào, như nhuộm đen cho mái tóc hoa râm, dặm thêm phấn vào đuôi mắt… Cứ như một sự gắng gỏi nhằm níu kéo một thời quá vãng.

Họ bắt đầu nhắc lại một vài chuyện cũ, hỏi thăm tình hình công việc của nhau cũng như những người mà cả hai cùng quen biết trước kia. Phương Linh kể, hằng ngày chị đi làm bằng ô tô của gia đình có thuê người lái hoặc tắc xi. Người như thế này, làm sao mà đi xe máy, cái phương tiện quá ư là phổ biến nhưng cũng đầy những nguy cơ xảy ra tai nạn. Cũng không ôm được vô lăng. Đứa con trai duy nhất của Phương Linh đang học lớp chín, nhưng vẫn có người đưa đón hằng ngày. Còn ông xã làm phó tổng giám đốc một cơ quan thương mại, thời gian sống ở nước ngoài nhiều hơn trong nước. Chị rất bận rộn nên mọi thứ trong nhà đều phải phó thác hết cho người giúp việc.

Cũng theo lời Phương Linh thì sau khi tốt nghiệp về nước, chị được phân công về ngay cơ quan này. Đến một lúc nào đó, cần quy hoạch cán bộ, người ta bèn yêu cầu chị vào Đảng. Thì vào! Nào có mất gì đâu! Phương Linh vẫn là Phương Linh như trước, không một chút đổi thay gì hết. Khác mỗi cái danh hiệu đảng viên; nhờ có nó mà chị được đưa lên làm phó phòng rồi trưởng phòng. Nhưng phó giám đốc hay giám đốc thì chắc là không thể, vì cái ghế ấy đã được nhắm cho người khác. Phương Linh, như một người am hiểu luật chơi, vui lòng chấp nhận, không có ý kiến ý cò gì hết.

Điều làm cho Hân hơi ngạc nhiên là cho đến bây giờ, Phương Linh vẫn duy trì mối liên hệ với Cường và cả Quân, người chồng đầu tiên của chị. Thỉnh thoảng họ lại còn gặp nhau. Đó là chưa kể đến Giáo sư Tiến sĩ khoa học Phạm Hồng Quang, mặc dù những người này đều sống ở Hà Nội. Lí do, là họ rất hay vào Nam công tác và mỗi khi có cơ hội, lại thông báo cho Phương Linh biết. Nếu thu xếp được thời gian, lại gặp gỡ, ăn uống rồi rủ nhau đi nghe hòa nhạc, xem phim hay kịch.

 

*

*          *

 

Tháng Tư, rồi tháng Năm nhanh chóng trôi qua. Có lẽ do bận học hành, thi cử nên Phương Linh chẳng mấy khi xuống chỗ Hân chơi nữa. Anh thì ngại lên chỗ cô vì sợ những lời đồn đại không hay. Miệng tiếng người đời mà lại! Hân biết, ở đâu có hai người Việt Nam trở lên, ở đó có chen chúc và lộn xộn. Và ở đâu có hai cô gái Việt Nam, chắc chắn sẽ có việc nói xấu người thứ ba. Không biết thì cứ việc bịa ra và nói y như thật, không cần lo hậu quả thế nào. Nét đặc trưng dân tộc đó chăng? Hân đã từng tởm lợm biết mấy khi nghe Ánh xưng xưng tiết lộ một bí mật động trời là cái Chi bị mất trinh rồi, vì “Cái Hiền nó có con mắt chuyên môn, nó biết. Chắc là do leo lên giường với mấy ông thủ trưởng nào đấy để chóng được vào Đảng và kiếm chác thôi. Chứ còn gì nữa”! Hừ, con mắt chuyên môn! Thế còn người có con mắt ấy thì sao? Hân tự hỏi. 

Sang tháng Sáu, Khoa dự bị bắt đầu được nghỉ hè. Hân cũng như nhiều nam sinh viên khác cùng đơn vị lao vào các nhà máy, đi làm. Vừa để kiếm ít tiền, vừa có dịp mở mang tầm mắt. Toàn là những công việc giản đơn nhưng lại thiếu người làm, chỉ cần xuất trình thẻ sinh viên là có thể xin được việc. Bảy rúp một ngày, nhưng vì ở đây, người lao động toàn Liên Xô được nghỉ thứ bảy và chủ nhật nên nếu làm cả tháng sẽ được khoảng một trăm năm mươi rúp. Với số tiền ấy, có thể mua được hơn hai chục chiếc bàn là hoặc một chiếc ti vi đen trắng; giá một chiếc máy khâu là một trăm hai mươi rúp, còn xe đạp Xpútnhích, chín mươi hai rúp.

Có một cách kiếm tiền khác nhanh hơn, được nhiều hơn và cũng nguy hiểm hơn. Đó là buôn bán áo phông, quần bò, mĩ phẩm… từ Việt Nam sang rồi săn lùng đủ loại hàng hóa, nhất là thuốc men, dây mai xo, áo bay, nồi áp suất… gửi về. Rất nhiều cán bộ, nghiên cứu sinh và sinh viên Việt Nam đã lao vào làm việc đó, dần dà hình thành những đường dây hẳn hoi, lan xuống cả các nước cộng hòa vùng Trung Á. Nhiều người trở nên giàu có, nhưng cũng không ít trường hợp bị lừa mất hết, thậm chí còn bị bắt và đuổi ngay về nước.

Cùng học một trường với Hân, có anh chàng tên Niêm, quê ở Hoà Bình. Cũng thuộc vào diện cán bộ đi học và kém Hân hai tuổi, anh ta nổi tiếng về sự nhếch nhác và luộm thuộm. Phòng ở của Niêm lúc nào cũng mù mịt khói thuốc, vương vãi đủ các loại áo quần thay ra không chịu giặt và những đôi bít tất bốc mùi. Không buôn bán, không đi làm ở đâu, anh ta sống hoàn toàn dựa vào học bổng với cách nấu nướng, ăn uống chỉ có thể nói là kinh khủng. Mọi thứ, từ rau dưa thịt cá đến cơm, thường được Niêm xúc thẳng từ nồi đưa vào miệng mà không cần bát đũa.

Quan điểm của anh ta rất rõ ràng: mua làm gì cho tốn tiền; bát đũa dùng xong lại mất công đi rửa. Vì thế, thỉnh thoảng Niêm lại xuống buphét nhặt lấy vài cái đĩa và khi đã dùng xong, cứ hồn nhiên quẳng ra ngoài bếp. Đã có người thu dọn, lo gì! Cho nên cũng dễ hiểu là khi vào phòng Niêm, người ta có thể bắt gặp Lép Tônxtôi đang ung dung đứng bên xoong cá kho, Antôn Tsêkhốp giương mục kỉnh nhìn đời cùng với một lát bánh mì gặm dở, còn Phêđo Đốtxtôiépxki thì nằm thẳng cẳng trên sàn với nồi cơm nguội cháy đen. Nhưng giữa bối cảnh êm đềm rất nên thơ ấy, không hiểu tại sao Niêm lại có thể trương lên tấm ảnh màu một cô gái khỏa thân đứng dạng đôi chân đi bốt da cao đến gần đầu gối, choán hết cả mảng tường ở đầu giường. Cô gái mắt xanh tóc vàng, mũ kêpi đội lệch, tay ôm khẩu tiểu liên nhưng miệng lại mỉm cười đầy khêu gợi, để lộ những chiếc răng trắng lóa.

Hết năm học thứ ba, chẳng biết suy nghĩ thế nào, đùng một cái Niêm lại xin về thực tập ở Việt Nam. Lí do rất chính đáng và nhà trường vẫn luôn luôn khuyến khích. Sứ quán ta cũng không gây khó dễ gì. Chỉ riêng Hân lấy làm lạ, không hiểu cậu ta lấy đâu ra tiền, vì tất cả các khoản chi phí liên quan đến quá trình thực tập, tiền vé máy bay đi và về đều phải tự mình lo hết, vô cùng tốn kém. Câu trả lời, hóa ra lại đến một cách bất ngờ, không ai hình dung ra nổi.

Niêm bị bắt tại sân bay Seremenchevô II cùng với một va li đầy kính râm và ba quyển hộ chiếu mang tên người khác, sau khi anh ta làm thủ tục vào lại Mátxcơva. Kính, thì Hân biết toàn là kính rởm nhưng dán đủ các nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới để lừa bán với giá trên trời cho những người dân Xô viết sính dùng hàng ngoại. Còn hộ chiếu, là thật nhưng của ai và để làm gì thì không biết.

Cán bộ an ninh của Sứ quán Việt Nam tại Liên Xô được cử đến sân bay, nhận bàn giao từ phía bạn rồi khóa tay Niêm lại, dong về. Hôm sau, Niêm bị áp giải ra sân bay, đưa về nước rồi vào thẳng Hỏa Lò, Hà Nội. Qua những nguồn tin khác nhau, dần dà mọi người mới biết là theo đề nghị hợp tác làm ăn của một cao thủ ở trường khác, Niêm nhận lời, khi từ trong nước sang sẽ đem giúp anh ta mấy quyển hộ chiếu và chiếc va li chứa một ít kính râm với khoản thù lao một nghìn hai trăm rúp, chưa kể tiền vé máy bay hai chiều. Trời ơi! Một nghìn hai trăm rúp! Mười mấy cái xe đạp chứ nào có ít đâu! Mà lại không phải làm gì hết! Tất cả mọi việc ở phía Việt Nam đã có người khác lo, chỉ cần Niêm nhận va li, xách qua cửa hải quan ở sân bay Seremenchevô II là xong.

Có lẽ do cảm thấy đây là một cơ hội đổi đời và cũng chẳng có gì nguy hiểm nên Niêm đã đồng ý mặc dù lúc đầu, mức tiền công được đưa ra là tròn một nghìn rúp. Nhưng anh ta kì kèo đòi thêm cho bằng được vì công việc vất vả, lại còn lo trục trặc dọc đường. Tuy vậy, cái mà Niêm không nghĩ được ra, là chiếc va li ấy to khủng khiếp, bị nhồi nhét đến hơn một nghìn năm trăm cặp kính. Mà kính thì rất nặng, lôi và xách đến vẹo cả người, khác hẳn những va li hành lí thông thường. Người ta chỉ cần nhìn qua cũng biết ngay. Rồi từ chiếc va li, hải quan Liên Xô khám người Niêm, tìm ra hộ chiếu…

Tất nhiên, nếu mọi việc trót lọt thì bậc cao thủ kia sẽ lãi rất to. Mỗi cặp kính, bán buôn ở Mátxcơva đã là mười hai mười ba rúp. Đến tay người tiêu dùng, khoảng ba mươi, ba mươi lăm rúp. Một nghìn hai tiền công trả cho Niêm có đáng là bao! Theo đúng hẹn, vị cao thủ ra sân bay đón Niêm, tưởng đâu quả này trúng đậm, chẳng dè lại bị gãy cầu. Anh ta vội vàng lặn mất tăm, để mặc Niêm cho công an của bạn dẫn đi như một tên tội phạm. Mà đúng là tội phạm chứ còn gì nữa!

Sau khi đã trở về Hà Nội được ba bốn năm, Hân không ngờ Niêm lại chủ động đến tìm, nhờ hướng dẫn cách làm thủ tục thi vào trường đại học, nơi anh đang giảng dạy. Bộ mặt hơi bì bì, cách nói năng giật cục và nhấm nhẳn, thuốc lá châm hết điếu này sang điếu khác. Niêm cho biết sau khi được thả, anh ta bám trụ lại thủ đô, làm đủ mọi nghề để kiếm sống nhưng bây giờ muốn học lại, kiếm lấy mảnh bằng đại học để còn tìm cách đổi đời. Hân không hỏi Niêm về chuyện cũ, mà chỉ nói tất cả những gì anh biết xung quanh việc làm hồ sơ thi đại học như thế nào, lại còn động viên anh ta nên cố gắng. Niêm loay hoay mãi, cuối cùng cũng rút ra được một điếu thuốc lá từ trong bao thuốc vẫn đang nhét ở túi áo ngực, chìa cho Hân:

– Quên mất… Anh hút thuốc!

Hân ngạc nhiên:

– Tôi có hút thuốc đâu!

– Ơ thế à? – Niêm hỏi lại, rồi châm ngay điếu thuốc ấy, cắm vào mồm. – Có vậy!

Đúng như dự đoán của Hân, Niêm đỗ. Nhưng sau khi đến nhà Hân lần đầu tiên và cũng là cuối cùng ấy, rồi vào trường làm một sinh viên già, anh ta liền coi Hân như một người không quen biết. Tác phong thì khệnh khà khệnh khạng, ra vẻ ta đây. Hân nghĩ, có thể ông bạn vàng này hơi mặc cảm về quá khứ của mình, vì dù sao cũng là bạn đồng môn cũ. Tuổi tác chênh nhau chẳng đáng bao nhiêu, bây giờ lại hóa thầy trò. Mà biết đâu anh ta chẳng tự hào về quá khứ vẻ vang từng học đến hết ba năm ở nước ngoài, có kém gì ai! Do đó, Hân cũng giữ khoảng cách với Niêm và đối xử với anh ta đúng như một người xa lạ tuy không hề thành kiến hay ghét bỏ.

Bẵng đi mấy năm, Niêm tốt nghiệp ra trường và đi làm từ lúc nào Hân cũng không biết. Nhưng rồi một buổi chiều, sau khi anh vừa chọn mua mấy cái bút bi ở ngay đầu phố thì bỗng nghe tiếng gọi:

– Anh Hân!

Hân quay lại, thấy Niêm đầu trọc lốc đang ngồi gật gà gật gù trên chiếc ghế nhựa của một quán bia hơi vỉa hè. Trước mặt anh ta là bao thuốc lá, mấy vại bia vại còn vại hết và đĩa lạc luộc lỏm loi vài củ; vỏ vứt lung tung cả trên mặt bàn loang nước và dưới đất. Không hiểu tại sao ở khắp cái nước Việt Nam này lại nhiều chỗ bán bia hơi đến thế! Và hình như người ta sẵn sàng ăn uống suốt ngày.

– Anh đi đâu đấy? – Niêm nhìn Hân bằng đôi mắt vô hồn.

– À… thì đi mua mấy cái bút bi ấy mà! Sao lại ngồi ở đây thế này? – Hân đưa đẩy cho có chuyện.

– Vừa mới đi làm về… – Giọng Niêm vẫn nhấm nha nhấm nhẳn và hơi giật cục. – Nếu thích bia thì ngồi đây làm tí rồi tự trả tiền nhé… Có vậy!

Hân cảm thấy như bị xúc phạm trước những lời lẽ kì cục ấy. Bởi vì xưa nay, anh không bao giờ ăn uống bê tha nơi đầu đường góc phố, huống chi đây là chỗ rất gần nhà. Nó tưởng mình thèm khát bia hơi lắm! Lại còn lời giao hẹn tự trả tiền và “Có vậy!”. Câu nói cửa miệng của một người đã từng du học ở Liên Xô đấy! Hân nhìn xuống, thấy Niêm có vẻ to béo bệ vệ hẳn ra, bộ ria mép lởm chởm đen sì trên cái mặt “rất cơng cơng”[74], nom ông không ra ông, thằng chẳng ra thằng một tí nào. Anh hỏi lại:

– Thế à? Làm gì?

– Báo. Phóng viên. – Niêm vỗ vỗ vào cái túi vải bạt to đùng để ngay bên cạnh, đầy vẻ tự hào. – Không ngồi xuống à?

Thêm một lần nữa, Hân ngán ngẩm trước cái thằng người đang đầy vẻ dương dương tự đắc. Anh không muốn hỏi xem nó làm ở báo nào. Nhưng theo suy nghĩ của Niêm, hẳn đây là một nghề danh giá lắm, quan trọng lắm nên hắn mới khoe khoang như thế. Và cũng đúng lúc này, Hân mới nhìn thấy những tờ giấy bạc đủ loại, nhàu nhĩ nhô lên từ túi áo ngực không gài nắp của Niêm. “Hừ, chẳng lẽ bố mày đây lại ăn với uống như mày ấy à?” – Hân tỏ ý hơi khinh bỉ. Rất có thể nó gọi anh cũng chỉ để khoe khoang rằng nó đang làm báo mà không hề biết rằng chính anh cũng phải thường xuyên viết bài, đăng ở nhiều nơi để có thêm thu nhập.

Thoáng chốc, trước mắt Hân lại hiện ra căn phòng mịt mù khói thuốc với đủ loại quần áo, xoong nồi, đĩa bát thức ăn thừa… trong kí túc xá phải nói là hiện đại và đẹp đẽ. Nhớ cả bãi biển Xôchi mùa hè năm tám mươi. Nhà trường cho sinh viên nước ngoài đi nghỉ tới tận hai tháng hoàn toàn miễn phí, kể cả tiền vé máy bay đi và về, để bạn còn rộng đường tổ chức Ôlimpích Mátxcơva. Niêm cũng có mặt trong nhóm sinh viên đi nghỉ ấy.

Hân không tưởng tượng được, Niêm lại không dám mua lấy một chiếc quần bơi để mà dùng. Cởi quần áo dài ra, cậu ta cứ để nguyên chiếc quần sịp dệt kim màu trắng, hết lội xuống biển rồi leo lên bờ, đi đi lại lại trước mắt hàng nghìn con người Tây có, ta có. Hình như Niêm không thèm biết rằng chiếc quần lót ấy chỉ dùng để mặc ở bên trong, và khi bị ướt nước thì tất cả mọi thứ cần phải che đậy trước mắt mọi người đều gần như được phơi bày ra hết.

Không đừng được, Hân đành phải kéo Niêm ra một chỗ mà nhắc nhở:

– Này, ông xem thế nào, chứ ai lại ăn mặc thế này… Người ta đang nhìn kia kìa.

– Mặc cho chúng nó nhìn, nhé! Có vậy! – Niêm nhấm nhẳn.

– Sao ông không mua lấy một cái quần bơi, ngoài kia bán đầy… – Hân vẫn kiên nhẫn nói cho Niêm hiểu.               

– Không có tiền, nhé! – Niêm cáu kỉnh gắt.

Chuyện chẳng liên quan gì đến Hân, nhưng anh ngượng quá, đúng như câu ngạn ngữ Người dại để l. người khôn xấu hổ. Anh buộc phải mua cho Niêm một chiếc quần bơi để mọi người đỡ phải ngượng ngùng thay cho gã đàn ông vô liêm sỉ. Bên tai anh dường như cứ văng vẳng những lời xì xào của mấy bà người Nga với thái độ hơi kinh tởm: “Khiếp, trông cái thằng Việt Nam kìa”! Cũng đúng thôi, vì họ đâu có biết thằng ấy tên gì! Niêm cầm chiếc quần bơi, ngắm nghía một hồi rồi nói như chữa thẹn:

– Tại anh mua cho tôi đấy nhé!

Sau đó, Hân thấy anh ta vẫn có tiền để uống bia và mua thuốc lá đều đều. Mà chiếc quần bơi, nào có đáng bao nhiêu đâu! Ba rúp!

Kết thúc kì nghỉ ở Xôchi, Hân cũng quên luôn mọi chuyện với Niêm. Có chăng, chỉ đọng lại cảm giác hơi xấu hổ ngượng ngùng. Mình là ai, bao nhiêu sinh viên nước ngoài khác là ai mà được chính phủ và người dân Liên Xô ưu ái, chăm lo đến thế, trong khi thật ra họ đã giàu có gì đâu! Khắp Mátxcơva và có lẽ là cả Liên bang Xô viết đi đâu cũng gặp các sinh viên nước ngoài thuộc đủ màu da, tiếng nói. Thậm chí còn có cả một trường đại học mang tên Pat’rix Lumumba dành cho người châu Phi. Riêng đối với Việt Nam, thì từ lãnh tụ tối cao đến những thường dân cũng đều có thể có cơ hội qua lại học hành, công tác, làm ăn sinh sống ở đất nước này. Vậy mà khá nhiều người vẫn coi đấy như một lẽ tự nhiên, lại còn chê bôi, dè bỉu đủ điều. Và Niêm cũng chính là một trong số đó.

Cho đến một hôm, đi học về, Hân thấy chiếc quần bơi mà anh mua cho Niêm được quẳng ngay ở trên bàn. Tiên sư cái thằng này! Chắc là nó làm ra vẻ sĩ diện, không muốn mang tiếng với mình đây! Nhưng nó ăn phải cái gì mà lại ngu đến mức có thể đem trả lại và để cái của nợ ấy lên bàn cơ chứ! Nếu không thích nữa, sao nó không vứt luôn vào thùng rác. Ai mà lại đi mặc chung loại quần này! Hân giận dữ, chỉ muốn mắng cho Niêm một trận. Hừ, đen đầu cũng kể làm người! Nhưng rồi anh lại thôi vì hiểu rằng, có nói gì với gã này cũng đều vô nghĩa. Đầu óc của nó chỉ đến thế mà thôi! Đến khoảng gần một năm sau thì xảy ra việc Niêm bị bắt với một va li kính.

Sau vụ làm ăn thất bại của Niêm, Hân chỉ thấy thương hại cho một nạn nhân của chính mình. Chẳng qua do đã nghèo lại ngu muội và tham lam nên mới đâm ra như thế. Đáng trách hơn, là những kẻ đã tìm cách đánh vào lòng tham và sự cả tin của người khác để trục lợi, bất chấp hậu quả có thể xảy ra đối với các nạn nhân của chúng. Mà những kẻ quyết chí làm giàu trên lưng người khác ấy thì rất nhiều, với hàng trăm hàng nghìn khuôn mặt khác nhau, không lường hết được.

Cũng ngay tại trường của Hân đã từng xảy ra một chuyện hú hồn khiến nạn nhân suýt chết, mặc dù anh này chẳng tham lam gì. Mão, vốn là người tốt tính và cũng không buôn bán bao giờ, xin về nước thực tập. Anh ta được một cậu đàn em tên là Thường nhờ cậy, rằng khi nào sang lại Mátxcơva thì cầm giúp cậu ta một chút quà gì đó, rất nhẹ thôi, không có gì đáng ngại. Mão đồng ngay ý vì hai người chơi với nhau khá thân và đã cùng nhau chia sẻ đủ điều.

Mão về nước và mọi việc đều suôn sẻ. Anh tìm đến nhà Thường ở gần Hồ Gươm để chuyển quà của cậu này. Một phòng khách rộng rãi được trang hoàng rất đẹp. Một chiếc pianô bề thế, đen bóng bên cửa sổ. Những khung ảnh, tủ gương, tranh, tượng… thật sang trọng và lịch sự. Nhà của một quan chức trong ngành văn hóa kia mà! Bà mẹ của Thường, sau này mới biết là làm thợ may, trong câu chuyện đã ngỏ ý nhờ anh đem giúp một chiếc nhẫn sang Mátxcơva cho con trai bà để “Em nó tặng người yêu”. Mão đồng ý, vì anh tưởng đó chỉ đơn giản là cái nhẫn vàng thôi lại còn lấy làm mừng cho cô bé học trường Y, người yêu của Thường. Nhưng rồi mãi vẫn không thấy mẹ của cậu ta đến gửi.

Những tưởng người phụ nữ ấy đã đổi ý nên Mão cũng không băn khoăn gì hết. Nào ngờ vào lúc anh sắp sửa ra sân bay, bà thợ may ấy mới được em trai của Thường đèo đến bằng xe đạp. Bà xin lỗi vì đến muộn rồi đưa cho Mão một gói giấy vỏ bao xi măng bé xíu. Mão cẩn thận mở gói giấy ra xem thì thấy trong đó là một chiếc nhẫn kim loại màu trắng có lẽ là inox, gắn một viên đá hơi lóng lánh như kiểu hàng Mĩ Kí Sài Gòn. Không căn dặn gì thêm, bà thợ may đã hấp tấp ra về sau khi chúc Mão lên đường may mắn.

Mão nhét chếc nhẫn vào túi quần rồi cứ thế bay đi, không một chút nghĩ ngợi gì. Tối hôm sau, Thường đã đến ngay chỗ anh để nhận quà. Hẳn là bà thợ may đã kịp điện khẩn sang cho cậu con trai. Đôi mắt cậu ta sáng lên khi mở gói giấy xi măng. Và chỉ mãi rất lâu sau, qua một người bạn học ở Nhạc viện Tsaicốpxki, Mão mới biết thì ra đó là nhẫn kim cương, Thường bán được một ngàn hai trăm rúp. Thừa cho cậu ta đóng được tới tận mấy thùng hàng gửi theo đường tàu biển. Lúc này, Thường đã kịp chia tay cô người yêu bé nhỏ xinh giòn, để đến khi về nước lấy luôn một nữ cán bộ ngân hàng giàu có.  

Nghe chuyện, Hân cảm thấy thật đáng nể cho bà thợ may cao thủ. Sát giờ người ta ra sân bay mới đến gửi “quà”. Nhẫn kim cương được gói trong mảnh bao xi măng… Không căn dặn đôi hồi gì hết. Vội vã cáo lui vì sợ Mão nhận ra đó là nhẫn gì và trả lại thì sao! Rồi một ngàn hai trăm rúp ở Mátxcơva vào năm một chín tám hai! Một cú lừa ngoạn mục! Bà thợ may Hàng Trống thật bản lĩnh khi suýt nữa đẩy Mão vào chỗ chết. Vì, ai mà biết được cái gì sẽ xảy ra nếu Hải quan Việt Nam hoặc Liên Xô phát hiện và giữ lại chiếc nhẫn kim cương ấy? Anh bạn của Hân, cả đời mới chỉ nhìn thấy đến nhẫn vàng, làm sao mà biết được giá trị của cái nhẫn mặt đá màu trắng là như thế nào! Bà kia thì lại rất tự nhiên, để “Em nó tặng người yêu của nó”.

Gần hai chục năm sau, trong một lần đi xem hòa nhạc tại Nhà hát Lớn, Mão tình cờ chạm trán người bạn vong niên cũ. Cậu ta vẫn giữ nguyên bộ mặt thiên thần nhưng mái tóc bạc từ thuở đôi mươi đã được nhuộm nâu kiểu Hàn Quốc, nom rất trẻ trung. Nghe nói Thường đã trở thành phó tổng giám đốc của một công ti mỏ và địa chất. “Ơ thế mà em cứ tưởng anh vào ở Sài Gòn”, Thường nói. Nhưng khi Mão hỏi xin số điện thoại và địa chỉ để lúc nào rỗi thì đến chơi, cậu ta bỗng có vẻ hơi chột dạ, chần chừ tìm cách lảng. Như một sự đề phòng. “Chắc là nó sợ mình nhờ vả cái gì đây”! Mão giận dữ quay lưng đi thẳng, không thèm nói một câu nào nữa. Mà thật ra, anh có thể nói gì? Mọi thứ đều đã xong từ rất lâu rồi. Đứa nào nhẹ dạ, cả tin thì cho nó chết, thế thôi! Mẹ con bà thợ may đã cho anh một bài học nhớ đời như thế đấy.

 

*

*          *

 

Sinh nhật của Hân đến vào một ngày thứ sáu. Anh quyết định lần đầu tiên làm một cái gì đó, mặc dù trước kia anh và cả gia đình đều không có khái niệm gì về sinh nhật. Mà xét cho cùng, xưa nay người Việt Nam có mấy ai kỉ niệm ngày ấy đâu. Con cái sinh ra, nheo nhóc lớn lên, cùng lắm có cái lễ đặt tên. Qua đủ thứ tai ương bệnh tật, ai sống được đến một cái tuổi nào đó thì mừng thọ. Ấy là với những gia đình khá giả, còn nếu nghèo, thì tất cả đều không. Chính vì thế mà suốt một thời đi học phổ thông, đi bộ đội rồi qua một năm học tiếng Nga, chưa bao giờ Hân phải lo nghĩ gì đến ngày sinh của anh, trừ việc nhủ thầm, từ hôm nay, mình lại thêm một tuổi. Nhưng đây là Liên Xô cơ mà! Một số người trong đơn vị của Hân đã nối theo nhau làm sinh nhật, và bây giờ, đến lượt anh.

Vừa may được lĩnh học bổng, Hân liền mua một chiếc bánh tort sôcôla, là loại mà anh đã có lần ăn và rất thích. Đó chính là bánh ga tô theo cách gọi ở bên nhà. Chiếc tort ấy được làm rất đẹp và ngon đến nỗi, sau này rất nhiều năm, Hân vẫn không thể nào ăn nổi bánh ga tô Hà Nội. Còn hoa, anh không dám chơi sang, vì mỗi bông hồng, tùy theo loại sẽ có giá từ một rúp năm mươi đến hai rúp, thậm chí là ba; các loại hoa khác cũng chẳng rẻ hơn nào. Hân liền nảy ra sáng kiến, đi hái hoa romaska, một loài cúc dại tuy đã cuối mùa nhưng vẫn đang nở trên thảm cỏ sau nhà. Những bông hoa trắng muốt, nhụy vàng, có mùi hương rất nhẹ. Nhưng người Nga nói chung không bao giờ hái loài hoa ấy, mà có lẽ họ cũng chẳng bao giờ ngắt lá, bẻ cành bất kì một loại cây nào. Ngay cả trẻ em cũng vậy.

Hân mới hái được khoảng hơn chục bông romaska có lẽ vừa mới nở, còn rất tươi và đang hí hửng với thành quả của mình thì anh bỗng cảm thấy có ai đó đứng nhìn. Hân quay lại và chạm ngay vào ánh mắt như bốc lửa của một bà khoảng chừng năm, sáu mươi gì đó.

– Anh đang làm gì đấy? – Người phụ nữ Nga hỏi một cách lạnh lùng.

– Tôi… hái hoa. – Hân ấp úng.

– Những bông hoa ấy làm gì anh mà anh phải tiêu diệt nó? Anh không biết xấu hổ à? – Bà người Nga đã tỏ ra hơi gay gắt. – Anh không thấy đấy là hành động phá hoại à? Để yên cho hoa nó nở, đẹp biết bao nhiêu… Anh có hiểu tôi đang nói gì không? Hả?

Làm gì mà không hiểu! Hân ấp a ấp úng:

– Tôi… Hôm nay là sinh nhật… Bà có biết không… – Anh lúng túng như gà mắc tóc, không biết giải thích thế nào.

– Ôi ôi ôi… – Người phụ nữ lắc đầu ngao ngán. – Sinh nhật, thì anh phải đi mua hoa về mà cắm chứ, sao lại hái ở đây? Như thế là không được! Rõ chưa?

Hân chưng hửng, định vứt ngay những bông hoa ấy đi thì bà người Nga lại lắc đầu, thẽ thọt:

– Thôi, đã lỡ hái rồi thì đem về đi, đừng vứt ra đây. Nhưng bận sau thì không được làm như thế nữa! Nhớ như vậy nhé!

– Vâng. – Hân miễn cưỡng gật đầu.

Người phụ nữ đã dợm bước quay đi, nhưng rồi chợt nhớ ra, liền dừng lại nhìn Hân với một nụ cười độ lượng và ánh mắt đã dịu đi nhiều:

– Chúc mừng sinh nhật!

– Cám ơn bà! – Hân đáp lại như một cái máy.

 

Không còn một chút hào hứng nào nữa nhưng Hân vẫn đem mấy bông hoa ấy lên phòng rồi tiện có chiếc cốc thủy tinh màu xanh thẫm ai đó để lại từ bao giờ, anh liền cắm hoa vào đó. Thật không ngờ là rất đẹp! Hân xoa xoa hai bàn tay vào nhau rồi ngắm nghía một hồi, tự bằng lòng với chính mình. Kể cũng được, nếu không có cái bà người Nga ấy!

Mọi việc chuẩn bị đã xong xuôi, Hân xách túi rác đi đổ. Nhưng vừa mới ra khỏi phòng được vài bước thì anh thấy Phương Linh đang đi tới. Trong tay cô là một bó hoa nhỏ, bọc trong giấy bóng kính. Hân chưa kịp nói gì thì Phương Linh đã reo lên bằng tiếng Nga:

– Chúc mừng sinh nhật!

Hoàn toàn bị bất ngờ, Hân còn đang nhìn quanh, chưa biết vứt tạm túi rác đi đâu thì Phương Linh đã kêu to:

– Kìa Vượng, em xách giùm túi rác đi! Nào!

Thì ra, từ phía sau lưng Hân, anh chàng Đông Gioăng cùng phòng cũng vừa xuất hiện. Phương Linh giúi luôn bó hoa vào tay Hân. Ba bông hồng nhung thật đẹp. Hân hơi ngẩn người ra một lát, không biết nói gì.

– Chúc mừng sinh nhật! – Phương Linh lặp lại thêm lần nữa rồi kiễng chân hôn chụt một cái rất kêu lên má Hân mà không hề biết rằng, đó là lần đầu tiên anh được tặng một món quà như thế.

Tối hôm ấy, sau khi khách khứa đã ra về hết, Hân lặng lẽ đứng bên cửa kính nhìn ra xa. Mátxcơva về đêm thật lộng lẫy. Cả thành phố như được khoác lên một chiếc áo thần kì, khác hẳn lúc ban ngày. Mỗi đại lộ, con đường đều có một loại đèn chiếu sáng với những màu sắc khác nhau. Các tòa nhà cao tầng, muôn ngàn ô cửa đầy ánh sáng vàng ấm áp. Những chiếc tàu điện, ô tô buýt, tắc xi… cũng đèn đỏ đèn vàng đủ kiểu. Tháp truyền hinh Ôxtankinô cao hơn năm trăm mét được chiếu sáng bằng đèn pha cực mạnh, trông như một khối ngọc thạch khổng lồ. Và gần đó là Đài kỉ niệm Du hành vũ trụ mang hình dáng quả tên lửa bằng ti tan bay vút lên, sáng lóa.

Hân trở lại bàn, ngồi xuống bên chiếc cốc cắm mấy bông hoa mà Phương Linh vừa tặng lúc trưa. Những bông hồng nhung ở đất nước xa xôi. Chưa ai tặng hoa cho anh từ trước đến giờ… Và một người con gái đang bầm giập vì tình. Hân lặng im suy nghĩ vẩn vơ một lúc lâu rồi bắt đầu cầm bút viết.

                     Em tặng hoa nhân ngày sinh của anh

                     Cái bó hoa đầu tiên của hai mươi bảy năm anh nhận

                     Cầm hoa, anh bồi hồi cảm động

                     Không biết nói gì cùng em…

Bài thơ đã được làm xong. Hân đọc lại lần nữa rồi cất nó vào ngăn kéo của chiếc tủ con ở đầu giường. Không hiểu giờ này ở bên nhà, bố mẹ và các em đang làm gì? Mùa hè nóng nực, có đủ nước mà ăn uống, tắm giặt không? Có điện để chạy quạt máy không? Hay là mỗi người một cái quạt nan phành phạch, mồ hôi đầm đìa ngay cả trong giấc ngủ? Nghĩ thế rồi, Hân thấy bài thơ mình vừa mới làm sao mà vô duyên thế! Cho dù anh cứ làm thế thôi, chắc gì đã đem tặng Phương Linh hay nói cho cô biết.

 

Cuối tháng Tám, Phương Linh chuyển về kí túc xá của trường cô và cái đơn vị dự bị của Hân cũng giải tán để sinh viên về nhập học tại các trường khác. Hân thở phào sung sướng vì được chia tay những Ánh, những Hiền và cả “anh hùng” Trần Kha. Thế là xong! Chỉ có anh và Vượng về một trường, nhưng cậu ta lại ở khoa khác, không liên quan gì đến Hân, trừ việc sẽ lại cùng chung đơn vị trong năm năm nữa. Vì vậy, anh hoàn toàn yên tâm, sẽ chẳng có gì ảnh hưởng đến mình. Nhưng một lần nữa, Hân nhầm. Chỉ có điều, sự ảnh hưởng lần này lại đến từ phía khác.

Kí túc xá mới của Hân được xây dựng ngay bên một đường phố lớn, liền kề với ba tòa nhà kí túc xá khác, giống nhau như được đúc từ cùng một khuôn. Bốn khối bê tông vuông vắn, nhất loạt mười sáu tầng đơn điệu. Có một bến tàu điện gần như ở ngay trước cửa, còn ô tô buýt và xe buýt điện cách đó không xa lắm nên đi lại cũng tiện. Nhưng khác với khu kí túc xá của Khoa dự bị, ở đây các phòng được bố trí theo blốc, mỗi blốc có hai phòng. Gian ngoài là nơi để tủ đựng quần áo, đồ dùng cá nhân; nhà vệ sinh và phòng tắm riêng biệt. Phía trong, mỗi phòng rộng chừng hai chục mét vuông, là chỗ cho hai người ở. Trong phòng có đèn chùm, giá sách, bàn, ghế và đặc biệt là hai chiếc đi văng đệm lò xo, ngả ra thành giường, dựng lên thành ghế, rất thoải mái và tiện dụng. Tất nhiên cũng có gian bếp chung, trang bị toàn bếp điện công suất lớn; căng tin bán đồ ăn nhanh; còn ở trên tầng mười lăm thì có cả một phòng đọc đầy đủ tiện nghi dành cho những ai có nhu cầu muốn được yên tĩnh để mà ngồi học.

Theo quy định chung của nhà trường, mỗi sinh viên nước ngoài phải ở với một sinh viên Xô viết để tiện giúp đỡ nhau trong học tập. Hân được ghép ở chung với Xêriôgia, một anh bạn cùng lớp, người Nga chính hiệu ở thành phố Lipesk. Anh này bằng tuổi Hân, từng đi nghĩa vụ quân sự và phục vụ trong binh chủng tăng thiết giáp, đóng ở Xibir. Tính tình vui vẻ và rất đàng hoàng, có cái gì đó hơi Á đông một chút. Xêriôgia đã có vợ nhưng lại li hôn, đứa con gái mới lên ba được sống cùng mẹ nó. Vì thế, ngoài giờ học Xêriôgia phải đi làm, chủ yếu là bốc vác hàng hóa tại ga tàu để có thêm tiền trang trải cho bản thân và đóng góp nuôi con.

Sẽ chẳng có gì đáng phàn nàn, nếu như Xêriôgia không thỉnh thoảng lại đưa bạn gái về nhà, vào bất kì lúc nào anh ta muốn. Công thức chung của những cuộc gặp gỡ ấy là như thế này: đầu tiên, hai người ăn uống và nói chuyện. Thức ăn thì chỉ có vài khoanh giò, ít bánh mì pho mát và bơ, đôi khi thêm mấy con cá khô xông khói hoặc thịt giăm bông mà tiếng Nga gọi là okrơk. Rất ngon. Rượu, thì dứt khoát phải có rồi. Nếu không cônhắc thì cũng vốtka, cùng lắm mới đến lượt một chai xukhôie to tổ bố (hẳn là vào những lúc Xêriôgia cạn túi). Thêm vào đó là bao thuốc lá Java hoặc Gallant gì đó. Cuộc vui bắt đầu bằng những lần cụng li (đúng ra là cụng cốc) chúc sức khỏe nhau và tùy theo thời gian của hai người nhiều hay ít mà Xêriôgia sẽ nháy mắt ra hiệu cho Hân, hoặc anh phải tự biết mà lánh đi để họ lên giường.

Qua một thời gian, thấy ông bạn Việt Nam có vẻ hơi dễ tính, Xêriôgia liền đưa gái về ngủ qua đêm cứ như không, tất nhiên là chẳng bao giờ báo trước. Trong những lần như vậy, thường là đôi tình nhân không ăn uống gì. Cô gái sẽ vào nhà tắm, xả nước một hồi trong đó. Khi trở ra, thì mặt mũi đã không còn chút phấn son nào, tóc cũng buông lơi, cứ thế mà leo lên nằm với gã đàn ông đang chờ sẵn. Và mỗi lần như vậy, đối với Hân là cả một cực hình, vì phòng nhỏ, khoảng cách giữa hai cái đi văng nào có đáng kể gì. Tiếng lò xo cót két, tiếng thì thào âu yếm của đôi bạn tình, những hơi thở dồn dập khiến cái đầu ong ong của Hân nhiều phen chỉ muốn vỡ tung. Nhưng không thể trốn đi đâu vào lúc đêm khuya. Khó có thể ngủ nhờ ở phòng ai khác, vì mỗi người chỉ có một chiếc đi văng và một tấm chăn. Hơn nữa, khi Xêriôgia đưa bạn gái về thì thường đã muộn và sinh viên Việt Nam đã đi ngủ hết.

Lạ ở chỗ, dường như không bao giờ Xêriôgia đưa một cô bạn gái về phòng đến hai lần. Hân không biết anh ta bằng cách nào và lấy đâu ra thời gian để làm quen được với nhiều cô đến thế! Hay điều đó chỉ nói lên rằng, các cô gái Nga ngày nay rất dễ dàng? Càng lạ hơn nữa, bỏ qua cả nguyên tắc bất thành văn là không chung chạ với người cùng lớp, Xêriôgia còn leo lên bụng cả Liđa, cô lớp trưởng sồ sề ngay ở tuổi hai mươi có đôi vú cực kì đồ sộ.

Hân biết được điều này vì sáng sớm, khi anh thận trọng hé mắt nhìn, đề phòng việc gây ra nỗi khó xử cho cả ba người thì thấy Liđa đang cởi trần chải tóc, trên người chỉ có đúng một chiếc quần lót mỏng tang. Đôi vú khổng lồ của cô khẽ đung đưa theo chuyển động của cánh tay, thõng xuống cái bụng mỡ, có lẽ chu vi phải tầm chín mươi, chín lăm xăng ti mét. Lát sau, vẫn không hề biết có người đang nhìn trộm, Liđa xoay mình, với lấy chiếc áo con rất to khoác lên ngực rồi loay hoay ấn đôi vú ngoại cỡ của mình vào đó. Hân nín thở, khẽ khàng kéo tấm chăn che kín đầu rồi nhắm mắt. Chờ đến khi nghe thấy lời chào từ biệt của đôi tình nhân một đêm cùng với tiếng cửa sập lại từ bên ngoài, anh mới dám bật dậy chạy vội vào nhà tắm.

 

Đã lại sang tháng Hai, tuyết không còn rơi nhiều nữa. Nhưng cũng chính vì thế mà những đống tuyết lưu cữu trên các đường phố, cành cây… trở nên đen kịt vì bụi bặm và trơn trượt, đông cứng lại. Hân hơi ngạc nhiên vì Phương Linh không có mặt trong buổi mừng Xuân Kỉ Mùi do Đại sứ quán Việt Nam tại Mátxcơva tổ chức. Đã mấy tháng nay, anh không có tin tức gì về Linh, cũng không biết địa chỉ của cô để mà viết thư. Mà nếu có, anh cũng chẳng biết viết thế nào.

Cái tin Trung Quốc huy động tổng lực đánh Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía bắc đến với Hân khá muộn. Vào buổi sáng thứ bảy, mười bảy tháng Hai năm bảy chín, anh vẫn đi học bình thường. Các tiết học vẫn trôi qua êm ả, không có gì đặc biệt. Về mùa đông, Hà Nội và Mátxcơva chênh nhau sáu tiếng đồng hồ. Phải đến bảy giờ tối, tức là vào khoảng một giờ sáng chủ nhật ở Hà Nội, chương trình Vrêmja của Đài truyền hình Mátxcơva mới có những thông tin đầu tiên về sự kiện bi thảm ấy. Hân choáng váng như vừa bị ai ném xuống một cái vực sâu. Những mâu thuẫn tích tụ lại từ bao nhiêu lâu nay đã bùng nổ thành một cuộc xung đột vũ trang rồi! Hân nhận ra, bọn Tàu lại đánh ta vào đúng ngày thứ bảy, như ở cuộc chiến Hoàng Sa hơn năm năm về trước. Chỉ khác là không phải ngày giáp Tết thôi. Ngẫu nhiên, hay chúng nó cũng chọn ngày?

Sáng hôm sau, báo Pravđa, cơ quan của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô và nhiều tờ báo khác đồng loạt đưa tin về cuộc chiến tranh mới ở Việt Nam cùng với bản tuyên bố của Đảng, Nhà nước và Đoàn chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô, đòi Trung Quốc rút ngay quân đội nước này ra khỏi Việt Nam. Hiệp ước hữu nghị Việt Xô được Lê Duẩn và Brêgiơnhép kí hơn ba tháng trước đó đã không thiêng như người ta tưởng. Nó không thể ngăn được cuộc chiến tranh mà Đặng Tiểu Bình đã âm mưu phát động từ lâu với mục đích dạy cho Việt Nam một bài học. Nước xa không chữa được lửa gần. Và cuộc chiến lần này diễn ra một cách bất ngờ, khiến người dân và các đơn vị quân đội của ta ở nhiều nơi trở tay không kịp.

Tối hôm ấy, Cường ghé vào phòng Hân một lát. Cậu ta cho biết, vừa mới từ chỗ Sứ quán Trung Quốc về. Nhiều sinh viên Việt Nam tập trung ở đó, mang theo băng rôn, áp phích biểu tình chống quân Trung Quốc xâm lược. Họ la hét, ném những lọ mực, vỏ chai và gạch đá vào tường nhà của Sứ quán. Công an Liên Xô cưỡi ngựa, dắt theo những con chó bé tí teo để bảo vệ cơ quan ngoại giao của Trung Quốc tại Mátxcơva, ngăn chặn những hành động quá khích nếu có của đám người biểu tình. Nhưng không sự cố nào xảy ra và cũng không một cán bộ, nhân viên nào của Sứ quán Việt Nam có mặt.

Hân pha cho Cường một cốc nước chè đường. Cậu ta hít hà, dùng cả hai bàn tay ôm lấy cốc nước còn đang bốc hơi để sưởi ấm những ngón tay giá lạnh.

– Anh Hân này, theo anh thì cuộc chiến tranh này sẽ đi đến đâu, liệu có kéo dài lắm không? Ý đồ thật sự của bọn Trung Quốc là gì?

Hân khẽ nhún vai một cái:

– Chịu! Anh làm sao mà biết được. Nhưng theo anh thì… có lẽ cũng không lâu đâu.

– Tại sao hở anh?

– Tại vì… – Hân hơi trầm ngâm một lát. – Cuộc chiến tranh xâm lược nào cũng đều phải nhắm tới ba mục đích là chiếm đất, giành dân và xây dựng chính quyền tay sai hoặc áp đặt chế độ cai trị. Nhưng hoàn cảnh, thời thế bây giờ không cho phép Trung Quốc làm việc đó. Nó có muốn cũng không làm được. Không phải tự nhiên mà Đặng Tiểu Bình chỉ tuyên bố dạy cho Việt Nam một bài học chứ không phải là cái gì khác. Theo anh, đây là cuộc chiến tranh tàn phá, hủy diệt nhưng bước tiếp theo như thế nào thì chưa biết. Có lẽ phải căn cứ vào những diễn biến trên chiến trường, tất nhiên là sẽ vô cùng khủng khiếp vì nó chứa đụng bao nhiêu là mâu thẫn bấy lâu nay… Bọn Tàu mà!

– Nhưng em không hiểu…

– Lí do chính, – Hân khẽ ngắt lời Cường. – Là mình đã ngả theo Liên Xô chứ không chịu nghe theo nó, từ việc giải phóng miền Nam đến cải tạo công thương nghiệp ở Sài Gòn. Mà giới tư sản trong ấy, nhiều người là dân gốc Hoa… Sai lầm ngoài Bắc từ những năm năm mươi lại được bê nguyên xi vào miền Nam mà áp dụng… Rồi vấn đề Campuchia nữa. Vì thế nó mới cho mình là vong ơn bội nghĩa, phải đánh thôi.

Như không kìm được nữa, Hân bỗng hăng lên nói liền một mạch:

– Bây giờ thì Hiệp ước Hợp tác hữu nghị toàn diện với Liên Xô… Nếu đúng là nó định xâm chiếm mình lâu dài thì đã không nói công khai như thế. Hơn nữa, lực lượng đâu, tiền của đâu! Em đừng quên là Trung Quốc còn rất nghèo, cho dù nó có vũ khí hạt nhân. Nhưng chắc chắn nó sẽ còn phá mình rất lâu. Dân mình sẽ còn rất khổ, mà mình thì chẳng thể nào bưng cái đất nước Trung Hoa ấy vứt đi đâu được.

– Có lẽ đúng như vậy thật, – Cường khẽ gật đầu.

– Chỉ thương cho dân mình, vừa mới qua một cuộc chiến tranh, cứ tưởng đã có được hòa bình vững chắc trong khi khó khăn là thế… – Hân buồn bã tiếp. – Nhưng trong chuyện này, anh có cảm giác hình như các ông lớn nhà mình hơi chủ quan thì phải. Tưởng kí được Hiệp ước với Liên Xô rồi thì bọn Tàu nó không dám làm gì mình nữa. Còn lâu!

Vào lúc nói ra những câu ấy, Hân không biết là chỉ mấy tháng sau, Hoàng Văn Hoan sẽ bỏ chạy sang Trung Quốc, tự mình chống lại toàn dân tộc. Không thể nào tưởng tượng được. Nguyên viên Bộ Chính trị đấy! Nguyên đại sứ đặc mệnh toàn quyền đầu tiên của Việt Nam tại Trung Quốc đấy!… Phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội[75]. Mà leo được lên những chức vụ ấy có dễ đâu! Phải trải qua hàng chục năm trời hoạt động bí mật, bị bắt bớ tù đày, vào sinh ra tử…

Hân lại nhớ đến dự đoán của Hiển cách đây gần bốn năm. Không ngờ linh cảm của cậu ta lại sớm trở thành hiện thực đến thế! Nhưng không biết Hiển có bị ảnh hưởng gì nữa không sau cái vụ “sai phạm nghiêm trọng” ấy? Một anh chàng tha thiết cháy bỏng ước mơ được kết nạp Đảng, được đi học sĩ quan và phục vụ lâu dài trong quân đội, có ngày giày da súng ngắn về làng… Nhưng tất cả bỗng nhiên sụp đổ tan tành chỉ vì câu nói đầy cảm tính. Chỉ tiếc là, tại sao có những việc, người dân thấp cổ bé họng cũng nhìn ra được nhưng ở trên tít mù cao thì lại không? Hay người ta có biết nhưng lại cố nói khác đi hoặc bưng bít vì những nguyên nhân nào đó?

Không hiểu vì lí do gì nữa, nhưng Lệnh Tổng động viên của ta vừa được đưa ra thì Trung Quốc cũng tuyên bố rút quân. Qua những thông tin ít ỏi và rất muộn từ bên nhà, Hân biết có rất nhiều người chết, nhiều làng mạc, thị xã bị thiêu hủy, đời sống người dân vô cùng khốn khó. Nhưng cơ cực nhất vẫn là những người lính nhiều lúc cơm không đủ ăn, nước không đủ uống, còn khổ hơn cả thời chống Mĩ. Từ Bắc Kinh, Hoàng Văn Hoan vẫn ra rả kêu gọi người dân Việt Nam vùng lên chống lại “bè lũ Lê Duẩn – Trường Chinh – Phạm Văn Đồng”.

Cuộc chiến vẫn chưa dừng lại sau khi địch đã rút quân mà nó còn kéo dài thêm nhiều năm nữa. Chỉ một buổi sáng tháng Bảy năm tám tư, hơn sáu trăm người lính Việt Nam, phần lớn mới mười tám mười chín tuổi đã hi sinh trên mặt trận Vị Xuyên, tỉnh Hà Tuyên, (sau này trở lại tên cũ là Hà Giang). Mười bốn tháng Ba năm tám tám, Trung Quốc đánh chiếm Gạc Ma và một số bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa. Theo lệnh cấp trên, bên ta không được phép nổ súng, nhằm tránh việc quân địch lấy đó làm lí do gây chiến tranh tổng lực. Sáu mươi tư cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam bị tàn sát, xương máu hòa vào biển cả, chưa kể những người đã hi sinh gần khu vực đó. Và ngay cả sau khi hai bên đã tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao thì tiếng súng vẫn chưa ngừng nổ trên biên giới mà vẫn còn tiếp tục kéo dài thêm nhiều năm nữa.

Dường như chẳng có ai dám công khai nhắc nhớ gì chuyện ấy. Báo chí, phát thanh và truyền hình cũng vậy. Sống giữa Thủ đô mà Hân cũng như bao nhiêu người khác đều không biết đến những vụ việc kia. Cứ như là không có gì xảy ra! Và cũng không ai biết tại sao lại thế. Chỉ có điều hơi lạ, là ngay sau khi cuộc chiến tranh biên giới phía bắc nổ ra, người ta đã cho giải tán luôn khoa tiếng Trung ở các trường đại học ngoại ngữ và sư phạm ngoại ngữ, đẩy hàng loạt giảng viên bộ môn ấy vào tình trạng sống dở chết dở. Không còn việc làm, các thầy cô chỉ được hưởng bảy mươi phần trăm mức lương cơ bản vốn đã quá thấp rồi. Nhiều người đành phải quay ra kiếm sống bằng cách làm hàng gia công, cuốn thuốc lá điếu hoặc buôn bán nhì nhằng. Càng khó hiểu hơn, khi người ta còn giấy trắng mực đen đưa vào Hiến pháp, xác định Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp của nhân dân Việt Nam, để sau đó ít năm lại phải xóa đi điều ấy!

 

Trái ngược với những thông tin chính thống trên báo Đảng, lại có người miêu tả cuộc chiến ở các tỉnh biên giới ấy theo cách hoàn toàn khác. Vào một ngày hè năm đó, Hân được giao nhiệm vụ đại diện cho đơn vị đi lên Sứ quán để nghe nói chuyện thời sự. Thì đi! Anh không hiểu tại sao các quan chức cấp cao của ta hay chọn Mátxcơva làm nơi nói chuyện thời sự đến thế mặc dù nếu ở trong nước, đừng có ai hi vọng được gặp các ông. Trừ phi các “đầy tớ nhân dân” cho phép! Thậm chí chỉ cần dừng lại trước cổng nhà các vị ấy một lát thôi là đã có người ra đuổi, cho dù là nhẹ nhàng hay thô bạo. Hân cũng đã từng rơi vào tình trạng ấy khi chiếc xe đạp anh đang đi chẳng may bị tuột xích trước cổng nhà một ông mà mãi sau đó anh mới biết là đại tướng.

Vốn là người không thích thú gì chuyện chính trị khô khan, nhưng lần này, phần vì người ta đã phân công, phần vì diễn giả là một nhà thơ cực kì nổi tiếng, lại có tin đồn ông sẽ lên làm lãnh đạo ở cấp rất cao nên Hân đành phải đi nghe vậy. Trong một tâm trạng không phải là không háo hức xen lẫn tò mò. Ừ thì thử xem ông ấy là như thế nào. Biết bao nhiêu lời ca tụng và đồn đại từ trước đến giờ…

Hân đến, trong bộ áo quần tươm tất nhất lại còn thắt cà vạt đàng hoàng. Cái hội trường bé tí, giống như một nhà kho lúc này đã khá đông người. Phần lớn là cán bộ nhân viên Sứ quán và nghiên cứu sinh thì phải, rất ít sinh viên, vẻ sùng kính tôn thờ hiện rõ trên gương mặt. Hân, như thường lệ tìm một chỗ ở cuối phòng, bên cạnh đống ghế gấp mà người ta chưa dùng đến. Sau khoảng mươi mười lăm phút chờ đợi, cánh cửa ăn thông với gian phòng khác từ từ mở ra. Nhà thơ xuất hiện trong bộ com lê tài chính[76] không cà vạt và chiếc sơ mi trắng cũng chẳng lấy gì làm mới. Trước cái nhìn ngưỡng mộ của mọi người, diễn giả hơi mỉm cười, lên tiếng:

– Chào các đồng chí! Tôi là tôi đây.

A, là ông đấy ư? Hân thầm nghĩ. Một con người hơi thấp bé, mới khoảng trên dưới sáu mươi. Tướng ngũ đoản với cái đầu hơi nghênh nghênh và mái tóc vẫn còn đen, không biết có phải do thuốc nhuộm hay không. Người lãnh đạo công tác văn hóa tư tưởng bao nhiêu năm nay của Đảng. Người đã từng hết lời ca ngợi Liên Xô, Trung Quốc, Xtalin, Mao Trạch Đông… nhưng khi cần thì cũng chẳng ngại ngần gì mà không phê phán nặng nề, thậm chí còn mỉa mai cạnh khóe cả một số nhân vật đã có thời được ông coi như thánh sống. Nhưng hơn hết, ông là người đã khiến không ít văn nghệ sĩ lâm vào cảnh khốn cùng vì những sai phạm về quan điểm tư tưởng và chống Đảng qua vụ Nhân văn – Giai phẩm và nhiều vụ khác. Dám đòi trả lại quyền lãnh đạo văn nghệ cho văn nghệ, chống lại quan điểm văn nghệ phải phục vụ chính trị, rồi lại đòi tự do sáng tác, đòi tự do dân chủ… Thế chẳng lẽ Đảng lãnh đạo thì không tự do, dân chủ à? Đúng là bọn này ăn phải bả của nòi phản động rồi! Phải dẹp ngay lập tức, không thì loạn hết!

Người bị coi là kẻ đầu têu trong vụ Nhân văn – Giai phẩm từng làm thứ trưởng trong Chính phủ những ngày vừa thành lập. Ông phải chịu mức án mười lăm năm tù. Và đó có lẽ là người Việt Nam duy nhất không hề biết đến cuộc chiến tranh phá hoại do Mĩ gây ra. Cũng không biết nó đã kết thúc, sau đó là giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Chế độ giam giữ của ta mới thật đáng nể làm sao! Đến độ có trường hợp hai bố con lần lượt bị bắt, bị giam cách nhau chỉ đúng một bức tường mà suốt mấy năm trời vẫn không biết người thân của mình nằm ngay bên cạnh!  

Từ một trung niên đang tràn trề sức lực đến khi ra tù, vị thứ trưởng ngày xưa đã biến thành một ông già lẩn thẩn, không biết làm thế nào để tái hòa nhập với cuộc đời. Nhiều người khác, tiếng là không bị tù lấy một ngày nhưng bị khai trừ Đảng, bị đuổi ra khỏi các cơ quan nhà nước, phải đi lao động cải tạo… Công an theo dõi thường xuyên. Tất cả đều bị cấm viết, cấm dịch đến hàng chục năm trời; mà nếu có viết hay dịch thì cũng chẳng ai dám in cho. Vì thế, để có thể tồn tại, một số người đành phải bấm bụng viết chui, dịch chui dưới những cái tên khác. Không có gì hết ngoài cái sổ gạo mười ba cân và phiếu thực phẩm loại thấp nhất, dành cho dân thường. Mỗi tháng được mua đúng ba lạng thịt và ba lạng rưỡi đường theo giá nhà nước, không hơn. Một bữa ăn ngon cũng đã là cả một điều ao ước. Ngồi đọc sách, đói quá cũng chỉ dám mơ đến nửa chiếc bánh mì.

Sau vụ án Nhân văn – Giai phẩm động trời, còn có bao nhiêu vụ khác ở một số nơi, cho dù quy mô nhỏ hơn nhưng mức độ oan khốc thì chẳng kém. Trong đó, đau xót nhất có lẽ là chuyện xảy ra với tác giả cuốn tiểu thuyết Vào đời. Nhà văn nổi tiếng ấy từng đeo quân hàm thượng tá trước khi chuyển sang làm giám đốc nhà xuất bản. Được biết đến như một nhà văn quân đội tài hoa, nhưng sau khi viết và cho in cuốn tiểu thuyết ấy, ông đã bị đánh cho tơi tả vì dám bôi đen xã hội, cho thấy một cái nhìn méo mó về cuộc sống, xuyên tạc hiện thực xã hội xã hội chủ nghĩa, v.v. Mà nào có gì đâu, tất cả chỉ vì tác giả dám kể lại bi kịch của một cô gái lỡ có thai với một gã sở khanh, bị bỏ rơi và đày đọa ở công trường. Tất nhiên, bên cạnh đó còn vài chuyện không hay khác mà sau này người ta gọi chung là tiêu cực.

Nhà văn bị mất hết tất cả. Ít lâu sau, ông phát bệnh tâm thần. Có lần, người ta nhìn thấy ông cầm một chiếc bô đi trên phố Hàng Bài, Hà Nội. Hỏi, thì ông đáp là đi họp Hội nhà văn. Rồi một buổi sáng mùa đông, người dân ở khu phố nọ bắt gặp một ông già rất khả nghi, cứ quẩn quanh bên những dây phơi quần áo của họ. Mấy gã thanh niên liền túm lấy và xúm vào đánh cho ông già một trận. Mất nhiều lần lắm rồi! Mãi vẫn không tìm ra thủ phạm! Ú a ú ớ không biết nói thế nào, nhà văn già tâm thần ấy đã lĩnh cả một trận đòn hội chợ. Và chỉ đến khi ông trút hơi thở cuối cùng, mới có người chợt nhận ra đó chính là tác giả Vào đời hai mươi mấy năm về trước.

Kể cũng khôi hài, là sau đổi mới, khi một số nạn nhân trong vụ án ngày xưa được khôi phục hội tịch thì có người lại khoe khoang quá khứ từng dính dáng đến Nhân văn – Giai phẩm và coi đó như một niềm tự hào. Có người, không dính dáng gì nhưng cũng cứ nhận bừa như thể cho oai. Nhưng đó là những chuyện về sau. Còn bây giờ, trong cái hội trường chật chội của Sứ quán Việt Nam tại Mátxcơva, Hân đang nóng ruột chờ nghe một lãnh đạo cấp rất cao chỉ giáo. Bằng chất giọng miền Trung ấm áp, nhà thơ bắt đầu hỏi mọi người muốn nghe ông nói về vấn đề gì, tỏ ý ngạc nhiên vì “Các đồng chí không đọc báo à mà lại muốn nghe tôi nói về chiến tranh biên giới phía bắc”, “Có biết đèo Hải Vân ở đâu không”; chấn chỉnh một người tỏ ý khinh miệt, gọi Trung Quốc là Tàu.

           – Chúng ta là những người chiến thắng, rất văn minh. Không việc gì phải dùng cái từ như thế, cứ gọi chúng nó là Trung Quốc cho đàng hoàng, nhé!

           Không giấy tờ, không sổ sách như vẫn thường thấy ở nhiều người khác, sau dăm ba câu có tính chất nhập đề, nhà thơ bắt đầu nói về cuộc chiến mà theo ông, vô cùng ác liệt nhưng phía ta hoàn toàn không bị bất ngờ vì đã đi guốc vào bụng chúng nó từ lâu rồi. Quân địch, có binh hùng tướng mạnh được huy động từ mấy đại quân khu, tưởng ăn tươi nuốt sống được Việt Nam. Nhưng mới chỉ sau chưa đầy hai chục ngày đã thiệt hại nặng nề, bị quân và dân ta đánh cho tan tành xác pháo, phải vội vàng tháo chạy. Chứ không á, làm gì có chuyện nó rút quân!

– Quân Trung Quốc ấy mà, nó đánh ta theo kiểu là như thế này… Đầu tiên, cho bọn dân binh đi trước, lùa theo cả lừa ngựa để thăm dò xem lực lượng quân ta như thế nào, bố phòng ở những đâu, hỏa lực ra sao. Nhưng thực chất là một thứ bia đỡ đạn cho lính chính quy của chúng. Sau đó, kèn sừng dê thổi toe toe một hồi, ra hiệu cho bọn bộ binh tiến lên. Quân ta cứ mặc kệ, chờ đến lúc nó lọt vào tầm súng rồi mới đồng loạt khai hỏa. Thế là đứa chết, đứa bị thương, lăn hết cả xuống chân đồi. Chúng nó gọi điện cho pháo binh bắn vào vị trí của quân ta, nhưng mình có công sự, hầm hào, chúng nó bắn chỉ như gãi ghẻ, ăn thua gì đâu! Đến lúc chúng nó lại tràn lên, bị pháo binh ta dập cho tan tác, thế là cha con lại ôm đầu máu chạy về phía bên kia biên giới…

Cả căn phòng lặng đi như đang chăm chú uống lấy từng lời vàng ngọc. Một số vị nghiên cứu sinh lại còn khẽ gật gù tán thưởng và làm ra vẻ ghi chép cẩn thận lắm. Xem ra, họ diễn thật là tài! Nhưng với bản tính hay cãi ngầm, Hân chỉ còn thiếu cái nước kêu lên thành tiếng: trời đất ơi, chẳng lẽ đánh Tàu dễ vậy ư? Mà… sao ông không nói gì đến tội ác của quân Trung Quốc? Báo chí của ta đã từng tố cáo hàng loạt vụ tàn sát dã man do chúng gây ra tại những điểm nằm sâu trong đất Việt Nam. Chính tờ Nhân Dân cũng đưa tin về việc lính Trung Quốc thẳng tay bắn giết hơn bốn mươi đồng bào ta, phần lớn là người già, phụ nữ và trẻ em rồi vứt xuống giếng ở Hòa An, Cao Bằng. Bọn địch còn ném thủ pháo, đổ xăng và dùng súng phun lửa thiêu sống tất cả những ai ẩn náu trong pháo đài Đồng Đăng ở Lạng Sơn. Biết bao nhiêu nhà máy, cơ quan, trường học… bị tàn phá trong cuộc chiến. Sự thật là như thế, hay báo chí nói điêu? Và đâu phải tự nhiên mà nhiều cơ quan nhà nước, đoàn thể, người dân… ở miền Bắc phải rục rịch lo đi sơ tán!

– Còn chiến thuật biển người của nó ấy mà, các đồng chí có biết là như thế nào không? Không à? – Nhà tư tưởng nhìn xuống người nghe một lát như để thăm dò rồi mới tiếp. – Là nó xua rất đông quân lính lên cùng một lúc. Như biển ấy! Chết hết lớp này thì lớp khác lại xông lên. Đất nước gần một tỉ người[77] cơ mà, có chết đến cả triệu thì nó cũng đâu có tiếc… Đến nỗi lính mình có anh cũng hoảng. Vì chúng nó đông quá, bắn đến hết cả đạn, súng đỏ cả nòng mà nó vẫn xông lên… Thế là quân mình nảy ra sáng kiến, lấy ngay súng đạn của chúng nó mà bắn trả. Rồi quân tiếp viện của mình đến, cả lũ chúng nó lại chạy dài… Lại chết không biết bao nhiêu mà kể.

Sang đến vấn đề kinh tế và những khó khăn thiếu thốn ngày càng trầm trọng, nhà thơ tuyệt nhiên không đả động gì đến đường lối, chủ trương hay chính sách của Đảng và nhà nước. Kể cũng phải, vì người ta đã nhiều lần tuyên bố chắc như đinh đóng cột rằng Đảng ta không bao giờ phạm sai lầm, dù nhỏ. Nếu có sai sót gì thì đó chẳng qua là do những người thực hiện ở bên dưới thôi. Phải rất lâu sau, hai chữ dù nhỏ mới được bỏ đi. Rồi dần dần tiến đến việc thêm vào cái mệnh đề cũ được bốn từ về mặt chiến lược. A, có một sự thay đổi rồi đây. Đảng ta không bao giờ phạm sai lầm về mặt chiến lược. Như vậy cũng có thể hiểu, là đã sai lầm nho nhỏ. Nhưng liệu có đúng thế không? Chả ai dám cãi lấy một lời. Nguy hiểm lắm! Chẳng may bị người ta chụp cho cái mũ quan điểm lập trường hay phản động thì chết!

Vị chiến lược gia về kinh tế quay ra trách dân mình không chịu cần cù lao động thì đói khổ là đúng rồi, còn kêu gì nữa! Ông phê phán việc người dân không tích cực khai hoang, trồng thật nhiều cây dong riềng. Dùng để ăn rất tốt, mà chăn nuôi lợn lại càng tốt nữa! Nước mình thiếu gì đất trống, đồi núi trọc có thể trồng được cây dong riềng! Nhà thơ  tỏ ý tự hào vì Đảng đã không để cho một người dân nào chết đói. Rồi ông cho rằng, ở xứ nhiệt đới, bốn mùa cây lá xanh tươi mà không chịu ăn hoa quả và các loại màu thì thật là có tội. Ông cũng không hiểu tại sao người Việt Nam mình lại không thích ăn cà rốt, loại củ có chất carôten rất tốt cho sức khỏe, nhất là đôi mắt. Càng khó hiểu vì nông dân ta không cố gắng trồng thật nhiều bí ngô. Quả bí ngô hay còn gọi là bí đỏ, to như thế, có chất biđoten (đến đây thì nhà thơ chơi chữ) gấp hàng bao nhiêu lần carôten ấy chứ!

Ngồi bên dưới, Hân càng nghe càng cảm thấy hoang mang, thất vọng. Anh không biết liệu có vị lãnh đạo của một đất nước nào lại chê dân mình lười nhác hay không, nhưng chắc là chẳng có ai lại tự hào vì đã không để cho người dân chết đói. (Phải rất lâu sau, Hân mới biết rằng trong những năm tháng ấy, ở chỗ này chỗ kia thỉnh thoảng vẫn có người chết vì đói và kiệt sức). Còn ăn hoa quả ư? Hân vừa mới được thông tin, ở bên nhà, một quả chuối tiêu lúc này có giá bốn hào. Mức lương trung bình của công nhân chỉ vào khoảng bốn, năm mươi đồng một tháng. Tiền đâu mà ăn! Còn bố mẹ, vợ con nữa chứ! Màu, thì dân mình vẫn ăn cơm độn khoai, độn sắn, độn ngô, hạt bo bo… đấy thôi! Hay là bỏ quách ngay gạo đi mà chuyển sang ăn ngô, khoai, sắn cho bữa ăn thêm màu sắc? Nhưng liệu có bao giờ nhà thơ ăn những thứ ấy không? Hay nồi cơm của cả nhà ông chỉ được nấu bằng loại gạo tám thơm mua ở cửa hàng dành riêng cho cán bộ cấp cao với những thực phẩm bổ dưỡng, ngon lành?

Nhà lãnh đạo vẫn tiếp tục nói, nhưng Hân không còn tâm trí đâu để mà nghe nữa. Suy nghĩ của anh lúc này đã trôi về tận Việt Nam, nơi có những người lính vẫn ngày ngày đối mặt với gian khổ và chết chóc, một bước đi cũng có thể giẫm phải mìn; bị quân địch bắt cóc, thủ tiêu hoặc làm mồi cho những họng súng bắn tỉa của chúng. Vậy mà ở đây, người ta lại đang nói đến một cuộc chiến, trong đó quân ta luôn luôn ở thế chủ động, áp đảo hoàn toàn. Còn quân địch thì cứ như là một lũ ô hợp và hèn nhát, không biết đánh đấm gì, hễ động giao chiến là bỏ chạy. Và bọn Tàu buộc phải rút quân chỉ là do chúng ta chiến đấu cực kì dũng cảm, ngoan cường khiến chúng thất bại hoàn toàn. Đến đây thì nhà thơ đã vô tình lặp lại cái từ được coi là miệt thị mà chính ông đã nhắc người khác không nên dùng, lúc ông mới bắt đầu bài nói.

Câu chuyện chuyển sang phần ca ngợi tình đoàn kết hữu nghị và sự hợp tác chặt chẽ, toàn diện giữa hai Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam – Liên Xô. Hân nhận thấy nhà thơ nói về điều này rất ngắn và cũng rất chung chung. Hẳn là do ảnh hưởng từ cái vụ ông hùng hồn kết tội Liên Xô xét lại, Trung Quốc giáo điều đây! Bao nhiêu người, trong đó có cả tướng quân đội và cán bộ cấp cao bị bắt đi cải tạo vì xét lại và chống Đảng. Sinh viên thuộc các chuyên ngành khoa học xã hội và văn hóa nghệ thuật đang học tại Liên Xô đều bị gọi về nước hết. Phải đi học chính trị để thay đổi nhận thức, quan điểm, hiểu rõ tình hình mới, nhiệm vụ mới để còn phấn đấu… Bây giờ mà ca ngợi nhiều quá thì cũng ngượng mồm. Hân đoán là ông nghĩ thế.

Vị lãnh đạo cấp cao khuyên mọi người nên chịu khó học tập, tu dưỡng đạo đức thật tốt để sau này còn trở về, góp phần xây dựng đất nước. Ông cũng cho biết là mình vừa đi thăm một trung tâm lai tạo giống cây trồng ở ngoại ô Paris của Pháp. Ở đó, người ta cho ra đời giống ngô có thể đạt năng suất bảy tấn một héc ta, và ông khẳng định: “Nếu cho tôi học độ một tuần thì tôi cũng có thể làm được”.

Hân hơi giật mình, nhìn sang phía mấy vị nghiên cứu sinh, những người vẫn được coi như giới tinh hoa của nước nhà. Họ cũng đang ngơ ngác nhìn nhau, có lẽ do sợ nghe nhầm, nhưng không một ai dám hỏi lại hay lắc đầu tỏ ý nghi ngờ. Liệu có thể tin được không, nếu cho ông học một tuần thì ông cũng có thể làm được, nghĩa là sẽ cho ra đời một giống ngô mới có năng suất bảy tấn trên một héc ta. Đúng là một thiên tài! Nhưng nếu vậy thì tại sao các nhà khoa học trên toàn thế giới lại phải mất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc đến thế để có thể làm được một điều gì đó!

Anh chàng cựu chiến binh cố tự thuyết phục mình rằng nhà thơ vừa mới nói đùa. Nhưng không, ông có vẻ nghiêm túc lắm. Cũng tuyệt nhiên không có ý muốn chữa lại điều vừa nói. Vẫn cái đầu nghênh nghênh, ông đưa mắt bình thản nhìn mọi người như để thăm dò và khẳng định thêm lần nữa. Ô! Thế thì tại sao ông không làm một nhà bác học nông nghiệp để giúp đỡ toàn thế giới mà lại chọn nghề tuyên huấn ở nước mình? Hay theo ông, việc dạy dỗ con dân quan trọng hơn là giúp người ta no bụng? Hân tin rằng, nếu nhà thơ có thể tạo ra được giống ngô cao sản kia thì hàng trăm triệu con người, mà trước hết là nhân dân Việt Nam yêu quý của ông sẽ chẳng còn lo bị thiếu ăn và ông sẽ đoạt giải Nôben ngay lập tức. Nhưng không, ông vẫn là ông và đang đứng ở đây, trong bộ com lê không lấy gì làm đẹp.

Kết thúc buổi nghe nói chuyện, Hân buồn bã nhận ra, đã sụp đổ, thần tượng một thời của anh và biết bao nhiêu người khác cùng thế hệ. Nhưng sau đó mấy hôm, một cán bộ của Sứ quán phụ trách công tác sinh viên lại đem in băng ghi âm cuộc nói chuyện ấy thành tài liệu tuyên truyền rồi gửi đến các trường có người Việt Nam đang theo học. Chừng một tháng sau, ông bị tuýt còi vì chưa xin phép lãnh đạo đã tự ý phổ biến tài liệu ấy. Còn Hân, trong lúc chầm chậm xuống ga tàu điện ngầm để về nhà, đã thầm nghĩ rằng thôi, từ nay mình không cần phải nghĩ đến việc phấn đấu vào Đảng nữa. Cũng không nên đọc thêm cái gì của ông này. Cuộc đi nghe nói chuyện, rốt cuộc đã giúp cho Hân mở mắt ra và hiểu được thực chất nhà thơ ấy là như thế nào. Hình như lên đến một cấp nào đó, người ta sẽ nghĩ rằng mọi lời lẽ của mình thảy đều là chân lí nên họ muốn nói gì cũng được, muốn nói thế nào cũng được. Nhà thơ thần tượng kia chính là một người như thế.

 

*

*          *

 

Cái tin Phương Linh cưới chồng đến với Hân một cách tình cờ, khiến anh không khỏi ngạc nhiên. Chiều đó, trong lúc đang lang thang trên phố Arbat[78] thì anh gặp Huyền Mi, cô bé học năm thứ hai, cùng khoa với Phương Linh. Cô cho biết chị Linh vừa mới “tổ chức” được khoảng mươi ngày. Đám cưới diễn ra gọn nhẹ, không có bố mẹ, họ hàng của cô dâu chú rể vì chẳng ai làm cách nào để có thể sang Mátxcơva được. Thay vào đó là những người đại diện cho hai họ, đơn vị, nhà trường cùng với một số bạn bè thân thiết. Chú rể tên là Quân, hơn cô dâu một tuổỉ, quê gốc Nghệ An nhưng từ nhỏ đã sống và học hành ở Hà Nội. Sau khi tốt nghiêp loại ưu, Quân được chuyển tiếp nghiên cứu sinh và vừa bảo vệ xong luận án phó tiến sĩ, đến tháng bảy này sẽ nhận bằng rồi lên đường về nước. Còn Phương Linh, phải hơn một năm nữa.

Hân còn muốn hỏi thêm thì Huyền Mi đã vội xin lỗi vì cô bạn cùng đi đang đợi. Hân nhìn theo hai cô gái Việt Nam bé nhỏ mà cảm thấy nao lòng. Anh không biết nên vui hay buồn cho Phương Linh nữa. Dù sao, cô cũng hai mươi bảy, hai mươi tám rồi còn gì. Cái tuổi không còn được coi là trẻ. Cũng lo. Nhưng Hân vẫn băn khoăn một lẽ, liệu Phương Linh có vội vã quá không, hay đây được coi như một hành động trả thù cho tình yêu đối với Cường? Nếu cô nghĩ như vậy thì thật là tai hại bởi một cuộc hôn nhân như thế sẽ khó mà dẫn đến hạnh phúc lâu dài. Hân chỉ còn biết cầu mong cho những chuyện xảy ra ở kí túc xá Khoa dự bị sẽ nhanh chóng trở thành dĩ vãng, Phương Linh lấy lại được thăng bằng và bình yên trong hạnh phúc của cô. Ồ, hay là cô ấy có bầu nên phải cưới? Chuyện ấy có thể xảy ra lắm chứ!

Qua mấy năm quen biết và gần gũi Phương Linh, Hân nghiệm thấy cô không thể sống mà thiếu đi sự quan tâm, chăm sóc của những người khác giới. Nhưng nếu vậy thì gay rồi! Phương Linh sẽ xoay xở thế nào khi chỉ có một thân một mình ở đây sau khi chồng cô về nước? Rồi nếu cô lại sinh con thì đứa bé sẽ thế nào? Bây giờ đã là cuối tháng Năm, chẳng mấy chốc sẽ nghỉ hè, sau đó là một năm học mới… Ai mà biết được cái gì sẽ xảy ra trong suy nghĩ và tình cảm của một thiếu phụ trẻ xa chồng vừa mới cưới chưa được bao lâu. Lại nữa, đây không phải là Việt Nam, càng không phải đang thời chiến. Phương Linh sẽ làm gì để chống lại nỗi cô đơn trong những đêm đông tuyết trắng và những ngày hạ nắng vàng? Mátxcơva bao nhiêu đôi lứa có nhau…

 

Nỗi băn khoăn của Hân đối với Phương Linh vẫn đang còn đó thì một buổi sáng chủ nhật, hai vợ chồng cô đến thăm anh. Đúng vào lúc thang máy từ phía trên đi xuống vừa dừng lại ở tầng một, Hân bước ra thì thấy Phương Linh đứng đó, mỉm cười vui vẻ:

– Anh Hân! Anh định đi đâu vậy?

– A, Phương Linh! Anh xuống đây xem có thư không. – Hân đáp và gật đầu chào anh chàng đứng cạnh cô. Cậu ta cũng mỉm cười chào lại. – Em có khỏe không?

– Dạ, khỏe! Đây là Quân, chồng em, – Phương Linh giới thiệu. – Còn đây là anh Hân… Trời, thế mà bọn em đang lo anh không có nhà chớ.

Hai người đàn ông bắt tay nhau làm quen. Hân vờ trách Phương Linh:

– Ái chà, có người cưới chồng mà không mời tôi đấy nhé!

– Anh thông cảm, tụi em tổ chức gấp quá mà… – Phương Linh nói với vẻ chân thành. – Nhân dịp ông bác của Quân qua đây công tác, làm đại diện cho nhà trai luôn. Hôm nay em sang tạ lỗi với anh đây!

– Có gì đâu mà tạ lỗi, anh chúc mừng hai em!

Hân bấm nút thang máy, cùng với vợ chồng Phương Linh đi lên. Nhưng vừa mới tới tầng hai, chiếc ca bin đã khựng lại vì có ai đó bấm nút dừng từ bên ngoài. Một bàn chân đi giày thể thao Adidas thò vào, giữ cho cánh cửa không đóng lại vội. Rồi… trời đất ơi, ai mà biết được tại sao Cường lại hiện ra vào đúng lúc này với cả một chồng sách cao ngất ngưởng được cậu ta ôm trước bụng. Hân còn chưa biết nói gì thì Phương Linh đã mỉm cười gượng gạo, mặt bỗng đỏ lên:

– A, Cường đấy à?

– Ô, xin chào! Bấm cho Cường lên tầng mười lăm với! – Chàng trai gật đầu về phía Phương Linh và cô gái liền nhấn nút.

– Cường làm gì mà ôm nhiều sách dữ vậy? – Phương Linh làm ra vẻ thản nhiên.

– Đem lên phòng đọc… Cường sắp phải thi rồi.

Hân giữ ý, không nhìn Quân cũng như Phương Linh mà quay sang Cường:

– Em sắp thi Kinh tế chính trị à?

– Vâng! – Cường gật đầu. – Hơn bảy mươi câu hỏi… Sắp chết luôn!

Thang máy đã dừng ở tầng mười hai của Hân. Anh nhường cho vợ chồng Phương Linh ra trước rồi ấn nút giúp Cường cho ca bin di chuyển tiếp:

– Lúc nào rỗi, lên chỗ anh chơi.

– Vâng!

Đi sau Phương Linh và Quân vài bước, Hân nhận thấy hai người không được đẹp đôi cho lắm. Dáng cao cao, hơi gầy lại đeo kính cận, điểm cộng của Quân có lẽ là ở chỗ cậu ta trông già hơn hẳn Phương Linh. Nhưng mặc dù có vẻ quan tâm, chăm sóc vợ đấy, anh chồng vẫn có cái gì đó không được tự nhiên cho lắm. Có lẽ là do Quân nhận thấy mình cần phải làm như thế, chứ không phải một cái gì đó như bản năng tự nhiên ở Cường. Nhưng dáng dấp, tác phong của Phương Linh không có vẻ gì gợi nên cảm giác về một phụ nữ có thai. Có lẽ cô ấy vội cưới không phải vì chuyện đó.

Ba người cùng bước vào phòng của Hân. Phương Linh nhìn qua khoảng nhân trung của anh rồi reo lên vui vẻ:

– A, được rồi… Thế mà em cứ sợ là anh không cần dùng đến cái này… – Cô lấy từ trong túi xách của mình ra một gói giấy vuông vức, đưa cho Hân. – Anh mở ra đi. Quà của bọn em tặng anh nhân ngày sinh đấy!

Hân mở gói giấy. Thì ra là một hộp dao cạo râu chạy điện. Phương Linh vừa ngó xem anh có râu không.

– Ơ, sao lại thế này… Còn lâu mới đến sinh nhật của anh mà… – Hân nhận lấy món quà. – Cám ơn hai em.

– Tụi em tặng trước, – Phương Linh cười vui vẻ. – Tại vì sợ đến lúc đó, chúng em lại bận. Mà Quân cũng sắp phải về nước rồi.

– Vậy thì thế này…, – Hân lấy từ túi áo ra, đưa cho Phương Linh một rúp. – Em cầm lấy hộ anh. Biết tại sao không?

– Biết! – Phương Linh hơi đỏ mặt. – Không ai lại đi tặng nhau dao kéo bao giờ. Nhưng đây là dao cạo râu kia mà!

– Đúng rồi! – Hân khẽ gật đầu xác nhận. – Nhưng dù sao, nó vẫn là dao…

– Anh thông cảm nhé, bọn em không biết mua gì nữa, – Quân vội thanh minh. – Mà… chẳng lẽ đến gặp anh lại đi tay không. Hơn nữa, đàn ông ai mà không phải cạo râu!

Hân cũng cười xòa:

– Ôi dào, chẳng qua cũng là một thứ duy tâm ấy mà! Người ta cứ cho đấy là biểu hiện của sự cắt đứt, chia li. Nhưng bao nhiêu người chia tay nhau có cần đến dao hay kéo gì đâu!

Câu nói của Hân rất vô tình, nhưng hình như cũng khiến Phương Linh hơi chạnh lòng một chút. Cô lảng sang chuyện khác:

– Anh thi xong chưa?

– Chưa, còn tận hai tuần nữa. – Hân ngồi xuống ghế và ba người bắt đầu uống nước chè.

– Bên em thì thi xong rồi. Để còn đi thực tập trước tốt nghiệp. Nhanh ghê!

Câu chuyện của ba người không kéo dài vì vợ chồng Phương Linh đang vội. Hân cảm ơn rồi tiễn họ ra thang máy. Anh không xuống theo vì Phương Linh bảo không cần và ca bin cũng đã đông người. Nếu Hân bước vào nữa, rất có thể chuông báo quá tải sẽ vang lên. Cũng may là vợ chồng Linh về ngay, chứ nếu họ ở lại lâu hơn thì Hân không biết sẽ xoay xở thế nào. Không mời cơm thì quá dở. Mà nếu mời thi… than ôi, trong túi anh chỉ còn có hơn ba rúp.

 

 

             Sáu

 

Mới đấy mà đã sang tháng Chín. Hân đã lên năm thứ ba và mùa thu vàng của nước Nga lại đang về. Chưa lạnh lắm, nhưng mọi người đã phải mặc áo khoác mỏng lúc ra đường. Như thường lệ, ngày ngày Hân vẫn đến trường và nhiều hôm anh chủ động đi bộ để được đắm mình vào bầu không khí ẩm ướt trong lành buổi sớm. Nhất là được băng qua những con đường phủ đầy lá vàng, nghe tiếng chim lách chách đâu đây và ngắm nhìn phố phường trong làn sương rất nhẹ. Đối với Hân, những lúc ấy Mátxcơva thật đẹp. Cảm xúc này hình như được tạo nên từ bản tính cô độc, hay buồn của anh cộng thêm ảnh hưởng từ bức tranh Mùa thu vàng của Lêvitan mà anh được biết đến qua ảnh chụp từ khi còn nhỏ. Và Hân càng choáng ngợp hơn khi đứng trước bản gốc của bức tranh này trong một bảo tàng nổi tiếng.

Một buổi chiều Hân vừa đi học về, còn đang chậm rãi cởi áo khoác và tháo giày ở bên ngoài thì Xêriôgia ló đầu ra gọi:

– Hân, ông có khách đây này!

Hân mỉm cười khi thấy ông bạn cùng phòng lại trốn học đi làm. Anh cố ý pha trò bằng cách chậm rãi phát âm cho thật chính xác một động từ rất ít khi dùng:

– Ông đang cảu nhảu càu nhàu gì thế?

– Tôi bảo là ông có khách đang chờ đây này! – Xêriôgia nói to lên như quát.

Hân hơi sững lại trong khung cửa khi nhìn thấy Phương Linh. Cô ngồi trên chiếc đi văng của anh, vẫn nhỏ bé, tự nhiên và xinh đẹp với nụ cười quen thuộc.

– A, Phương Linh đấy à? Em có khỏe không, lâu lắm rồi mới gặp! Em đến lâu chưa?

– Em vừa mới tới. May quá, cứ lo anh về muộn hoặc không có nhà…

– Em uống nước chè nhé! – Hân vừa nói, vừa xách chiếc ấm điện dưới gầm bàn. 

– Thôi, khỏi cần đi anh! – Phương Linh ngăn lại. – Em đang vội, mà sang đây cũng đang tính nhờ anh một việc.

– Việc gì thì cũng chờ anh một tí đã! – Hân cầm chiếc ấm, đi lấy nước rồi cắm điện. – Nào bây giờ thì em nói đi, anh đang dỏng tai lên rồi đây. 

– Thế này, anh Hân ạ… – Phương Linh đỏ mặt lên, hơi ấp úng.

Thì ra cô có một chiếc quần jean ở bên nhà mới gửi sang, định nhờ Hân bán giúp. Cô đang kẹt tiền, ngặt nỗi chẳng biết nhờ ai, nên đành phải tới tìm anh. Hân hơi trầm ngâm một lát rồi mới nói:

– Được, tưởng gì chứ việc ấy thì dễ ấy mà! Em cứ để đây, anh bán cho.

– Anh cố gắng giúp em, càng sớm càng tốt, anh à…

Nước đã sôi. Hân nhanh chóng pha trà, bỏ mấy viên đường[79] vào cốc rồi đưa cho Phương Linh.

– Em cứ yên tâm, uống nước đi. À, nhưng mà em định bán bao nhiêu?

Phương Linh lại hơi đỏ mặt lên, có vẻ như ngượng ngùng khi phải nói ra điều đó:

– Thì… tùy anh. Quần Levis, “sai” ba mươi ba. Anh bán được chừng nào thì bán…

– Thế này, Linh ạ, – Hân suy nghĩ rất nhanh – Cái quần này đẹp đấy, chắc là bán được không dưới một trăm bảy mươi rúp đâu. Nhân tiện anh đang có tiền đây, em cầm luôn hộ anh. Lúc nào bán xong, anh sẽ lấy lại sau. 

– Trời, anh cũng… thạo ghê hả anh Hân! – Phương Linh tỏ ý ngạc nhiên thật sự.

– Thạo gì đâu! Chẳng qua là anh biết có thể bán được, thế thôi. Ở đây vẫn có người bán như thế mà!

Hân lấy từ trong túi ra, đưa cho Phương Linh số tiền như anh vừa nói. Cô hơi ngần ngừ một lát:

– Cám ơn anh. Em cứ tưởng đâu như chỉ trăm tư, trăm rưởi gì đó là tốt lắm rồi chớ… Mà lỡ chẳng may, anh không bán được thì sao?

– Em cứ yên tâm đi mà. Đây là cỡ quần đẹp, cực kì dễ bán. Không phải lo gì hết.

– À, nhưng mà anh đừng nói gì với Cường đấy nhé! Em không muốn ai biết…

– Anh hiểu, – Hân khẽ gật đầu đồng ý ngay tắp lự. – Anh sẽ im thin thít như thịt nấu đông luôn!

Phương Linh cầm tiền nhưng vẫn chưa hết băn khoăn. Cô cũng vừa nhận thấy, Hân không hề có lấy một cái bóp đựng tiền. Còn Hân, anh chưa biết sẽ nhờ ai hoặc bán cho ai chiếc quần bò. Nhưng anh hiểu, Linh đã phải đến đây thì chắc chắn là vì cô chẳng còn biết nhờ ai nữa. Trước kia, những việc như thế này đều một tay Cường lo hết. Nhưng bây giờ thì không thể. Hân đưa tiền trước cho cô, vì anh vừa được lĩnh học bổng, lại thêm khoản tiền công khuân vác hơn một trăm rúp ở nhà máy rượu nhưng chưa dùng đến. Thêm vào đó, Hân cũng không muốn Phương Linh vất vả lặn lội sang đây thêm lần nữa vì cô bị viêm xoang rất nặng, nhiều khi nước mũi chảy ròng ròng. Mà trời thì đang chuyển lạnh và tuyết cũng sắp rơi rồi.

 

Mải nói chuyện với Phương Linh, Hân không biết trời đã sập tối và Xêriôgia biến ra khỏi phòng từ lúc nào. Có lẽ anh ta nghĩ, cô gái sẽ ngủ lại đây cũng nên. Hân đoán vậy trong lúc tiễn Phương Linh xuống dưới nhà.

Đúng như dự đoán của Hân, mãi sáng hôm sau Xêriôgia mới lò dò trở về, lại còn gõ cửa phòng cẩn thận. Hân ngạc nhiên:

– Ủa, sao ông biến đi đâu từ tối hôm qua đến giờ?

Xêriôgia mỉm cười, vẻ chân tình:

– Thì… để cho ông với cô ấy được tự nhiên.

– Ồ, có gì đâu mà! – Hân cười vui vẻ. – Tôi với cô ấy là chỗ anh em, bè bạn với nhau chứ đâu phải người yêu… Chúng tôi chỉ nói chuyện một lúc thôi, sau đó cô ấy về luôn. Thế đêm vừa rồi ông ngủ ở đâu?

Xêriôgia hất hàm, ra hiệu xuống tầng dưới:

– Ở chỗ con Natassa chứ còn đâu!

Không phải bạn cùng lớp! Nhưng Hân cũng biết cô này. Trẻ trung, xinh đẹp và có mái tóc vàng óng ả, hình như chưa đi với một anh da đen hay ngoại quốc nào. Thực lòng, Hân có cảm giác hình như những thiếu nữ Nga cặp bồ với người nước ngoài nói chung, phần lớn là các cô có học vấn thấp hoặc trung bình. Còn sinh viên đại học, có vẻ ít hơn thì phải. Hân hơi tò mò hỏi:

– Đêm vừa rồi ở phòng ấy có mấy người?

– Bốn!

– Thế… ông có làm gì ở đấy không? – Hân buột miệng và cảm thấy ngượng ngay với chính mình.

Xêriôgia có vẻ như không để ý gì đến chuyện ấy, hoặc giả anh ta coi một câu hỏi như vậy cũng chẳng có gì là lạ, nên chỉ mỉm cười tinh quái:

– Có chứ! Làm sao mà khác được!

– Còn ở giường bên?

– Tôi không biết.

– Thế thì hay nhỉ! – Hân khẽ thở dài và bây giờ thì đến lượt Xêriôgia tỏ ý ngạc nhiên:

– Thế… ông không có chuyện gì với cô ấy thật à? Cô ấy xinh xắn và dễ thương đấy chứ?

– Xinh và dễ thương cũng chưa đủ để yêu, ông đã hiểu chưa?

– Thì… tôi đâu có biết. Lúc đầu, lại còn tưởng cô ấy là học sinh phổ thông. Sau, cô ấy mới nói là đang học năm thứ năm rồi… – Xêriôgia vội phân trần khi thấy Hân có vẻ hơi cáu kỉnh.

– Không sao. Nhiều người cũng nghĩ thế mà. – Gã trai Việt Nam vội dàn hòa. – Nhưng giữa tôi và cô ấy không có gì đâu! Bận sau, nếu cô ấy đến đây thì ông cứ việc tự nhiên, không cần phải đi đâu hết trừ khi ông muốn ngủ ở phòng người khác.

Hân chấm dứt cuộc chuyện trò với Xêriôgia bằng cách khoác túi đựng sách vở lên vai rồi bước ra ngoài. Anh biết, những người dân Xô viết nói chung thường nhìn nhận sinh viên Việt Nam như một lũ người khắc kỉ, chỉ biết thu mình lại và hơi bí ẩn. Không thích tham gia các sinh hoạt tập thể, lễ hội, trò chơi… đã đành, lại còn không chịu luyện tập thể thao theo yêu cầu của trường lớp. Đặc biệt, đối với họ, tình dục dường như là một điều cấm kị: gần như chẳng có người bạn Xô viết nào phải lánh đi chỗ khác để cho các cô gái, chàng trai Việt Nam mượn phòng để ngủ với nhau bao giờ. Đây cũng chính là thắc mắc của Xêriôgia đối với Hân, nhưng anh không dễ gì giải thích. Mà giải thích thế nào? Chẳng lẽ chỉ đơn giản là người Việt Nam kín đáo và tế nhị, không muốn khoe khoang về chuyện ấy!

Những người như Xêriôgia làm sao mà hiểu được, con người Việt Nam thật sự là như thế nào! Đâu phải lúc nào cũng tất bật tay xách nách mang, mua mua bán bán, đi vội nói to… Cũng đủ các mánh lới, ngón nghề đấy chứ! Vấn đề chẳng qua là ở chỗ, một phần rất lớn trong số những kẻ xé rào biết che giấu những điều vụng trộm mà thôi. Và chừng nào những vụ xì căng đan còn chưa bị lộ ra, chừng ấy đương sự vẫn có quyền tự hào mình là người trong sạch, có thể rao giảng về đạo đức cho người khác. Như chính trị viên Yên của anh ngày xưa chẳng hạn. 

 

*

*          *

 

Việc bán chiếc quần bò, đối với Hân, té ra chẳng dễ dàng gì. Một trăm bảy mươi rúp là giá bán ở Mátxcơva mà chẳng ai có thể xơ múi gì vào đó. Nhờ hết người nọ đến người kia vẫn không xong, Hân còn đang loay hoay chưa biết tính sao, thì một hôm anh bị Nurlan, một gã người Gruzja ở tầng dưới của kí túc xá chặn lại ở hành lang và hỏi:

– Ông là người Việt Nam à?

– Ừ. Có việc gì thế?

Nurlan đưa mắt nhìn quanh:

– Ông có gì bán không? Quần bò, kính râm, đồng hồ… chẳng hạn?

– Sao ông lại hỏi tôi thế?

– Ồ, chúng mình đều là sinh viên mà! – Gã trai người Gruzja mỉm cười đầy ý nghĩa. – Ông không biết tôi, chứ tôi rất biết ông. Ông ở cùng phòng mười hai không tám với thằng Khrapốp chứ gì? Tôi còn lạ!

Khrapốp là họ của Xêriôgia và gã Nurlan này thì Hân có biết, ở mức độ đủ để nhận ra là người học cùng trường cho dù có khác chuyên ngành. Nhưng đùng một cái, bị hỏi như thế này thì thật bất ngờ.

– Không, tôi không có gì hết! – Hân vội đáp.

– Tiếc nhỉ, – Nurlan gãi gãi bộ râu quai nón và thở dài. – Cũng có thể là tại ông chưa tin tôi… Nhưng nếu có gì cần, ông cứ đến phòng tám trăm linh chín nhé, – Hắn hất hàm ra hiệu. – Hỏi Nurlan, ai cũng biết… Tôi rất quý người Việt Nam nên lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ các ông!

– Cảm ơn!

– Không có gì! – Nurlan bắt tay Hân và nháy mắt ranh mãnh với anh trước khi đi tiếp. – Đừng có quên đấy nhé!

– Được rồi!

Hân hơi băn khoăn trước đề nghị của Nurlan. Đúng là người Trung Á, trong đó có Gruzja, Udơbếch, Ácmêni… đều rất có khả năng nếu không nói là những bậc thầy trong việc buôn bán trên thị trường tự do mà nhà nước cho phép cũng như ngoài chợ đen. Từ hoa tươi, rau quả cho đến các mặt hàng điện tử, áo quần, mĩ phẩm… Đó là chưa kể đến tộc người Digan, tiếng Nga là Txưgan từ bao nhiêu đời nay nổi tiếng là dân giang hồ tứ xứ, làm đủ các nghề thủ công, buôn bán cò con, bói toán, lừa đảo và trộm cắp. Nhưng cái thằng Nurlan này, Hân không biết thế nào.

Nghĩ là nghĩ thế, nhưng bí quá nên mấy ngày sau, Hân đành bấm bụng đến gõ cửa phòng của gã Gruzja vậy. Dù sao nó cũng là sinh viên học cùng trường. Nhìn thấy Hân với chiếc quần bò Levis trong tay, mắt cậu ta sáng lên:

– Sao, nhiều không? Chỉ có mỗi một cái này thôi à? Ít thế!

Sau này, Hân cứ tự trách mình đã dại dột chui đầu vào rọ. Lẽ ra anh phải dừng lại, quay về ngay lúc ấy, ngay cái lúc thằng Nurlan chê ít, không tiện giao cho bạn nó. Nhưng vì Hân chỉ có đúng một cái quần bò ấy, nên nó đành cầm vậy, với lời hẹn sau một tuần sẽ có tiền. Đúng một trăm bảy mươi rúp nhé, không thiếu một xu!

Chờ cho đến hơn chục ngày, Hân mới tìm gặp Nurlan thì cậu ta bảo chưa bán được, vì ở Tbilixi[80] công an đang kiểm soát rất ghê, nhưng cứ yên tâm thế nào cũng có tiền. Chỉ còn chờ bạn của cậu ta lên Mát xcơva thôi. Nurlan cũng không quên nhắc Hân nếu có thêm cái gì, cứ đưa cho hắn, đảm bảo an toàn tuyệt đối. Hân bắt đầu lo lắng, nghi ngờ nhưng không còn biết làm gì hơn là dài cổ ra mà chờ đợi.

Hơn một tháng sau vẫn chưa thấy tiền đâu, Hân đến phòng Nurlan thúc giục thì cậu ta nại ra đủ mọi thứ lí do, rồi cuối cùng chỉ lạnh lùng:

– Bị công an nó tịch thu rồi!

Hân choáng váng như vừa bị giáng một nhát búa tạ vào đầu. Một trăm bảy mươi rúp chứ có ít đâu! Đủ cho một sinh viên bất kì nào đó sống được ít nhất là ba tháng. Tằn tiện, còn nhiều hơn. Anh nhìn vào bộ mặt đểu cáng của thằng lừa đảo, tức điên lên, nhưng không làm sao có đủ từ ngữ để vạch trần sự thật và chửi vào mặt nó bằng những lời lẽ tệ hại nhất như người ta vẫn thường làm trong những trường hợp thế này. Làm sao mà có chuyện công an tịch thu chiếc quần bò ấy được! Bởi vì nếu vụ việc xảy ra ở đây thì trước hết, Nurlan bị tống vào một đồn công an nào đó, rồi người ta sẽ gọi điện đến trường và Hân cũng sẽ bị liên lụy ngay lập tức: kẻ bị bắt sẽ chẳng dại gì mà không khai ra người đưa cho nó chiếc quần bò. Còn nếu ở Tbilixi, thì người ta cũng sẽ thông báo cho nhà trường và nó sẽ bị gọi lên Khoa để hỏi ngay, vậy thì tại sao đến tận bây giờ nó mới nói cho anh biết? Chắc chắn là thằng lưu manh này định lừa thêm một cú nữa đây. May mà Hân không có gì để đưa thêm cho nó.

Hân hiểu, cái thằng Gruzja khốn nạn này dám trắng trợn cướp không của anh vì nó thừa biết sinh viên Việt Nam sẽ chẳng dám kiện cáo gì. Bởi lẽ mọi cái cực kì phiền phức và rất có thể, đương sự sẽ bị đuổi ngay về nước, nên dù có tức đến sôi máu cũng chẳng làm gì được. Cũng không có cách nào nện cho nó một trận, vì dân Việt Nam thắng Mĩ ở tận đẩu đầu đâu ấy, chứ tại trường này và cả Mátxcơva cũng như rộng hơn nữa là toàn Liên bang, họ chỉ là một lũ người bé nhỏ và yếu ớt, làm sao mà đánh nhau được với ai! Ấy là chưa kể, nếu đánh nhau thì kiểu gì cũng sẽ bị kỉ luật ngay.  

Không còn gì để nói, Hân đành ôm mối hận vào lòng, chửi một câu rất tục rồi bước đi, không làm sao quên được cái bộ mặt nhơn nhơn của Nurlan. Và như vậy cũng có nghĩa là bằng cách ấy, anh đành chịu thua gã lưu manh Gruzja, đồng thời thêm vào cái kho kinh nghiệm sống của mình một bài học đau đến tận cuối đời.

 

Có bao nhiêu tiền đã đưa hết cho Phương Linh nên đến cuối tháng, Hân gần như rỗng túi, không còn cả tiền ăn nữa. Vay mượn những người cùng đơn vị thì ngại, mà chắc gì đã có ai còn tiền, nên Hân đành quyết định tìm đến Năm, một anh bạn học ở trường Mĩ thuật.  Thật không may, Năm lại không có nhà và cũng chẳng biết bao giờ anh ta mới về, nên sau khi chờ đợi cả tiếng đồng hồ, Hân đành viết mấy chữ để lại rồi quay gót.

Thấy vẫn còn sớm nên Hân tìm đến thêm một chỗ nữa, nhưng kết quả cũng bằng không. Chỉ còn lại bốn mươi tư côpếch, anh suy tính xem làm thế nào để về được đến nhà.

Đi t’ralleibus[81] mất bốn côpếch. Năm côpếch, tàu điện ngầm. Chặng cuối, t’ramvai[82], ba côpếch nữa. Còn lại ba mươi hai côpếch, anh có thể mua một chiếc bánh mì loại mười tám côpếch, ăn được hai bữa. Còn lại, để ngày mai đến trường. Nhưng trưa mai, lấy đâu tiền ăn đây? Học bổng, thì phải đến tuần sau mới có. Hân nhẩm tính khi anh chui xuống ga tàu điện ngầm.

Đã qua giờ cao điểm, khoảng cách thời gian giữa các lượt đoàn tàu được nới rộng ra với những thưa thớt người lên xuống. Bỗng nhiên, Hân giật mình khi nhìn thấy chiếc đồng hồ nhà ga đã chỉ mười một giờ đêm. Thế mà các cửa hàng thực phẩm và bánh mì đều đóng cửa vào lúc tám giờ. Nguy rồi! Hân thầm nhủ. Và cũng thật lạ lùng, cái bụng rỗng của anh đúng lúc này lại réo lên ùng ục, khiến anh không hiểu ra làm sao nữa. Càng nguy hiểm hơn, là mỗi khi quá đói anh lại bị run rẩy tay chân, đầu óc trở nên mụ mị, không thể nghĩ ngợi được gì. Và bây giờ, hiện tượng ấy lại đang sắp sửa diễn ra…

Hân lo lắng, không biết mình sẽ chịu đựng được bao lâu trước khi về đến nhà. Mà ở nhà, tức là căn phòng trong kí túc xá ấy, chẳng còn cái gì ăn được. Vốn tính đểnh đoảng, nên chẳng mấy khi Hân có cái gì để dự phòng. À, hình như còn một ít mì sợi và mấy củ khoai tây thì phải. Có thể luộc lên ăn tạm và pha một cốc chè đường thật nóng. Thế cũng là tốt lắm rồi. Ở Việt Nam, làm sao mà có được thứ mì sợi ngon như ở đây. Còn đường kính thì từ bao nhiêu lâu nay vẫn cứ là của quý.

Mải nghĩ ngợi linh tinh như thế, nhưng Hân vẫn không quên cài lại cúc ngực áo măng tô trong khi theo thang cuốn đi lên để ra cửa ga tàu điện ngầm. Mùa đông Nga đón tiếp anh bằng một cơn gió lạnh kinh hồn, với những hạt băng li ti hất ngay vào mặt. Đã qua bốn mùa đông ở Mátxcơva, nên Hân biết nhiệt độ đêm nay rất thấp do đó không có tuyết. Hơi nước biến thành những hạt băng nhỏ như mũi kim rơi xuống, phủ một lớp như muối trên khắp các phố phường. Sáng ra, thế nào cũng có xe ô tô đi phun cát để các phương tiện đỡ bị trơn trượt, gây tai nạn.

Hân kéo hai tai của chiếc mũ lông xuống, thọc đôi tay đi găng da vào sâu trong túi áo măng tô, nơi còn lại mấy đồng côpếch cuối cùng. Chặng đường từ ga tàu điện ngầm đến bến tàu điện đi về hướng kí túc xá của anh cũng khá xa. Hân phải băng qua một quảng trường rộng mênh mông (khiếp, sao mà cả nước Nga và Thủ đô Mátxcơva này lắm quảng trường đến thế!), rồi đi dọc theo đại lộ đến mấy trăm mét nữa mới tới. Vậy mà gió vẫn cứ ào ào thổi, ném từng vốc hạt băng lạnh buốt vào mặt mũi Hân, buộc anh phải nghiêng người, khép chặt hai vạt áo dày sụ bước đi với cái bụng mỗi lúc một cồn cào.

Bỗng nhiên, Hân cảm thấy từ đâu đó thoang thoảng mùi thơm của bánh mì mới ra lò. Liệu có thật không, hay đây chỉ là ảo giác? Anh đưa mắt nhìn quanh và thấy cách chỗ mình không xa, một chiếc xe chở bánh mì đang dỡ hàng để bán vào sáng mai. Đúng rồi! Một nhóm ba bốn người, vừa lái xe vừa công nhân bốc xếp đang bưng những chiếc khay gỗ to tướng đựng đầy bánh mì các loại, đặt lên băng chuyền đưa vào kho dưới tầng hầm của cửa hàng.

Có lẽ phải là người ôm bụng đói từ trưa đến tận gần mười hai giờ đêm và đi bộ trong tiết trời gần hai mươi độ dưới không mới hiểu được cảm giác sung sướng, vui mừng của Hân lúc đó. Đôi mắt như sáng lên, mũi hít hà, lòng tràn đầy hi vọng anh bước thẳng về phía những người bốc xếp.

– Chào các bác! Các bác làm ơn cho tôi mua một chiếc bánh mì có được không? – Hân lập bập nói, trong khi cả hai bên quai hàm cứng lại vì cái rét. – Tôi đói quá, mà các cửa hàng thì đóng cửa hết rồi…

– Không bán đâu! Chúng tôi không được phép! – Một người nào đó trong số những thân hình kềnh càng trang phục bảo hộ lao động màu đen lên tiếng nhưng vẫn không dừng tay lại. Thậm chí anh ta còn không thèm nhìn xem cái gã vừa xuất hiện là ai.

Đang từ chỗ hi vọng tràn trề bỗng rơi tõm ngay vào thất vọng thì Hân thấy một người đàn ông tách ra khỏi dây chuyền với ổ bánh mì to, loại ba mươi hai côpếch:

– Sinh viên hả? Đi đâu mà về muộn thế? – Người công nhân ấy hỏi, rõ ra là không cần đến câu trả lời. Ông ta đưa cho Hân chiếc bánh vẫn còn nguyên hơi ấm. – Cầm lấy này! Chúng tôi không được bán. Hiểu chưa?

Hân ngỡ ngàng nhận lấy chiếc bánh mì trắng loại ngon nhất mà anh đã từng ăn. Trong giây lát, anh nhìn rất rõ gương mặt đỏ ửng lên vì lạnh của người đàn ông với bộ râu quai nón lởm chởm có lẽ do lười cạo và cái nhìn hơi ranh mãnh. Không, ông ta không say. Không có vẻ say một chút nào, trái lại, hoàn toàn tỉnh táo.

Hân còn chưa kịp nhét chiếc bánh mì quý giá ấy vào trong chiếc túi giả da vẫn khoác trên vai thì ân nhân của anh đã chìa ra thêm một chiếc nữa:

– Còn cái này, là dành cho ngày mai!

Ông ta nháy mắt với Hân rồi quay lưng, tiếp tục bưng các khay bánh đặt lên băng chuyền xuống dưới hầm.

– Ê, Vanhija[1], thế còn tối mai và sáng ngày kia? – Anh chàng đã từ chối Hân lúc nãy lại lên tiếng bằng cái giọng khê nồng, khiến mọi người phá lên cười. Bác Ivan tốt bụng của Hân khẽ phẩy tay một cái:

– Làm đi!

– Cám ơn các bác! – Hân nói to trong lúc chào tạm biệt.

– Ơn giời! – Ai đó buông một câu gọn lỏn.

Không thể chờ lâu hơn được nữa, tay vẫn đeo găng, Hân đưa cả chiếc bánh mì to tướng lên mà cắn. Lần đầu tiên, anh cảm nhận rõ ràng đến thế vị ngon của chiếc bánh mì thơm phức với lớp vỏ rất giòn. Nước mắt anh bỗng ứa ra trong một cảm giác lạ kì. Hân biết, trong suốt cuộc đời mình, từ nay và mãi mãi về sau sẽ chẳng bao giờ anh còn được ăn một miếng bánh mì nào ngon đến thế, với mùi thơm dậy lên trong gió. Sáng mai, ở cửa hàng ư? Những chiếc bánh mì này đã cũ rồi và làm sao có thể tìm thấy chút tình người trong đó! Sáng mai, nó chỉ còn đơn giản là những chiếc bánh mì.

 

*

*          *

 

Tình yêu, nếu có thể gọi được như thế, đến với Hân vào lúc anh không ngờ nhất và nó cũng nhanh chóng vỡ tan ra như một chiếc cốc thủy tinh bị đánh rơi. Nhưng những mảnh vụn của nó thì còn găm vào trong trái tim Hân, làm cho anh đau đớn mãi không nguôi đi được. Tuy vậy, mỗi khi nghĩ lại, anh vẫn ngỡ ngàng tự hỏi: liệu đấy có phải là tình yêu không, hay một cái gì đó khác? Sự nhầm lẫn, mù lòa về cảm xúc chăng? Hân không biết, nhưng câu trả lời, tiếc thay, lại là chưa chắc! Anh chưa chắc đó đã là tình yêu.

Sẽ chẳng có gì xảy ra, nếu không có buổi liên hoan mừng năm mới được tổ chức trong kí túc xá của nhà trường. Ngay từ hôm trước, người ta đã dán áp phích, chương trình cuộc vui, trang trí cây thông, đèn màu và đặt loa đài ở hội trường. Tám chín giờ tối, các sinh viên đã bắt đầu kéo đến, cười nói ồn ào. Tất nhiên, đó chỉ là những người vì một lí do nào đấy, không đi chơi hay làm khách ở đâu được nên đành phải bó mình trong kí túc xá này. Dù sao, họ cũng diện những bộ áo quần đẹp hơn hẳn ngày thường, và nhiều cô còn má phấn môi son đỏ chót. Chẳng gì cũng là năm mới kia mà! Nhạc disco sẽ nổi lên. Các cặp đôi sẽ quay cuồng, sâm banh sẽ nổ và mọi người sẽ cùng hô vang: Chúc mừng năm mới!

Gần mười một giờ đêm. Hân đứng bên cửa sổ phòng mình, nhìn xuống dưới con đường vắng tanh vắng ngắt vì giờ này, mọi người đều đang tụ tập ở một nơi nào đó cả rồi. Những người dân Xô viết nói chung hình như không có khái niệm gì về Tết. Đối với họ, năm mới chỉ đơn giản là sự khởi đầu của ba trăm sáu mươi lăm ngày thay cho năm cũ, thế thôi. Chẳng phải lễ cũng không có hội. Tất cả được nghỉ đúng hai ngày; ai có điều kiện thì đi chơi đâu đó, tiệc tùng, chúc tụng lẫn nhau.

Ở Mátxcơva, nơi tập trung đông người đón giao thừa nhất là Quảng trường Đỏ. Người ta kéo nhau đến đó, ngước mắt nhìn lên đồng hồ trên tháp chuông Điện Kremli, hồi hộp đếm ngược từng giây cho đến khi kim giờ và kim phút trùng nhau ở con số mười hai. Những tiếng chuông vang lên thánh thót với màn pháo hoa rực rỡ. Mọi người reo hò, ôm chầm lấy nhau chúc tụng rồi bật nút sâm banh, uống mừng năm mới và sau đó là xong. Không thể so sánh được với đêm giao thừa của người Việt Nam ở bên nhà có cái gì đó thật thiêng liêng và xúc động.

Lúc này, tuyết đang rơi trắng trời và như vậy cũng có nghĩa là ngày mai sẽ ấm hơn. Hình như tối nay trên vô tuyến, người ta còn dự báo là có nắng. Và trong khi Hân đang buồn khủng khiếp thì một vài bông tuyết chẳng biết tại sao lại tan ra, chậm rãi ngoằn ngoèo bò xuống như những dòng nước mắt của trời. Nhưng trời khóc cho ai? Anh cảm thấy trái tim mình hơi nhói lên khi nghĩ về cái chết. Liệu cái gì sẽ xảy ra nếu anh mở cửa sổ, nhoài người ra và buông tay? Từ tầng thứ mười hai, tức là khoảng trên dưới ba chục mét. Gia trọng là bao nhiêu? Một cú rơi tự do từ độ cao này, liệu có ai còn sống nổi? Trôi ngang qua ý nghĩ của Hân là một chiếc tàu điện trống không, chứa đầy ánh đèn vàng.

  Ồ, nhưng tại sao lại nghĩ đến chuyện chết vào lúc này? Hân ngạc nhiên với chính anh. Có lẽ là do nỗi ám ảnh từ cái chết của một cô gái tại kí túc xá này, gần nửa năm về trước. Nghe nói, cô ấy từ một thành phố nào đó, hình như là Gorki thì phải, lên Mátxcơva thi đại học nhưng bị trượt. Không biết vì lí do gì, cô không chịu về quê mà vẫn ở lại Thủ đô, vạ vật từ nơi này sang nơi khác, sống dựa vào một số sinh viên và bạn bè cùng cảnh ngộ. Bi kịch xảy ra, khi người yêu cô, sinh viên năm thứ ba ở trường này đòi chia tay. Không làm thế nào níu kéo anh ta được nữa, cô dọa sẽ tự tử trong khi đã leo lên cửa sổ căn phòng tầng tám, nơi hai người đang sống (tất nhiên là chui lủi, trốn tránh ban quản lí kí túc xá), tư thế sẵn sàng.

Anh chàng kia, có lẽ cho rằng con ranh này chỉ dọa thế thôi chứ chẳng dám nhảy nào, không tìm cách can ngăn thì chớ lại còn thách cô có giỏi thì cứ nhảy đi, ai ngờ cô nhảy thật. Không tận mắt nhìn thấy mọi việc vì hôm ấy còn bận đi làm, nhưng Hân vẫn có thể hình dung được phần nào sự việc đau lòng qua lời kể của những người chứng kiến. Có lẽ do cô nhảy ở tư thế đưa chân xuống trước, nên bộ váy liền áo bị gió tốc lên đến tận vai, che cả một phần mái tóc rối tung.

Nghe tiếng động bất thình lình rất lạ, một vài người đang đứng ở ngoài sảnh liền chạy ra xem thì thấy cô đã đập úp mặt xuống dải bê tông sát chân tòa nhà, trong vũng máu đang loang rộng. Khi công an và nhân viên y tế đến nơi, lật ngửa nạn nhân lại để đặt lên cáng, mới biết xương cốt, chân tay của cô đã giập nát hết và mềm oặt với mấy chiếc răng rụng xuống. Nhìn thấy thế, có người rú lên sợ hãi, có người lăn ra ngất xỉu.

Người yêu của nạn nhân bị bắt ngay lập tức, và chẳng biết cuộc điều tra đã kết thúc hay chưa. Nhưng kể từ cái buổi trưa định mệnh ấy, kí túc xá nhà trường có thêm công an đến gác. Bất cứ ai ra vào cũng đều phải xuất trình giấy tờ. Cùng với đó, thỉnh thoảng người ta còn đi kiểm tra đột xuất các phòng. Khách đến chơi không được phép ở lại qua đêm. May sao, chỉ độ hơn một tháng sau, công an đã được rút đi. Việc kiểm tra giấy tờ lại được trả về cho mấy bà già gác cửa, rồi thì mọi thứ lại đâu vào đấy theo nếp cũ.

Nói cho đúng ra, đây không phải là lần đầu tiên Hân nghĩ về cái chết. Hình như điều này luôn luôn tồn tại ở trong anh từ rất lâu rồi, từ cái ngày anh buộc phải xem xử bắn một người trong cải cách ruộng đất. Sau đó là lúc anh nhìn thấy một đứa bạn cùng lớp bốn của mình chết đuối, được vớt lên từ mương nước mà nó đi bơi. Nhưng tác động đến Hân nhiều nhất là những cái chết của bạn bè, đồng đội ở chiến trường, nơi chẳng ở đâu người ta lại có thể chết dễ dàng đến thế! Và chính anh cũng đã hơn một lần chết hụt, do sốt rét, do bị nước lũ cuốn trôi rồi cả những ngày buộc phải nằm điều trị vết thương giữa một bãi bom B 52, không chạy đi đâu được.

Đã có lần, vào một buổi chiều mùa khô trên đất Campuchia, Hân được phân công canh gác ở đầu một phum[2] nhỏ, nơi đơn vị đóng quân. Những người dân Khơme đã bỏ chạy đi đâu hết, để lại những ngôi nhà sàn lợp lá thốt nốt dột nát, tan hoang vì bom đạn. Những cây xoài, cây na, sầu riêng… trĩu quả. Lại còn cả gà, lợn,… có lẽ người ta không kịp bắt đi theo. Đại đội của Hân tha hồ mà ăn những thứ trời cho ấy.

Hân tìm đến một ụ mối có bụi cây duối dại và ngồi xuống. Từ đây có thể bao quát một phạm vi rất rộng. Mặt trời sắp lặn và cả cánh đồng mênh mông được điểm xuyết bằng những cây thốt nốt cao lênh khênh đang quét những tàu lá lên nền trời đỏ lựng thật thanh bình. Hân có cảm giác, chiến tranh không còn nữa. Không tiếng súng, tiếng bom, không cả tiếng máy bay do thám. Cũng không có luôn, dù chỉ một bóng người. Từng đàn cò trắng từ đâu đó bay về, chấp chới trên những rặng tre thưa thớt và mái chùa chóp nhọn, khác hẳn với kiểu chùa Việt Nam thấp tối, nhiều cửa bức bàn và cột gỗ.

Đất nước Campuchia này thật lạ lùng, đi đâu cũng gặp chùa. Những ngôi chùa xây, mái ngói chóp nhọn khang trang, khác hẳn với nhà sàn của người dân chủ yếu được làm từ cây thốt nốt hoặc gỗ. Và đã là nam giới, từ dân thường đến nhà vua, nếu chưa qua một thời gian tu tập, học hành ở chùa, đều không thể được coi là đã nên người. Theo cảm nhận của Hân, đối với người Khơme, chùa không chỉ là nơi tu hành của các vị sư, mà còn là trung tâm văn hóa làng xã, trạm y tế và trường học. Người dân, vẫn còn chịu ảnh hưởng từ chế độ mẫu hệ thể hiện qua việc phụ nữ thường nắm quyền quản lí gia đình, có thể đến chùa bất kì lúc nào họ muốn để xin thuốc chữa bệnh, hỏi han các vị sư về một việc nào đó dù lớn hay nhỏ hoặc chỉ đơn giản là cúng dường bánh trái và hoa quả.

Ở những ngôi chùa mà Hân đã có dịp đi qua thường có rất nhiều dơi. Chúng treo ngược dưới mái chùa, trên cành cây và bất cứ nơi nào có thể. Mỗi khi trời nhập nhoạng, hàng ngàn, hàng vạn con lại bay ra, xóa sạch cảm giác về sự tồn tại của các loài chim chóc. Cả không gian dường như chỉ còn dơi. Nhưng cũng chỉ chừng một tiếng sau, khi đã no mồi là những loại ruồi muỗi côn trùng, lũ dơi lại kéo nhau về tổ, trả lại cho thinh không bóng tối chập chờn.

 Mỗi ngôi chùa đều có một ao sen, đầy các loại cá. Vào mùa khô ao cạn, chỉ quờ tay

xuống nước là đã có thể chạm vào lưng chúng. Sư sãi bỏ chạy từ lâu, chùa trở nên hoang phế vì không có người chăm sóc. Trong những ngôi chùa ấy, Hân luôn luôn bắt gặp những bức tranh tường được vẽ một cách rất lòe loẹt và hồn nhiên, chẳng theo một phép phối cảnh hay luật xa gần nào, khuyên người ta sống hiền lành, làm việc thiện và đặc biệt là cảnh báo về chín tầng địa ngục dành cho những kẻ làm điều ác.

Anh lính Việt Nam không khỏi rùng mình khi nhìn thấy những vạc dầu, lò lửa, chó ngao, quỷ sứ… trong các bức tranh. Và cũng chính vì thế mà Hân không hiểu nổi, tại sao bọn lính Lonnon[3] lại có thể tàn ác đến thế khi chúng giết hại hàng ngàn Việt kiều vô tội trong cuộc đảo chính, lật đổ Quốc trưởng Xihanúc hồi tháng Ba năm một chín bảy mươi. Cũng đã hơn một lần, Hân nghe kể về việc những người lính Việt Nam bị tra tấn dã man, bị mổ bụng hoặc thiêu sống khi chẳng may rơi vào tay bọn chúng.

Vào cái buổi chiều êm ả, thanh bình ấy, tự dưng Hân muốn chết. Đơn giản là anh muốn tìm đến sự giải thoát cho mình, vì cuộc sống quá ư cơ cực và cái chết luôn luôn rình rập. Mới chỉ qua mấy tháng mùa khô mà trung đội của Hân, lúc đông nhất được gần hai chục, đến bây giờ chỉ còn lại đúng ba người. Một trung đội phó. Một tiểu đội trưởng và Hân. Cả đại đội chỉ có mười ba tay súng. Những người chết đều được chôn theo một kiểu giống nhau, là lấy võng quấn lại, mảnh tăng thay cho quan tài với ba đoạn dây dù… Nhưng kinh khủng nhất là khi phải chôn những người đã chết từ hàng tuần trước đó hoặc lâu hơn nữa.

Dãi nắng dầm mưa, các xác chết vốn đã nát bươm, biến dạng vì bom đạn, bị các loại chim, thú, côn trùng… ăn nham nhở lại thối rữa và lúc nhúc những giòi, ruồi nhặng bâu đầy. Đồng đội có thương nhau lắm cũng phải bịt mũi, nhăn mặt xỏ đòn khiêng, vùi lấp cho nhanh những phần thi thể ấy. Vậy mà sau khi tắm rửa đến mấy lần, vẫn không làm sao hết được mùi. Nhưng tuy vậy vẫn còn hơn mùa mưa ở miền Tây, không có đất chôn. Người ta phải chặt cây, ghìm những gói, bọc quan tài ấy trên các gò đất lỏm loi hoặc chôn xuống những chỗ nước hơi lấp xấp. Những người đi chôn vừa gạt nước mưa đang ròng ròng trên mặt, vừa khó nhọc mò, xúc từng xẻng đất nhão nhoét lên làm mộ mà không biết đến khi mình được người khác chôn thì sẽ thế nào.

… Hân từ từ gí đầu nòng khẩu AK cũ kĩ vào dưới cằm. Hoàn toàn thoải mái trong tư thế ngồi tựa lưng vào ụ mối, súng kẹp giữa hai chân. Chỉ cần gạt chốt an toàn xuống và khẽ nhấn cò. Khẩu súng, không biết đã qua bao nhiêu bàn tay và cướp đi sinh mạng của bao nhiêu người, báng gỗ sứt sẹo và có một vết nứt khá dài, sáng nay vừa được Hân lau chùi cẩn thận. Anh chợt nhớ ngày xưa, khi còn nhỏ, đọc Trước giờ nổ súng của Lê Khâm tức Phan Tứ sau này, thấy có chi tiết một người lính báo vụ quân tình nguyện Việt Nam ở bên Lào, vì làm hỏng điện đài của đơn vị nên đã phải tự sát. Anh loay hoay mãi mới dùng được ngón chân cái để nhấn vào cò súng. Lúc đầu, Hân không hiểu tại sao lại như thế. Sau mới vỡ lẽ, thì ra hồi chống Pháp, bộ đội ta được trang bị loại súng trường rất dài, nếu ấn nòng súng vào cằm, thì tay không với tới cò súng được. Bây giờ, khẩu AK chỉ dài khoảng chưa đầy chín mươi xăng ti mét, khoảng cách từ đầu nòng đến cò súng còn ngắn hơn nhiều. Bỗng nhiên Hân lại nhớ đến mấy câu thơ mà anh nghe hay đọc được ở đâu đó, khá lâu rồi:

                            Ta lại viết bài thơ trên báng súng

                            Con lớn lên, viết tiếp thay cha…

Hân chợt thấy mình thật dở hơi khi tự nhiên lại thơ với phú vào lúc này. Mà những câu thơ nào có ăn nhập gì với hoàn cảnh của anh! Bài thơ trên báng súng. Liệu có phải của Lưu Trùng Dương không nhỉ? Hay là Hoàng Trung Thông? Chịu! Chỉ cần mở khóa an toàn và dùng ngón tay cái ấn cò súng xuống là xong. Băng đạn ba mươi viên, thì một viên đã lên nòng. Trong trường hợp này chỉ cần đúng một viên thôi, là đủ. Sẽ không còn biết gì nữa. Chấm dứt mọi nỗi gian nan vất vả, những ngày bụng đói miệng khát, dãi nắng dầm mưa và cái chết tan nát thịt xương có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Việc còn lại là của những người đang sống, hay nói đúng hơn, chưa chết.

Không ai biết, ám ảnh mãi trong tâm trí Hân là vẻ kinh hoàng khiếp đảm đến tận cùng của một người lính Sài Gòn bị anh bắn chết ở khoảng cách rất gần. Đó là lần nổ súng thứ hai trong đời lính của Hân. Tiểu đoàn anh đánh vào một khu đồn địch và mọi cái dường như đang kết thúc rất nhanh. Hân chạy theo giao thông hào sạt lở về phía chiếc lô cốt chất đầy bao cát. Bất thình lình, một bóng đen đội mũ sắt tùm hụp trên đầu, tay xách khẩu AR 15 từ đâu đó vọt ra. Thật may mắn cho Hân là anh vẫn đang kẹp khẩu AK bên sườn theo tư thế bắn găm, nhưng cuộc chạm trán vẫn làm cho Hân giật mình, sợ đến vỡ tim ra được. Suýt nữa thì anh đánh rơi cả súng.

Người lính Sài Gòn ấy hơi khựng lại trong khoảnh khắc và khẽ ối lên một tiếng. Như thể ngạc nhiên trước tình huống bất ngờ và không kịp phản ứng gì. Anh ta đã hoàn toàn tê liệt hay là súng của anh ta hết đạn? Hân hoảng hốt siết cò liền một mạch, không dừng lại được. Khẩu AK nhoàng lửa, khẽ rung lên một lát. Anh có cảm giác như nhìn rõ từng viên đạn đang thun thút nối theo nhau xuyên qua ngực áo rằn ri, rất ngọt. Người lính kia bật ngửa ra phía sau không một tiếng kêu.

Hân chỉ nhận ra mình đã bắn đến viên đạn cuối cùng khi khẩu súng bỗng nhiên nhẹ bẫng, không còn rung lên nữa. Anh ngồi phịch xuống đất, rã rời. Đôi dép cao su và cả bộ quần áo của Hân dính đầy những máu từ bao giờ, nhớp nháp và tanh ngòm nhưng anh đâu có để ý gì. Qua ánh lửa hắt lên từ những đám cháy trong đồn, Hân thấy đồng đội của mình đang đi lại, chuyển động vật vờ như những bóng ma, không một tiếng động vì đôi tai anh đã gần như điếc đặc. Tự nhiên Hân chán nản đến nỗi đái cả ra quần lúc nào không biết và chỉ muốn chết đi ngay lập tức.

Cho đến tận mấy ngày sau, mỗi khi nhớ lại gương mặt méo mó kinh hoàng của người lính Sài Gòn ấy cùng với mùi máu là Hân lại nôn đến mật xanh mật vàng. Trong đầu anh cứ ong ong lởn vởn mãi những câu hỏi không có lời giải đáp, rằng anh chàng xấu số ấy quê ở đâu, tên là gì, đã có vợ con hay bạn gái chưa… Có lẽ anh ta vừa mới bị bắt đi quân dịch, chưa kịp tham chiến lần nào chứ nếu không thì làm sao mà lại dại dột xách súng chạy đi như thế. Cũng có thể, giống như Hân, anh ta không muốn bắn, không muốn giết để rồi rốt cuộc, chết trước mũi súng của một người buộc lòng phải bắn trong nỗi sợ hãi tột cùng để giữ lấy mạng sống cho mình. 

Ý nghĩ như một con ngựa bất kham bỗng đưa Hân về với thành phố, xóm nhỏ và cây vông đầy gai nơi đầu ngõ, với bố mẹ, anh em. Ừ, mình chết thì được rồi, nhưng cả nhà sẽ ra sao? Mọi người bị đối xử thế nào? Cái tội tự sát ngoài mặt trận, có lẽ bị xếp ngang với tội phản quốc, đầu hàng địch hay đào ngũ, sẽ ảnh hưởng như thế nào đến mọi người? Chắc chắn là sẽ bị liên lụy, phân biệt đối xử thậm chí là đem ra bêu riếu chứ không thể nào khác được. Rồi thì hàng xóm láng giềng, đám cư dân trong ngõ sẽ bàn tán ra sao?

Chiến tranh là như thế này ư? Bao nhiêu lần, Hân đã tự hỏi mình như thế. Mà thật ra, anh và những người lính phía bên kia nào có thù ghét gì nhau! Tất cả chỉ vì mỗi người mặc một kiểu quân phục khác nhau và cầm những khẩu súng khác nhau. Bên ta thì đi nghĩa vụ quân sự, còn họ là quân dịch. Tất cả đều phải làm theo mệnh lệnh của cấp trên, không được chối từ. Ông Hương đã quá cẩn thận khi căn dặn con đừng ham bắn giết. Còn Hân thì không hiểu nổi tại sao trên đời này lại có những người muốn cướp đi mạng sống của đồng loại, đồng bào. Trong trận đánh đầu tiên, Hân còn mong sao đừng có tên địch nào xuất hiện trước mắt anh. Nhưng rồi cái gì đến, cũng phải đến. Bốn năm người lính Sài Gòn vừa xồng xộc chạy thẳng về phía Hân vừa bắn liên hồi. Gần quá rồi! Không còn tránh đi đâu được nữa… Chưa đến lúc Hân cay đắng nhận ra, ngay cả đến việc bắn giết nhau, người ta cũng có thể quen dần. Nhưng anh thì không quen được. 

Có tiếng gọi của trung đội phó Hưởng ra thay gác. Hân quay lại nhìn với vẻ thờ ơ.  Cũng may, là Hưởng đi từ phía sau tới nên không biết Hân đang định làm gì. Vả chăng, nét mặt Hân hoàn toàn bình thản, và nòng súng đã dựa vào vai anh từ lúc nào nên Hưởng không một chút nghi ngờ về việc Hân suýt nữa đã làm. Nhưng vừa mới thoáng nhìn qua, anh ta đã nhắc ngay:

– Khóa chốt an toàn lại đi, không chẳng may cướp cò thì chết bây giờ!

Hân uể oải đứng dậy, làm theo lời Hưởng. Anh không nhớ mình đã mở chốt an toàn vào lúc nào. Như vậy, có nghĩa là chỉ cần nhấn cò. Chỉ cần nhấn cò nữa là xong! Không còn đau khổ, xót thương, uất hận, thù hằn… gì nữa. Tất cả sẽ nhanh chóng chìm vào trong im lặng vĩnh hằng.Ý nghĩ ấy còn ám ảnh Hân đến tận mấy hôm sau, khi đại đội anh có thêm được một số người và chuẩn bị bước vào trận đánh mới. Cái trận đánh khiến Hân bị thương rồi từ đó dần dần bị (hay là được?!) loại khỏi vòng chiến đấu. Cũng từ đó, anh bắt đầu thấy le lói niềm hi vọng sống để trở về, tuy điều đó chẳng lấy gì làm chắc chắn. Còn gì vô thường hơn cuộc đời người lính trong chiến tranh!  

 

*

*          *

 

Tiếng gõ cửa vang lên dè dặt khiến Hân không khỏi ngạc nhiên. Ai lại đến đây vào giờ này nhỉ? Mọi người, cả Tây lẫn ta đều đang cặp đôi hoặc tụ họp nhau thành từng nhóm chờ đón năm mới kia mà! Hân ngoái nhìn ra, đáp rất to:

– Vâng, mời vào!

Qua đi mấy giây rồi tay nắm cửa ngoài mới chậm chạp kêu loạch xoạch như cả một sự rụt rè. Lại còn định chờ người ta mở cửa! Hân từ phòng trong bước ra và thật bất ngờ, trước mặt anh là Tuyết. Cô gái học dưới anh một khóa, chuyên ngành dân tộc học và sống ở tầng tám, năm nay mới hai mươi mốt tuổi.

– Em chào anh! Em vào có được không?

Giọng cô gái Hà Nội gốc nghe thật nhẹ nhàng. Hân tránh sang một bên để cho Tuyết bước vào rồi mới đóng cửa phòng lại:

– Được chứ, sao lại không! Em ngồi xuống đây.

Cô gái ngồi xuống đi văng, đúng vào chỗ Hân vừa chỉ. Anh mỉm cười và hỏi luôn vị khách không mời:

– Sao hôm nay rồng lại đến nhà tôm thế này? Em có uống nước chè không?

– Thì… em lên thăm anh. – Tuyết mỉm cười một cách hiền lành. – Nhưng mà… Em có làm phiền anh không ạ?

– Không, phiền cái gì đâu! Anh cũng đang buồn mà chẳng biết làm gì.

– Sao anh không đi chơi? À, thế bạn “hàng xóm” của anh đâu rồi ạ?

– Nó chuyển sang phòng khác rồi. Anh được ở một mình, nhưng mà tối nay thì chẳng biết đi đâu cả nên đành phải ở nhà.

Tuyết không biết, là sau một lần nổi điên lên với hành vi quá đáng của Xêriôgia, Hân đã làm cho anh ta phát hoảng, phải tìm cách xin chuyển sang phòng khác. Ai lại ngang nhiên đưa gái về giữa ban ngày và khóa chặt cửa lại mà hành sự. Hân bị nhốt ở bên ngoài trong lúc anh gần như kiệt sức và gây gấy sốt sau những giờ học căng thẳng ở trường, chỉ còn thiếu cái nước gục xuống sàn. Còn bây giờ… Đúng là anh không biết đi đâu vào đêm cuối năm này. Chính vì thế anh mới một mình cô độc hơn bất cứ lúc nào.

– Hóa ra em lại gặp may, anh không đi vắng. Nhưng thế thì… đúng là buồn thật! – Tuyết nói, trong khi đôi tay của cô hơi xoắn vào nhau.

Hân ngồi xuống bên cạnh Tuyết.

– Em lên chơi hay có việc gì không?

Cô gái nhìn Hân, cười thành tiếng:

– Thì em đã nói rồi mà! Chẳng lẽ em lên thăm anh không được à? Hay là anh không muốn nói chuyện với em?

– Không phải thế, – Hân cũng mỉm cười. – Anh tưởng, hôm nay là ngày lễ mà em lại có Phương, đáng lẽ ra phải đón năm mới cùng với nhau chứ.

Tuyết nhìn Hân một cái rất nhanh. Giọng cô bỗng chùng hẳn xuống:

– Em và Phương chia tay nhau rồi.

– Thật không?  

Tuyết, có lẽ không nhận thấy sự ngạc nhiên xen lẫn bất ngờ trong câu hỏi ấy của Hân. Cô hơi cúi đầu, lặng im một lát rồi mới trả lời:

– Thật chứ ạ! Đã hơn một tháng nay rồi.

Hân bỗng thở dài đánh sượt:

– Thế mà anh không biết!

– Biết thì sao hở anh? Tại vì… tính Phương chán quá, lại hay nhõng nhẽo như trẻ con ấy. Em không chịu được.

– À…

Hân nhớ, cách đây gần hai năm, đơn vị anh đón thêm một số thành viên vào học năm thứ nhất. Toàn học sinh phổ thông, trong đó phần lớn là dân Hà Nội, chỉ nảy nòi mỗi một anh chàng Thanh Hóa là Phương. Cao to, đẹp trai với mái tóc để dài, cậu ta lúc nào cũng như cái bóng của Tuyết và chỉ cần thoáng nhìn qua, ai cũng biết ngay hai người đang yêu nhau. Nghe nói, họ cùng học một lớp ở Ngoại ngữ Thanh Xuân, lại thêm một năm dự bị ở Mátxcơva nên tình cảm càng thêm gắn bó. Tuyết, nổi bật lên giữa đám con gái Việt ở đây bởi thân hình đầy đặn, cao gần một mét sáu mươi với nước da trắng, bộ ngực nở nang và đôi hông rộng rất gây ấn tượng. Nhưng Hân ít tiếp xúc với cô vì hai người khác nhau về ngành học, tuổi tác chênh lệch khá nhiều, lại thêm Phương lù lù ra đấy. Cũng may mà Tuyết không gọi anh bằng chú.

Cái ấm điện đã sôi lên sùng sục. Hân nhanh chóng pha chè, mời Tuyết và tự rót cho mình một cốc.

– Tiếc nhỉ, – Hân nói, như để an ủi cô gái trẻ, mặc dù anh không biết mình có tiếc thật không, và nếu có thì tiếc cái gì.

Tuyết đưa cả hai tay đỡ lấy cốc nước chè, cảm ơn Hân và đến lúc này cô mới nói thật: 

– Anh cho em ngồi nhờ ở đây một lúc, tại vì phòng của em bị chiếm mất rồi… Mà em cũng chẳng biết chạy đi đâu nữa.

À ra thế! Hân nhủ thầm và chợt nghĩ, lại thêm một người cô đơn nữa! Ôi, sự cô đơn! Anh mỉm cười, làm ra vẻ chân thành:

– Em cứ tự nhiên, không sao đâu! Ngồi đến sáng mai cũng được.

Cô gái lại khẽ cười, vẻ không tin vào lời Hân vừa nói:

– Em không ngồi đến sáng mai đâu! Còn phải để anh đi ngủ chứ.

Đến bây giờ, Hân mới có dịp nhìn Tuyết kĩ hơn. Cô gái mặc chiếc khalát[4] nhung màu huyết dụ chẳng biết mua hay may ở đâu, có những hoa văn màu đen và chiếc quần âu màu tím hoa cà đã cũ, rõ là kiểu ăn mặc trong nhà. Mái tóc hơi thưa buông xõa xuống vai, ngược lại với đôi lông mày khá đậm. Không đồ trang sức, không son phấn. Một cơ thể cân đối, rất có da có thịt với những ngón tay búp măng thon thả. Sẽ đẹp hơn rất nhiều, nếu như Tuyết có mái đầu nhỏ hơn một chút và đôi má của cô không bị hơi bánh đúc thế này.

Hai người lặng lẽ uống nước chè. Bất chợt qua cửa kính, Hân nhìn thấy những đốm pháo hoa nhỏ xíu bắn lên từ một nơi nào đó rất xa, có lẽ là Quảng trường Đỏ hay đồi Lênin gì đó. Mátxcơva quá rộng lớn, nên muốn thấy được cái đẹp của pháo hoa thì phải đến tận nơi, xem ở khoảng cách gần. Giao thừa rồi! Một năm mới đã bắt đầu. Hân cảm thấy hơi nao nao trong dạ vì chỉ còn hơn một tháng nữa là đến Tết âm lịch, cái Tết thứ tư anh sống ở xứ người. Vật chất tuy đầy đủ, nhưng xét cho cùng vẫn chỉ là cuộc sống theo kiểu ăn nhờ ở đậu, không thoải mái gì, thậm chí còn bị coi thường. Cứ nhìn vào thái độ của một số người dân Liên Xô thì sẽ biết.

– Ơ, anh mới mua máy quay đĩa đấy ạ? – Tuyết nhìn lên và tỏ ý ngạc nhiên. – Anh cho em nghe nhạc một tí có được không?

– Được chứ! – Hân đứng dậy, chọn lấy một đĩa nhạc rồi đặt vào máy. Chiếc Vega anh mua lại của một người cùng đơn vị. Giai điệu quen thuộc của bài Tình yêu màu xanh được chuyển soạn cho dàn nhạc vang lên khắp gian phòng.

– Nhạc gì mà hay thế hở anh? – Tuyết cũng đứng lên, cầm chiếc phong bì đựng đĩa hát lên xem và lẩm nhẩm. – Pôlija Môriyja… Lạ nhỉ, sao lại là… những cánh đồng của biển?

Hân không thể giải thích gì cho Tuyết, vì lúc này anh chỉ biết đó là dàn nhạc rất nổi tiếng không chỉ ở Pháp mà còn cả châu Âu và thế giới. Nhưng cái tên của vị nhạc trưởng lừng danh, viết bằng tiếng Pháp là Paul Mauriat thì Hân không biết. Cũng không hiểu tại sao, sang cách hai của tiếng Nga, nó lại biến thành Poliya Moriya, mang ý nghĩa hoàn toàn khác, vì Poliya là cánh đồng, số nhiều. Còn Moriya là “của biển” nên Tuyết đã hiểu luôn thành Dàn nhạc Những cánh đồng của biển. Hân không để ý, chứ thật ra, nếu ở cách hai người ta sẽ không viết moriya như thế. Không có chữ “y”. Hơn nữa, đây lại là Moriya, với chữ M được viết hoa. Sau này, Hân cứ lấy làm xấu hổ mãi cho sự dốt nát của mình. Nhưng anh không thể nói gì với Tuyết được nữa, vì lúc đó cô và anh đã xa nhau.

Những buổi tối tiếp theo, cứ vào khoảng chín, mười giờ Tuyết lại lên chỗ Hân. Anh đoán, cô đã cơm nước xong xuôi và tắm táp sạch sẽ, nên từ cái cơ thể thanh Hân ấy cứ toát ra một mùi hương rất nhẹ của sữa tắm và dầu gội đầu hay nước hoa gì đó. Hai người cùng uống nước chè đường, trao đổi vài ba câu chuyện bâng quơ và nghe nhạc. Đến khoảng mười một hoặc cùng lắm là mười hai giờ, Tuyết lại ra về để sáng hôm sau thức dậy vào lúc bảy giờ; tám giờ rời khỏi nhà để đến trường. Như một cái vòng quay đều đặn. Trong thâm tâm, Hân mơ hồ cảm thấy Tuyết đến chỗ anh không phải chỉ là để nghe nhạc và uống nước chè. Nhưng chẳng lẽ cô ấy có cảm tình với mình? Một cô gái còn rất trẻ, vừa mới chia tay người yêu và anh thì có gì hấp dẫn được cô? Hay Tuyết đang tìm cách bù đắp cho sự thiếu hụt trong tình cảm của mình?

Hân ngồi xuống bên cạnh Tuyết và thật bất ngờ với chính mình, anh khẽ ôm lấy bờ vai tròn trịa của cô, rồi dịch sát hẳn vào. Tuyết không phản đối nhưng cũng không hưởng ứng, chỉ thoáng nhìn anh và khẽ mỉm cười như thể ngạc nhiên. Được đà, Hân liền khẽ hôn lên đôi môi hồng tươi của cô còn nguyên vị ngọt nước chè đường. Tuyết im lặng, mắt hơi nhắm nhưng không đáp lại mà chỉ đơn giản là chấp nhận. Hân bắt đầu tìm cách mở cúc ngực chiếc kha lát của cô. Dường như không một chút bất ngờ trước hành động ấy, Tuyết chỉ nhẹ nhàng cầm lấy tay anh rồi hỏi khẽ:

– Sao anh lại làm thế?

– Anh yêu em!

– Nhưng mà em có yêu anh đâu?

Hân ngượng quá, không biết nói gì. Quả thật, trước đây chỉ hai phút thôi, anh cũng không nghĩ là mình sẽ thốt lên một lời yêu như thế. Bây giờ, Tuyết nâng cả hai bàn tay của Hân lên, áp vào má cô rồi cứ để như vậy một lúc lâu. Hân không tìm cách rút tay mình ra khỏi đó và lần đầu tiên, anh cảm nhận được sự mềm mại, tươi mát trên mặt Tuyết. Mãi rồi cô khẽ nói:

– Cho nghịch bên trên đấy!

Hân điếng người vì không ngờ Tuyết lại có thể dễ dàng đến vậy. Anh cầm tay cô gái một lúc, nhìn rõ từng tĩnh mạch xanh mờ dưới làn da trắng mịn với những ngón tay rất đẹp. Được một lát, Hân mới mở chiếc kha lát của cô, vạch sang hai bên, để lộ ra cả bộ ngực trần. Tuyết không mặc xu chiêng, và trong khi ngồi lún sâu trên chiếc đi văng hơi thấp, bộ ngực vốn đã căng tròn của cô lại càng có vẻ to hơn, đầy hấp dẫn và mời mọc. Không đừng được nữa, Hân cầm lấy cả hai bầu vú mềm mại và mát rượi với đôi nhũ hoa có màu hồng rất nhạt, ấp vào nhau rồi hôn lên đó. Lát sau, bị gây khó bởi tư thế không thuận lợi, anh liền quỳ xuống trước mặt cô, vục cả khuôn mặt nóng bừng của mình vào bộ ngực đồ sộ ấy…

Qua những lần chuyện trò với Tuyết, Hân mới biết cô là cháu nội của một trí thức đi theo cách mạng. Ông ngoại, là kiến trúc sư tốt nghiệp ở Paris về, tác giả của một số công trình ở ngay Hà Nội. Còn bố cô, một sĩ quan công binh thì đã hi sinh trên đất Bắc, nhưng không tìm thấy xác. Mẹ đi bước nữa, nên Tuyết về sống với ông bà nội và được ông chăm sóc từng li từng tí. Mùa đông, ông hì hục nhóm lò than, đun nước đổ đầy các phích cho cô tắm. Mùa hè, có cái quạt tốt nhất, ông cũng đặt vào tận trong giường cho cô. Khác hẳn với những người đứng tuổi khác, ông còn bằng cách nào đó cẩn thận nhờ mua từng chiếc quần áo lót Thái Lan cho cháu gái của mình.

Tuyết đi học nước ngoài theo tiêu chuẩn của con liệt sĩ. Cô học giỏi nhưng kín tiếng, không nói gì về bản thân hay gia đình. Nhiều hôm, sáu bảy giờ tối cô vẫn còn ngồi đọc trong thư viện. Tuyết yêu Phương, như một lẽ đương nhiên ở cái tuổi biết yêu trong cuộc sống xa nhà. Nhưng sau hơn một năm thấy Tuyết không cho phép mình đi quá giới hạn cuối cùng, nên Phương chán. Cậu ta tìm đến các bạn gái người Nga và được thỏa mãn ngay. Biết được chuyện ấy, Tuyết liền chủ động cắt đứt mối tình đầu, không một mảy may luyến tiếc cho dù cũng có buồn đôi chút. Hân rất ngạc nhiên khi nghe Tuyết kể chuyện đó với một thái độ tự nhiên, bình thản cứ như là nói về người khác. Tuy nhiên, anh vẫn hơi ngờ ngợ về sự trong trắng của cô. Hai năm trời sống xa nhà, một cơ thể đáng được gọi là phồn thực và cậu người yêu đẹp trai, tràn đầy dục vọng. Lại còn nấu ăn chung và đi đâu cũng có nhau…

 

Bây giờ thì mỗi khi rỗi rãi, Hân lại rủ Tuyết đi chơi hoặc xem phim. Mátxcơva có hàng trăm rạp chiếu bóng rất sạch sẽ và ấm áp vào mùa đông, mát về mùa hè, chỉ đông khách khi người ta chiếu những bộ phim mới nhập từ các nước tư bản, với giá vé tăng gấp đôi hoặc gấp ba. Tuyết, nhiều hôm nấu cơm rồi mời anh xuống ăn cùng. Hơi buồn cười vì cô thích ăn cá, (tất nhiên không phải là loại kin ki rẻ tiền rồi!) và có lần lại vô tình mặc áo len mà rán cá. Đến lúc ngồi ăn cơm, cả người Tuyết dường như chỉ còn mỗi một mùi cá rán. Hân đùa, giả vờ ngửi vai áo Tuyết rồi mỉm cười:

– A, lại thêm một con cá rán to đùng ở đây này! Em đừng có quên, anh là một con mèo đấy nhé!

– Mèo già hóa cáo phải không? –  Tuyết cũng cười theo, nhìn Hân qua cặp kính. Cô đưa tay áo lên ngửi rồi thốt lên khe khẽ. – Thôi chết, đúng là toàn mùi cá!

– Ta vồ con cá này! – Hân bổ những ngón tay co lại như móng vuốt về phía Tuyết. Cô cũng làm ra vẻ hoảng sợ khẽ hét lên, khiến cho cô bạn Nga cùng phòng phát phì cười và khẽ lắc đầu.

 

*

*          *

 

Cho đến một buổi tối…

Rất bình thường như những lần khác, kể từ khi Hân gắn lên môi Tuyết cái hôn đầu tiên, cô lại đến phòng anh trong chiếc kha lát nhung đỏ sẫm và chiếc quần màu tím nhạt. Mùi nước hoa chắc không phải của Liên Xô, thoang thoảng đầy quyến rũ khiến Hân ngây ngất. Anh nhẹ nhàng ôm lấy Tuyết rồi thật lạ lùng, không định trước, đỡ cô nằm xuống đi văng trong lúc không hề nói một lời. Và với sự cẩn trọng, khẽ khàng như đang nâng niu một thứ gì đó thật mong manh, Hân bắt đầu cởi chiếc kha lát và chiếc quần màu tím… Tuyết ngoan ngoãn chiều theo từng cử chỉ của Hân, thậm chí còn hơi nhấc người lên để anh dễ dàng kéo chiếc quần dài xuống khỏi bộ đùi to và thẳng.

Lúc này trước mắt Hân chỉ còn một mục tiêu cuối cùng cần chinh phục: chiếc quần lót bé tí teo, loại hàng cao cấp của Thái, mỏng tang và trong suốt với những hoa văn rất đẹp. Cả người Hân như cháy bùng lên, vì chưa bao giờ anh nhìn thấy một cái gì tương tự trong khoảng cách gần như vậy. Anh nín thở, hồi hộp và run rẩy kéo nốt cái mảnh lụa nhỏ xíu đầy mê hoặc ấy xuống. Tuyết hơi nhấc mông, ưỡn bụng lên một chút, giúp Hân hoàn thành động tác cuối cùng.

Chất lụa mát lạnh nhưng ấm mùi da thịt của Tuyết khiến cho Hân ngây ngất. Toàn bộ cơ thể cô gái trẻ đã phơi bày trọn vẹn trước mắt anh. Hân lặng lẽ và tham lam ngắm nhìn từ trên xuống dưới, vừa thèm khát, vừa cố dằn lòng đừng vội. Một cái cổ không có gì đặc biệt. Đôi vú to, rất gọn gàng với hai cái núm màu hồng đầy khêu gợi và dưới làn da trắng đến nõn nà, Hân thấy rõ cả những mao mạch tỏa đi các phía. Cái bụng thon và phẳng lì với eo lưng thật nhỏ khiến cho hông của cô như càng rộng thêm ra. Dịch xuống phía dưới của chiếc rốn sâu là mảng lông mu đen mượt, khá dày xuôi về phía góc nhọn giữa hai đùi.

Hân nằm đè lên người Tuyết và anh bắt đầu hôn từ đôi mắt, làn môi, cái cổ đến bộ ngực của cô. Trong khi đó, Tuyết đã kịp bỏ chiếc kính cận ra từ bao giờ và dùng đôi cánh tay mềm mại ôm lấy hai bờ vai của bạn tình. Trên người Hân lúc này vẫn còn chiếc quần đùi dệt kim bó chặt và anh không hiểu tại sao đúng vào hôm nay, anh lại không mặc một chiếc quần nào khác. Tuy vậy, hai chân anh vẫn quắp lấy chân cô gái, chứ không phải là tìm cách dạng nó ra.

– Em cho anh cả đấy! – Tuyết ghé vào tai Hân, nói nhỏ. Nhưng trong khi anh còn chưa kịp nghĩ ngợi gì thì cô đã lại khẽ khàng:

– Anh cho em mượn cái khăn tắm được không? Sợ nó ra giường của anh thì chết!

Hân không hiểu được ngay yêu cầu ấy của Tuyết, nhưng anh vẫn đứng dậy, lấy khăn lót xuống bên dưới mông cô. Tuyết vẫn nằm im, tay vắt lên ngang trán như để che mắt cho đỡ bị chói ánh đèn và lại nhắc:

– Anh cởi nốt ra đi.

Hân ngượng nghịu làm theo lời Tuyết rồi anh thận trọng gạt đôi chân đang khép lại của cô sang hai bên cho nó mở ra như một chiếc com pa. Ở tư thế ấy, Hân muốn khám phá những bí mật cuối cùng tại điểm nhọn căng đầy của cô gái. Tuyết hơi nhắm mắt lại như đang ngủ, nhưng khi Hân vừa úp mặt vào phần bụng dưới của cô và định hôn lên đấy thì cô ngăn lại:

– Đừng, anh! Anh nằm lên đi…

Hân lập cập nằm đè lên tấm thân đầy đặn của người con gái và chỉ có trời mới biết, tại sao vào đúng cái giây phút ấy, anh lại bỗng nhiên không còn muốn chiếm đoạt cô một chút nào. Để mặc cho một phần cơ thể của mình đứng giữa ngã ba đường, Hân tự hỏi, liệu mình đã thật lòng yêu Tuyết chưa? Câu trả lời, khó mà khẳng định. Và anh cũng vẫn còn nhớ như in lời của cô vừa mới cách đây chưa lâu: “Nhưng mà em có yêu anh đâu”? Vậy thì cô ấy cho mình vì lẽ gì? Hay là Tuyết muốn, bằng cách này ràng buộc anh vào cuộc đời cô? Thật không hiểu được! Hân thở dài, lặng lẽ lướt qua cánh cửa huyền bí đang mở rộng đón chờ và tự nhủ, mình làm thế này thật không nên một tí nào!

Tuyết vẫn nằm im, khẽ nắm lấy những ngón tay gầy guộc của Hân và hoàn toàn hẫng hụt. Cô không hiểu tại sao anh dừng lại, nhưng nỗi thất vọng vì bị từ chối khiến cô choáng váng. Không thể nào ngờ được Hân lại làm như thế. Vậy mà mình đã lo lắng, chuẩn bị tinh thần cho một cái đau nhói lên, xuyên thấu và hồi hộp đợi chờ…

Cơn hứng khởi và ham muốn hiến dâng đã qua đi, Tuyết bỗng nhiên cảm thấy mệt rã rời. Cô chống tay ngồi dậy, quờ quạng tìm chiếc kính rồi bước vào nhà tắm. Hân, đã kịp mặc lại chiếc quần đùi bó chặt, ôm quần áo của Tuyết và đứng đó, chờ cô đang thản nhiên buộc lại mái tóc trước khi mở vòi sen cho nước xối nhẹ xuống người. Phòng bên vẫn tối om, cửa đóng then cài, nên Hân không có gì phải ngại. Anh chỉ lặng lẽ ngắm nhìn cái cơ thể ngồn ngộn nõn nà của Tuyết như được tạc bằng cẩm thạch nhưng chẳng còn lấy một chút cảm xúc nào dù nhỏ.

Tuyết đã tắm xong. Cô đón lấy chiếc khăn từ tay Hân, bước ra khỏi bồn tắm rồi bắt đầu lau người thật kĩ càng. Xong xuôi, Tuyết mỉm cười gượng gạo để Hân lúi húi mặc lại cho cô từ chiếc quần lót nhỏ xíu, chiếc quần dài và kha lát bằng những động tác vụng về. Mãi rồi cũng xong được công việc ấy, Hân thở phào, ôm lấy Tuyết, cảm nhận rất rõ đôi vú mềm mại căng tròn của cô áp sát vào bộ ngực trần của anh như thế nào. Hai người hôn nhau một lúc nữa rồi Tuyết gỡ tay Hân ra và bảo:

– Thôi, em đi về đây! Chúc anh ngủ ngon!

– Chúc em ngủ ngon!

Hân lặp lại một cách hoàn toàn thụ động, chờ cho đến khi bước chân của Tuyết dọc hành lang tắt hẳn rồi mới đóng cửa. Anh đứng dựa lưng vào tường, đầu óc hoàn toàn trống rỗng. Không hiểu tất cả những gì vừa xảy ra là thực hay mơ? Sao mình lại có thể hèn đến thế? Liệu Tuyết có coi đấy là sự xúc phạm đối với cô không? Nhưng cái gì đã khiến cô dễ dàng như vậy? Hân không biết, khi đã yêu một cách chân thành thì người con gái thường tỏ ra bạo dạn, thậm chí là bất chấp, trong khi đám con trai lại rụt rè. Anh chậm chạp bước lại gần cửa kính rồi giụi trán mình vào đó.

 Đêm chưa khuya lắm, và ở ngoài trời, tuyết đã ngừng rơi, hơi nước bám mờ cả cửa kính. Một dòng nước nhỏ từ đâu đó lại đang ngoằn ngoèo bò xuống. Hân cứ đứng như thế một lúc lâu, đến khi cảm thấy lạnh cóng cả người, anh mới quay lại với cái đi văng của mình, kéo chăn lên đắp. Vẫn còn đây, mùi nước hoa thoảng nhẹ và mùi cơ thể của Tuyết chưa kịp tan đi. Hân trằn trọc mãi vì cái mùi rất riêng tư ấy, và cứ băn khoăn tự hỏi liệu có đúng không, khi mình không đi đến bước cuối cùng? Tuyết sẽ nghĩ như thế nào về điều đó? Cũng lạ, cô gái không hề tỏ ra ngượng ngùng hay rụt rè gì hết mà lại rất tự nhiên. Tất cả đều diễn ra dưới ánh sáng choang của chùm đèn trong phòng ở và nhà tắm. Hân chợt nhận ra hình như trước mỗi thử thách cuối cùng, anh đều do dự, đắn đo, thậm chí là dừng lại cứ như có ma xui quỷ khiến thế nào. Đó cũng chính là cái dở nhất trong tính cách của anh. Nhưng mặt khác, đúng là không bao giờ Hân lại nghĩ rằng mình cần phải đạt được một điều gì đó bằng mọi giá.  

 

Trong khi gã trai tuổi ba mươi vẫn còn đang ngẫm ngợi đủ điều thì Tuyết cũng chưa ngủ được. Cảm giác cay đắng và thất vọng tràn đầy trong suy nghĩ của cô. Thật sự, Tuyết không thể nào hiểu nổi tại sao Hân lại có thái độ lạ lùng như thế, mặc dù trước đó anh đã tỏ ra ham muốn và cuồng nhiệt biết chừng nào!

 Tuyết yêu Hân, vì cái vẻ ngoài hơi lạnh lùng và ngơ ngác của anh. Thêm vào đó, là sự dửng dưng hay thờ ơ gì đó. Dường như anh không bao giờ bị cuốn theo lối sống hay hành vi của mọi người, dù Việt Nam hay nước ngoài. Có cảm giác, Hân chỉ làm những gì mà anh thích và cho là đúng. Cô đến với anh, và anh chủ động hoàn toàn trong mọi việc. Thế mà tối nay… Anh không hề biết rằng cô đã chuẩn bị kĩ càng cho cuộc gặp gỡ ấy như thế nào. Cô đã hi vọng, đã chờ đợi nhưng rồi tất cả đều hỏng hết, chỉ còn lại một nỗi ê chề, thất vọng nặng nề  Tuyết cay đắng nhận ra mình đã bé cái sự lầm và cô khẽ cắn môi, đi đến quyết định cuối cùng.

Sáng hôm sau, Hân nhìn thấy Tuyết ở trường. Gương mặt cô có vẻ xanh xao, chắc là do mất ngủ. Trông cô thật tội nghiệp với mái tóc rối bời và nhừng bước chân xiêu vẹo trên đôi giày cao gót. Tự nhiên, Hân cảm thấy mình thật có lỗi và buồn tê tái trong lòng. Cũng đúng vào lúc ấy, anh chợt nhận ra rằng mọi cái giữa anh và Tuyết đã không còn nữa. Nhưng Hân vẫn bước về phía cô, gượng hỏi:

– Em làm sao thế? Ốm à?

– Không, em vẫn bình thường.

– Nhưng anh trông em xanh lắm… Tối nay, anh em mình đi xem phim đi.

Tuyết hơi lắc đầu, nhìn xuống:

– Thôi anh ạ. Mà từ nay, em cũng không lên phòng anh nữa đâu. – Cô ngẩng lên, nhưng mắt lại nhìn sang phía khác.

– Sao lại thế? – Hân giật mình vì không ngờ sự kết thúc lại nhanh đến thế.

– Tại vì… Em có yêu anh đâu! Em chỉ thương anh thôi. Vì… em thấy anh lúc nào cũng chỉ có một mình… – Tuyết lại hơi cúi đầu, chậm rãi trả lời bằng giọng nói vẫn rõ ràng, rành mạch như thể cô đã suy nghĩ về điều này kĩ lắm rồi.

– Sao lại thế, em… – Hân lặp lại, hoàn toàn vô thức.

Tuyết ngẩng lên, nhìn Hân và mỉm cười cay đắng:

– Thì em đã nói rồi, em có yêu anh đâu! Mà cũng tại em hèn quá, còn anh thì lại cứ đòi… Em xin lỗi, chuông rồi.

Đúng là chuông báo giờ vào lớp đã vang lên riết róng. Không cần biết Hân có thái độ ra sao, Tuyết đã vội đi như chạy. Hân chậm chạp lê từng bước chân nặng trĩu về phía ngược lại với cô, và đúng vào lúc này anh mới nhận ra mình yêu Tuyết đến chừng nào! Còn hôm qua, hôm kia? Hình như đó mới chỉ là sự ham muốn chiếm đoạt rất bản năng. Sự thật không phải như vậy ư, những lời lẽ yêu đương chỉ thoát ra khỏi miệng anh một cách bất ngờ, khi Tuyết có mặt ở phòng anh hôm ấy. Nhưng bây giờ thì lại khác, tuy có lẽ là đã muộn mất rồi.

Những ngày tiếp theo, Tuyết luôn luôn tìm cách tránh xa Hân. Cô chỉ dàn mặt anh khi ở chỗ đông người, với thái độ thờ ơ như thể giữa hai người chưa từng có chuyện gì. Cũng may mà không ai biết được điều vừa xảy ra giữa Tuyết và Hân. Quả thật, anh rất muốn hàn gắn lại mối quan hệ của mình với Tuyết, nhưng thấy cô lảng tránh nên sau vài lần thất bại, anh cũng đành chấp nhận nén nỗi đau trong dạ. Nhưng thật bất ngờ, là một buổi tối Tuyết lại lên gõ cửa phòng anh. Vừa nhìn thấy cô, Hân đã lấy làm mừng, nhưng rồi lại chưng hửng ngay lập tức.

– Em xin lỗi anh… Đúng là phiền anh quá, nhưng không hiểu sao, mấy hôm nay trong người em nó cứ làm sao ấy… – Tuyết có vẻ hơi đắn đo một lát. – Lúc nào cũng buồn đi giải, nhưng không tài nào đi được. Anh… có cách nào giúp em được không?

Trời ạ! Suýt nữa thì Hân kêu lên thành tiếng. Sao Tuyết không tìm đến ai khác mà lại hỏi anh! Tuy vậy, Hân vẫn nghĩ ngợi một hồi, cố nhớ lại xem người ta sẽ làm gì trong những trường hợp thế này.

– À… Chắc là tại em bị nhiệt quá đấy mà! Không sao đâu. – Anh đưa cho cô chiếc bắp cải mới mua lúc chiều nhưng chưa dùng đến:

– Em đem về, luộc lên ăn và uống luôn cả nước. Nhất định là có tác dụng ngay.

– Ô, thật thế hở anh? – Tuyết reo lên mừng rỡ. – Nhưng mà em lấy cả làm gì, có lẽ chỉ cần nửa cái cũng đủ rồi.

– Em cứ lấy cả đi, có đáng bao nhiêu đâu mà!

– Không, – Tuyết lắc đầu. – Mai, em sẽ tự đi mua. Còn phải để anh ăn chứ! – Tuyết tìm dao, rồi loay hoay bổ đôi chiếc bắp cải. – Thôi, em về đây. Cám ơn anh nhiều.

Hân kéo Tuyết lại, định hôn nhưng cô đã kịp quay ngoắt mặt đi, nên cái hôn của anh trượt ngay sang mái tóc của cô.

– Đừng, anh! Em đã nói rồi mà.

– Anh yêu em!

Cô gái hơi cúi đầu và lặng im một lát:

– Nhưng mà em không yêu anh… Em chỉ thương và quý anh thôi. Anh có hiểu không?

– Không, em… – Hân choàng tay, định ôm lấy Tuyết, nhưng cô khẽ gỡ ra và nói bằng giọng rất buồn:

– Thì đến một lúc nào đó, anh sẽ hiểu.

Thái độ nhẹ nhàng nhưng kiên quyết của Tuyết khiến Hân chết đứng. Cô gái xoay người, chậm rãi bước ra, không quên khép lại cánh cửa sau lưng. Còn lại một mình, Hân vẫn ngẩn ngơ, không hiểu tại sao mọi thứ lại trôi nhanh đến thế. Tất cả chỉ chưa đầy một tháng! Nhưng mấy chục ngày vừa qua, anh đã hiểu được thế nào là hạnh phúc và đau khổ. Chỉ tiếc là mở đầu và kết thúc đều quá vội vàng và bây giờ, người con gái ấy lại đẩy Hân vào tình huống oái oăm… Nhưng anh thông cảm và càng thương Tuyết hơn vì ở đơn vị này, cô không thân được với nhiều người.

Sáng hôm sau, vừa nhìn thấy Hân, Tuyết đã vui vẻ nói ngay:

– Anh… Đúng là tài thật! Em vừa mới luộc bắp cải lên ăn và uống nước xong một lúc, thì trút được ra đến cả một xô, nhẹ bẫng cả người.

– Ô thế à? – Hân cũng mỉm cười, lấp lửng. Mừng, vì cách chữa bệnh dân gian lại tỏ ra hiệu quả, anh nửa đùa nửa thật:

– Bận sau có gì em lại lên tìm anh nhé!

– Thôi, bận sau thì em tự giải quyết được rồi, không phải làm phiền đến anh nữa đâu. Anh cứ yên tâm. – Tuyết trả lời rất thực lòng.

Hân khẽ thở dài ngao ngán trước những lời của Tuyết. Vừa cách đó mấy ngày, anh trò chuyện với Phương. Chẳng biết thế nào, cậu ta lại quay ra chê Tuyết sống theo kiểu quá ư là cổ hủ. “Với bọn con gái Nga ấy à, chỉ cần một chai vốtca hay vinô là xong. Chẳng có làm mình làm mẩy gì hết! Đằng này đã lôi lên giường, lột hết quần áo ra rồi, lại còn nằm úp sấp mặt xuống mà khóc. Sốt cả ruột! Em tức mình quá, cho nghỉ luôn. Cứ tưởng là mình ghê gớm lắm”!

Nghe đến đấy, Hân chỉ muốn thụi cho Phương một quả, nhưng anh kìm lại được. Bây giờ, anh mới hiểu tại sao Tuyết lại mượn anh chiếc khăn tắm và nỗi sợ của cô. Thêm một lần nữa, Hân nhận ra sự chân thành không một chút màu mè, giả dối ở cô gái Hà Nội gốc. Nhưng cũng chính vì thế nên dù tiếc nuối, anh vẫn tự an ủi mình rằng, làm thế là đúng. Bởi vì vào lúc ấy, thực ra anh nào đã thật yêu cô. Hân không muốn sau này mỗi lần nhớ đến anh, Tuyết lại căm ghét hay oán trách vì đã chọn nhầm đối tượng để tin cậy và trao gửi. Nhưng ngay cả khi đã nghĩ như thế rồi, anh vẫn không dễ nguôi ngoai và quên đi được người con gái ấy. Dù sao, họ vẫn học chung một trường và ở trong cùng một kí túc xá, chỉ cách nhau có mấy tầng nhà.  

 

*

*          *

 

Thật ra, trước khi Tuyết đến với Hân thì anh đã có một tình yêu đáng được coi là mù quáng đối với Thoa, con gái của một người đàn bà tai tiếng từng học ở trường này. Dáng cao gầy, eo lưng nhỏ, gương mặt thông minh nhưng Thoa không để lại một ấn tượng nào cho những người khác giới qua lần đầu tiên tiếp xúc. Nhìn cô, Hân không thể không nhớ đến câu Tiểu yêu âm hộ đại. Nghĩa là cô nào eo lưng nhỏ, thì… to. Khiếp, các cụ nhà ta nhận xét gì mà ghê thế! Hân không biết liệu Thoa có to không nhưng bộ ngực của cô thì gần như phẳng lì, chẳng thấy cái khe nào. Hào phóng lắm, anh cũng chỉ dám cho đôi vú của cô như hai chiếc bánh dày mà tạo hóa vốn rất không công bằng đã tặng.

Ngay từ khi mới vào năm thứ nhất, Hân đã được nghe kể về một thiếu phụ Hà Nội, người đã từng là diễn viên của một đoàn văn công có tiếng. Khi sang đây học thì chị đã ngoài ba mươi, để lại bên nhà một cô con gái lên mười và ông chồng cán bộ nhưng cơm không lành, canh không ngọt. Thật bất ngờ là sau khi nhập học chưa được bao lâu, chị đã bập ngay vào một giáo sư người Nga, được ông này giao cho chìa khóa căn hộ để có thể đến và đi vào bất cứ lúc nào. Ông giáo sư rất đẹp trai, mới chưa đầy bốn mươi lại đã li hôn nên cũng thoải mái. Các cán bộ, nhân viên nhà trường chẳng có ý kiến gì, vì không giống như dân Việt Nam, họ coi đấy hoàn toàn là chuyện riêng tư của mỗi người. Nhưng chưa hết năm dự bị, người đàn bà trẻ đã chủ động cắt đứt giáo sư để gá nghĩa với một cậu em người Việt kém đến năm sáu tuổi. Anh này xấu trai, dáng người nhỏ thó gày gò, nhưng được cái hoạt ngôn và buôn bán, làm ăn cũng khá.

Không may cho người đẹp, chẳng biết thế nào chuyện yêu đương của chị lại bị phát hiện và báo cáo lên Sứ quán. Người ta bắt chị và anh chàng kia làm kiểm điểm, chờ xét kỉ luật. Cậu em khôn nứt giời rơi xuống, cúi đầu nhận tội để được khoan hồng. Còn chị, không những không chịu nhận khuyết điểm thì chớ, lại còn nói hỗn và thách đố cán bộ Sứ quán hay sao đó, nên bị đuổi về nước, không cho học tiếp. Nhưng tệ hại hơn, còn có tin đồn loang ra, rằng ngoài cậu em kết nghĩa kia, chị còn Tây trắng (thì ông giáo sư người Nga đấy thôi!), Tây đen đủ kiểu.

Thực hư chuyện ấy như thế nào, Hân không biết. Vì dù sao đó cũng chỉ là tin đồn, mà tin đồn thì người ta có thể cho thêm biết bao nhiêu là dấm ớt. Nhưng rõ ràng, chuyện một nữ sinh viên lớn tuổi ở trường này bị đuổi học là có thật. Và ai mà biết được, thiên tình sử của chị sẽ còn được người ta đem ra bàn tán với nhau cho đến tận bao giờ, vào những lúc trà dư tửu hậu hoặc mỗi khi ai đó chợt nhớ ra. Rồi đến khi lớn lên, nếu con gái chị sang đây học lại được nghe chuyện về mẹ nó, thì nó sẽ nghĩ gì? Mọi cái đều có thể xảy ra lắm chứ! Ở Mátxcơva cũng như Liên Xô nói chung có biết bao nhiêu người Việt Nam từ bố mẹ, con cái, anh chị em đến vợ chồng đã cùng nhau hoặc lần lượt nối theo nhau vào học một trường.

Có lẽ Thoa cũng không tưởng tượng được, từ khá lâu cả đơn vị đã bàn tán về cô. Thì tiếng lành đồn xa… mà lại! Cô bé ngày xưa giờ đã hai mươi hai tuổi và thật trớ trêu, lại vào đúng cái trường mà mẹ nó từng theo học. Cũng chính vì thế mà Hân thầm mong gặp Thoa để xem cô là người như thế nào. Kịp đến một buổi trưa trong giờ nghỉ, Hân và mấy anh nữa đang đứng tán gẫu, chờ giờ học chiều thì Thoa đi tới. Cô gái, sau này Hân mới biết là cao một mét sáu mươi ba, da ngăm ngăm đen nhưng lại mặc chiếc áo sơ mi cổ vuông màu hồng, quần bò có túi và khóa kéo ở ngang đùi. Tóc xõa. Thấy mấy anh chàng Việt cộng đang hau háu nhìn mình, Thoa làm ra vẻ ý tứ, lấy chiếc túi đang cầm trong tay che luôn phần gấu áo phía trước bụng và lên tiếng:

– Chào các anh!

– Chào em!

Họ đã làm quen với nhau như thế. Cảm giác đầu tiên của Hân là cô gái có vẻ tự tin và cởi mở khi nói ngay về việc mẹ cô cũng đã từng học ở đây, tất nhiên là không đả động gì đến việc bà bị đuổi. Thoa đã tốt nghiệp hệ trung cấp đàn bầu Trường âm nhạc Việt Nam. Đã có người yêu và sáu năm học ở đây là quá dài, vì thế cô rất mong được về nước sớm hơn để còn lấy chồng. Xưa nay, chỉ có phụ nữ làm vọng phu hóa đá, chứ bắt đàn ông chờ đợi làm sao được! Anh ấy mà đi lấy vợ mất thì nguy.

Phải đến khi tiếp xúc nhiều hơn, Hân mới hiểu ra sự chân thành ấy của Thoa thực chất là như thế nào. Nó giống như một tuyên bố ngầm: đấy, tôi là như thế đấy! Các vị nghĩ gì thì tùy, tôi bất chấp. Nhưng lúc này, giọng nói và cử chỉ của cô vẫn có cái gì đó thật dịu dàng. Thì lần đầu tiên gặp gỡ mà! Những chiếc lông nhím chưa cần phải xù ra, và cô gái  chưa có lí do để mà bùng nổ.

Chẳng biết thế nào, qua một thời gian tiếp xúc, Hân lại có cảm tình thật sự với Thoa và có lẽ cô cũng không đến nỗi ghét anh. Bằng chứng là cô vẫn thường vui vẻ chào hỏi mỗi khi nhìn thấy và thỉnh thoảng lại xuống phòng anh chơi (vì Thoa ở tầng trên). Tán đủ mọi thứ chuyện, trong khi các cô gái khác thì tuyệt nhiên chẳng bao giờ đến chỗ Hân. Anh cũng quý mến Thoa, vì thấy cô có những sở thích giống mình như nghe nhạc, xem phim, thích thơ và tiểu thuyết. Đã có những hôm, hai người ngồi với nhau đến tận một, hai giờ sáng, ngáp ngắn ngáp dài…

Một buổi chiều mùa hè, Hân rủ Thoa vào rừng chơi. Rừng Jauza đẹp mê hồn ở cách kí túc xá cũ của Hân chỉ chừng hai cây số. Gần đó là cây cầu, nơi ngày xưa Natassa cùng gia đình đã đi qua trong khi sơ tán trước nguy cơ Napoléon đánh chiếm Mátxcơva. Trải gần hai thế kỉ, giờ đây dòng sông đã biến thành con suối nhỏ, cây cầu cũng trở nên hoang phế đứng giữa trời, chẳng còn ai qua lại nữa. Natassa đã về với cát bụi từ lâu, nhưng bất kì ai khi đọc Chiến tranh và hòa bình của Lép Tônxtôi vĩ đại cũng sẽ đều phải nhớ tới nàng. Kiệt tác văn chương đã dẫn đến sự ra đời của một bộ phim cùng tên nhưng không thể sánh bằng, do Xécgây Bônđartrúc làm đạo diễn.

Ở Mátxcơva cũng như cả nước Nga, đi đâu cũng gặp rừng. Những khu rừng thưa, bạch dương thân trắng. Những rừng thông chóp nhọn xanh om. Rồi những khu rừng hoàn diệp liễu ken dày, rừng phong lá đỏ, rừng tai ga hoang vắng… Hân vẫn chưa quên cảm giác choáng ngợp trước thiên nhiên kì vĩ và những khu rừng mênh mông, ngút ngát ở Xibir. Gần hai ngày đêm đi từ Irkuxk về Mátxcơva trên đoàn tàu chạy một trăm ki lô mét một giờ, nhìn ra ngoài của kính, lúc nào anh cũng chỉ thấy toàn rừng là rừng. Lâu lâu mới lại hiện ra một vài ngôi nhà gỗ truyền thống của người Nga với ống khói nhô lên trên mái.

Đến Mátxcơva, rừng cũng vẫn trải dài bên cạnh ga xe lửa chạy điện, rừng ở bến xe buýt, rừng kề bên kí túc xá và các chúng cư. Tất cả những khu rừng ấy đều giống nhau ở chỗ sạch sẽ và thoáng đãng. Đây đó, bên những con đường bê tông, lại có những bộ bàn ghế cho khách bộ hành nghỉ chân được làm theo cổ tích Ilja Murômét[5], Rútxlan và Lútmila[6] hoặc các nhân vật thần thoại, với một số tượng gỗ và cả những căn nhà nhỏ xíu dựng trên cây cột được làm giống như chân gà trống[7] hoặc có con cú đậu bên trên. Những chuồng chim, chuồng sóc gắn ở thân cây để cho chúng trú đông.

Việc Hân rủ Thoa vào rừng chơi thật ra không phải là do có tình ý gì, mà chỉ vì bột phát. Hân bỗng nhiên thích thế. Cô gái nhận lời ngay và Hân thấy hình như cô đẹp hẳn lên trong chiếc áo trắng hoa văn xanh nhạt, cổ thuyền và chiếc quần âu màu be ống đứng. Kể cũng hơi buồn cười, khi Hân lại mặc chiếc sơ mi có màu gần giống như áo của Thoa, và vóc dáng gày gò của hai người thì chẳng khác nhau là mấy.

Họ vừa đi vừa chuyện trò, theo một lối nhỏ ngoằn ngoèo bò qua cánh rừng bạch dương loang lổ nắng. Hân không hiểu tại sao rừng ở đây lại dường như toàn những cây thuần chủng, không rậm rịt và tầng tầng lớp lớp, đầy muỗi, vắt như ở bên nhà. Nhưng những con đường trong rừng thì không phải chỗ nào cũng thẳng. Khu rừng mà anh và Thoa đang đi lúc này cũng vậy. Nó khá gần một ga xép nhưng sao mà yên tĩnh thế! Không một chút nào gợi nhớ đến những khu rừng âm u, chết chóc Hân đã từng qua ở Trường Sơn.

 

…Cơn sốt rét đầu tiên quật ngã Hân đúng vào lúc anh vừa đặt chân tới cao nguyên Bôlôven ở nam Lào. Cũng may, hôm sau là ngày nghỉ. Đất đỏ ba dan trơn trượt, mặc dù trời tạnh. Một hoàng hôn cũng toàn màu đỏ và những đám mây vần vũ. Hân chỉ kịp mắc vội chiếc võng rồi nằm lăn ra, không biết gì nữa. Nhâm ba chi vâu giúp anh mắc vội cái tăng. Đến mãi tận trưa hôm sau, lúc Hân mở được mắt ra thì mới biết, nơi đó là một bìa rừng, bên cạnh bờ sông Mêkông dốc đứng. Nhìn sang bên kia đã là đất Thái Lan, thấp thoáng những ngôi nhà sàn mái đỏ và những cây dừa, có vẻ như một xóm làng trù phú. Và trái ngược với suy nghĩ của mọi người, đoạn sông chảy qua đây rộng mênh mông, đỏ phù sa, chảy băng băng chứ không hiền lành một chút nào.

Lần thứ hai Hân mở mắt thì trời đã sâm sẩm tối. Ngay dưới võng anh là một dòng suối nhỏ. Có lẽ là do nước mưa từ trên nguồn đổ về, và nếu lũ lớn hơn thì chắc là nó đã cuốn anh đi tận đâu rồi. Kể ra, nước có cuốn trôi đi cũng được. Rất có thể, không kịp biết sợ là gì nữa! Chết như vậy cũng nhẹ nhàng… Những suy nghĩ tối đen, lộn xộn trong cái đầu mụ mị của Hân. May sao đôi dép ở chân còn chưa kịp tháo ra, không thì đã mất. Chính múp kể, anh sốt tới bốn mươi hai độ; y tá đại đội đã đến tiêm cho anh một mũi quinacrin và B1. Hân chỉ khẽ phều phào “thế à”? rồi run rẩy thử thò chân xuống đất và giật bắn mình. Bủn rủn cả người vì cơn lạnh thấu tim. Anh phải cố gắng lắm mới thu được chân lên võng, ngửa cổ uống ừng ực hết gần nửa bi đông nước rồi lại nằm lịm đi như chết.

Ít hôm sau, đến trạm đầu tiên của đường dây Giải phóng nằm trên đất Campuchia. Người ta gọi như thế là để phân biệt với đường dây 559, do miền Bắc quản lí và cung ứng hậu cần. Có vẻ như đất với trời ở đây đã khác với Lào. Rừng thưa hơn, phần lớn là những cây dầu. Đất pha cát và thoai thoải nên đi lại cũng đỡ vất vả hơn. Nhưng cái mà lính ta háo hức nhất là điều kiện vật chất khác hẳn đường dây 559. Gần dân, gần cửa khẩu mà! Không còn là những lời kháo nhau đầy mong đợi nữa. Lần đầu tiên sau gần ba tháng hành quân, toàn tiểu đoàn của Hân được cấp rau muống, cá tra khô mỗi con to như một cái quạt mo và lạc, thứ ở trong này người ta gọi là đậu phộng. Còn gạo, thì anh chàng thủ kho cũng là dân Bắc, khoát tay hào phóng:

           – Đấy, các ông thích lấy bao nhiêu thì cứ vào mà xúc, không phải cân làm gì cho mệt. Nhưng tôi bảo thật, đừng tham quá, kẻo ăn không hết lại đổ đi thì phí. Đừng có no bụng đói con mắt. Nghe chửa?

Những người lính đói khát lâu ngày làm sao lại có thể để ý đến lời khuyên ấy! Họ ào vào kho, mỗi người làm một ba lô đầy, cả Hân cũng thế. Mà mỗi ba lô gạo, khoảng hơn hai chục cân chứ nào có ít đâu! Tất cả đều lặc lè, mãn nguyện kéo nhau về bãi trú quân. Ngay lập tức, lửa được nổi lên, nước gạo vo trắng cả suối và lần đầu tiên kể từ khi rời miền Bắc, tiểu đội của Hân mới có được một nồi cơm đầy đến thế! Một cái “xoong mười hai” mà có lẽ phải hai chục người ăn cũng chưa chắc đã hết.

Sẵn cơm và thức ăn, Hân làm luôn đến tận ba bát B 52 đầy ắp. Trời đất ơi, sao mà ngon đến thế! Thật chẳng bù cho suốt gần ba tháng trời, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến ăn. Còn lúc này, rau muống luộc đầy một vung nồi vốn vẫn được dùng làm một chiếc đĩa thật to. Lạc rang với muối làm món “bom bi”. Cá tra khô, nghe nói được đánh từ sông Mêkông, ngay từ lúc vừa mới nướng đã nhỏ mỡ xèo xèo trên than hồng, thơm nức mũi. Ở miền Bắc làm gì có loại cá khô nào to và ngon đến thế này. Cả tiểu đội xúm vào hít hà, gắp, nhai, chan, húp, hả hê cười nói. Mồ hôi ướt hết cả lưng và đầm đìa trên mặt. Tất cả đều ăn như để trả thù cho những ngày qua. Không còn ai phải dè chừng ai nữa.

Càng về cuối bữa ăn, tiếng cười nói càng thưa dần. No quá rồi! Một người nào đó kêu lên cùng với tiếng ợ rõ to. Hân cũng thấy cái bụng của mình đã căng lên hết mức, như thể nó sắp sửa bục ra đến nơi. Không tưởng tượng được, anh có thể ăn được nhiều đến thế. Vậy mà vẫn cứ thòm thèm như bị con ma đói nó hành. Nồi cơm vẫn còn đến gần một nửa; lạc rang, cá nướng và rau muống cũng đã hết đâu! Bây giờ, Hân mới hiểu thế nào là bội thực. Anh phải khó nhọc lắm mới chống được tay để đứng lên, rời khỏi chỗ vừa ngồi. Không thể nằm ngay lên võng vì cái bụng chềnh ềnh như bụng cóc, Hân đành phải trải ni lông, nằm tạm trên mặt đất để mà thở cho đỡ mệt.

Qua những tán cây thưa, lâu lắm rồi Hân mới lại thấy những vì sao mờ nhạt. Lại nhớ đến bố mẹ, anh em. Gần ba tháng trời không thư nhà, không tin tức, không biết mọi người ở ngoài ấy thế nào. Nhớ đứa em gái út vừa đi vừa giơ tay áo lên lau nước mắt lúc tiễn anh. Nó mới hơn mười tuổi, gầy gò nhỏ bé nhất nhà. Chả biết sau này có còn sống về nhìn thấy nó nữa không…

Hân vẫn nằm thở phì phò và cảm thấy đất dưới lưng mình cũng ấm lên. Anh chợt nhớ đến câu nói của ông đồ Hương từ bao giở bao giờ, là thấy ăn, đừng có vội mà chạy đến, có khi chết đấy! Miếng ăn quá khẩu thành tàng. Chao ôi, con người ta sao mà khổ thế! Như một câu chuyện ngụ ngôn mà lúc này Hân không còn nhớ rõ. Một người đàn ông giương súng nhằm bắn con chim trên cành cây. Con chim đang rình bắt một con sâu đang gặm lá. Trong khi đó, một con muỗi đã vo ve đậu lên mặt người đàn ông để đốt… Tất cả đều giống nhau ở chỗ là chết vì miếng ăn, trong khi kiếm miếng ăn.

Hân buộc phải bò dậy vì xung quanh nhiều muỗi quá. Bọn chúng cứ đua nhau bu vào đốt, lại thêm sương lạnh sa xuống kêu lộp bộp. Anh ì ạch leo lên võng, chui vào màn với cái bụng căng tròn lại bị uốn cong theo chiều võng, thật là khó chịu. Hân hối hận vì đã ăn đến nỗi gần như để chết.

 

Bốn ngày xả hơi đã trôi qua, mọi người lại phải hành quân tiếp. Từ đây vào đến khu tập kết Đống Đa, Đông Nam bộ còn khoảng dăm ngày nữa. Rút kinh nghiệm hôm trước, lần này không còn ai lấy thêm gạo làm gì. Cá khô và lạc thì theo định lượng rồi, mà chỉ chừng ấy cũng đã là thoải mái. Nhưng cơm thừa và gạo thì đã bị đổ trắng các gốc cây, nhiều chỗ mốc meo, bốc mùi chua loét. Hình như chẳng có ai nghĩ đến những người đang chạy ăn từng bữa ở ngoài kia…

Thật khó có thể quên tình huống tức cười, lúc đơn vị của Hân phải đi qua một khu rừng khộp[8] rộng mênh mông ngập nước. Mưa, nước sông dâng lên ngập hết cả đường. Chỗ cao, thì nước ngang bắp chân, còn chỗ thấp, ngang ngực thậm chí lút đầu người là cái chắc. Hôm ấy lại đến lượt đại đội của Hân đi đầu. Tiểu đoàn trưởng Chinh hói tay chống gậy, đứng trên một mô đất cao nói rất to:

– Tất cả nghe đây! Cởi hết quần áo ra, cho vào ba lô rồi buộc ni lông lại cho thật kín vào, đội lên đầu mà đi. Nghe rõ chưa?  

Lính tráng ngơ ngác nhìn nhau, có cậu lại còn cười khúc khích vì không biết thủ trưởng nói thật hay đùa. Ông Chinh quát:

– Chúng mày cười cái gì? Trời mưa thế này, biết đến bao giờ mới tạnh, hả? Bao giờ mới đến nơi? Lấy quần áo khô đâu mà mặc? Đến lúc lăn ra sốt hết cả một lũ thì lấy đâu ra người khiêng chúng mày đi trạm xá? Hả? Bọc ni lông vào bao lô, lúc cần thiết còn túm làm phao để mà bơi… Cởi mẹ nó hết ra!

Thấy nhiều người vẫn còn có vẻ tần ngần, ông liền hét om lên lần nữa:

– Chúng mày xấu hổ gì ở cái nơi khỉ ho cò gáy này? Liệu có ma nào nó nhìn? Cởi truồng ra thì thằng nào chẳng giống thằng nào! Hả? Xem bố mày đây này!

Vẫn đứng trên mô đất, tiểu đoàn trưởng lần lượt cởi từng thứ quần áo, gấp gọn lại rồi cho vào trong ba lô, bọc ni lông cẩn thận. Cậu liên lạc của ông và cả anh chàng giao liên vừa mới tới cũng làm đúng như thế và chẳng mấy chốc, họ đã phô bày toàn bộ thân mình trước hàng mấy trăm người. Sau đó, bọc ba lô, thắt lưng đeo súng ngắn và bi đông nước đội lên đầu, một tay giữ, một tay chống gậy, tiểu đoàn trưởng dò dẫm tiến lên phía trước. Thỉnh thoảng ông còn ngoái lại như để kiểm tra và động viên khích lệ cán bộ, chiến sĩ của mình.

Lác đác đã có anh làm theo, rồi dần dần, gần như cả tiểu đoàn đã trần truồng dầm mình trong nước. Làn nước, trước đó còn trong veo, nhanh chóng đục ngàu lên vì những bước chân mò mẫm. Thế này mà có một chiếc OV 10 hay L 19 lao đến thì chết hết! Hân thầm nghĩ. Và, tuy biết thủ trưởng Chinh có lí, nhưng anh vẫn mặc nguyên chiếc quần đùi chứ không dám cởi hết ra để khoe tấm thân còm cõi của mình. Lại còn thú vị với ý nghĩ một lúc nào đó, người ta tái hiện cảnh này trên màn ảnh. Hơn ba trăm gã đàn ông già trẻ, cao thấp, béo gầy tồng ngồng đội ba lô, chống gậy qua những khu rừng thưa ngập nước… Kể cũng hay đấy chứ! Vì chắc chắn trên toàn thế giới, chỉ có ở Việt Nam, những người lính Cụ Hồ mới hành quân như thế.

Đúng như lời cảnh báo của ông Chinh, cho đến tận tối mịt hôm ấy, cơn mưa vẫn không ngừng. Lính tráng phải căng ni lông để nấu cơm bằng củi ướt, khói mù. Không thể phơi phóng gì được. Mưa liên miên đến tận mấy ngày sau, nhưng cũng may là không còn núi cao vực sâu gì nữa. Những chiếc gậy Trường Sơn, vật bất li thân của mọi người trong suốt mấy tháng qua đã được vứt dần đi hết. Đây cũng là khu vực máy bay địch lờ đi thì phải, nhưng tất cả gần như đã suy kiệt hết rồi. Chỉ cần qua một cái dốc con con là ai nấy đã đều thở hồng hộc, trống ngực đánh thình thình.

 

… Cơn sốt rét ác tính bất ngờ quật ngã Hân ngay khi đơn vị anh vừa mới đến được khu tập kết, nơi người ta sẽ bàn giao quân cho các đơn vị chiến đấu. May mắn thay, không  ai kết tội Hân là bệnh tư tưởng. Cũng chẳng ai ra lệnh chỉ tiêm cho anh nước cất mà không có thuốc. Người ta đưa Hân đi bệnh viện ở ngay gần đó.

Sau hơn hai tháng nằm điều trị đã có lúc phải di dời khẩn cấp vì bệnh viện bị đánh bom, có lúc tưởng như sắp được đem chôn vì bệnh tình quá nặng, Hân ra viện. Đầu váng, mắt hoa, anh chống gậy, run rẩy lần tìm về đơn vị thu dung rồi dần dà trở thành một người lính bộ binh trên đất Campuchia. Lúc này, đoàn cán bộ khung của tiểu đoàn đã lên đường ra Bắc lâu rồi. Bạn cùng đơn vị thì đã tản mát đi đâu hết, không khéo nhiều đứa chết rồi cũng nên. Chiến tranh mà! Còn gì may rủi hơn cuộc đời người lính. Biết bao nhiêu anh mong mỏi đến cháy lòng, thôi thì đánh lấy vài ba trận, bị thương, mất một mắt hay một tay gì cũng được rồi ra Bắc. Nhưng đau xót thay, cái ước nguyện thê lương ấy của họ cũng không thành hiện thực vì có khi chưa kịp bị thương thì đã chết rồi!

Trong đội hình chiến đấu cấp tiểu đoàn của Hân lần ấy, chỉ một quả mìn định hướng cũng quét sạch mất non trung đội, thế mà Hân không hề bị dính một mảnh nào. Anh bặt luôn tin của những người cùng tiểu đội hồi ngoài Bắc. Những Chính múp, Thao tắc kè, Thái đen, Chiến thèm, Nhâm ba chi vâu, Tác lác, Ráng còng… và nhiều người khác. Cứ như thể họ đã tự nhiên tan biến mất tăm vào cõi hư vô, không để lại một dấu vết nào, dù nhỏ. Để rồi rất lâu sau chiến tranh, dò hỏi mãi Hân mới biết được rằng cả đại đội của anh ở Yên Tử năm ấy chỉ còn được khoảng hơn chục người sống sót. Trong đó, tiểu đội của anh góp bốn. Có lẽ là tỉ lệ cao nhất trong đại đội!

 

*

*          *

 

Đi được một lúc, Hân rủ Thoa bỏ con đường bê tông, cắt lối vào rừng. Thảm lá dày lạo xạo dưới chân, trong khi những cây bạch dương vẫn thi thoảng buông rơi từng nốt lá tròn vàng úa như để báo hiệu một mùa thu sắp tới. Hân ngạc nhiên khi thấy chỉ cách đường cái mấy bước chân mà không khí trong rừng đã tĩnh mịch lạ thường. Không còn nghe thấy tiếng người, tiếng còi tàu gì nữa và cũng vắng luôn cả tiếng chim. Chỉ còn lại tiếng gió xạc xào và tiếng lá.

Hân đang chầm chậm đi trước và đắm chìm trong những suy nghĩ vẩn vơ thì Thoa nói với lên:

– Anh Hân, anh đừng quay lại nhé!

– Sao thế em?  – Theo bản năng, suýt nữa thì Hân quay lại xem có chuyện gì. Thoa vội kêu lên thảng thốt:

– Em đã bảo anh đừng quay lại mà!

Hân đành phải im lặng bước mà không hỏi thêm gì nữa. Mãi một lúc sau, mới lại nghe thấy tiếng Thoa:

– Xong rồi!

Hân quay lại, nhìn dò xét. Không thấy trên thân thể và gương mặt cô bất kì sự thay đổi nào, dù nhỏ. Vậy cô ấy đã làm gì? Hân không biết, nhưng anh đồ rằng chỉ đơn giản là Thoa vừa dừng lại, kéo khóa quần hoặc sửa chiếc áo con chẳng may bị tuột. Có thể là do chiếc áo hơi to, mà ngực cô thì lép quá. Nhưng cũng có thể đó là cách mà cô dùng để khêu gợi sự chú ý của Hân chăng? Ai mà biết được! Kết thúc cuộc dạo chơi, cô gái nửa đùa nửa thật buông ra nhận xét chẳng khác gì lời của Phương Linh hôm nào:

– Đi chơi với anh chán quá!

Vào cái thời điểm ấy, Hân chưa biết là ngay sau khi nhập học được ít lâu, cô gái còm nhom có người yêu đang chờ đợi đã leo lên giường với Thành, bí thư chi bộ của đơn vị, một anh chàng mảnh khảnh đẹp trai, cùng tuổi với Hân. Sau đó mới đến những người ở nơi này nơi khác. Hân cũng không biết, là đến mùa hè năm sau, Thoa rủ Thành cùng cô sang Đông Đức chơi, nhưng anh này từ chối vì phải về nước cưới vợ – hai bên gia đình đã chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ cả rồi. Lúc đó Thoa mới nhờ đến Hân, như một “vệ sĩ dự bị”, đưa cô ra ga đi Đức.

Không biết thực chất con người Thoa là như thế nào, nhưng thật lạ lùng là Hân vẫn cảm mến cô một cách rất tự nhiên. Có những lúc lâu lâu không gặp đươc Thoa, anh lại nhớ và cảm thấy như thiếu đi một điều gì đó. Cũng thật lạ lùng là ở Mátxcơva, giữa bao nhiêu thú vui và quan hệ, lại còn bận học hành, Thoa vẫn có đủ thời gian và lòng kiên nhẫn ngồi tháo chiếc áo len mà Cường đã cho Hân, đan lại. Chiếc áo len Pháp màu xám nhạt rất đẹp, gần như còn mới nguyên, nhưng Cường không thích nữa nên đem cho. Thoa thay đổi kiểu cách của vai áo, thêm vào mấy đường kẻ ngang màu đỏ ở cổ tay và gấu áo, thế là Hân đã có một chiếc áo len hoàn toàn mới. Cô cũng cho anh mượn cả một số tiểu thuyết của J.P. Sartre và A. Camus vốn rất khó tìm, đồng thời chia sẻ nhận xét của mình về những quyển sách mà cả hai cùng đọc. Đôi ba lần, họ còn đi xem phim và nghe nhạc cùng nhau…

Cuối năm thứ nhất, Thoa phải đi thực tập ở cách Mátxcơva khoảng hơn một trăm ki lô mét. Thành phố nhỏ có cái tên hơi lạ, Zvenhigôrơd, có nghĩa là reo lên, vang lên, nằm trên khu đồi thoai thoải, bên một dòng sông nhỏ. Cô viết thư về, rủ anh lên đó chơi, vì ngoài thời gian đi đến một số thư viện và trường học, cô chẳng phải làm gì khác.

Hân đến vào một ngày chủ nhật, trên người là chiếc áo len mà Thoa đan lại cho anh và chiếc quần bò Levis, cũng là của Cường trước đó. Thoa đưa Hân đi chơi một vài chỗ rồi ghé vào tu viện cũ, bị bỏ hoang đã từ lâu. Dấu ấn thời gian dường như chỉ còn được lưu lại phần nào qua những chóp dát vàng đã xỉn màu của nhà thờ. Những hành lang dài ẩm mốc. Những căn phòng trống trơn, cửa sổ toang hoang và khu vườn dây leo chằng chịt. Vài con chim bồ câu gù gù một cách vô tư lự giữa khoảng sân rộng mênh mông. Không thể hình dung được, vào lúc vàng son nhất thì tu viện này trông như thế nào và các nữ tu ở đây sống ra sao. Họ đã làm gì trong những tháng năm ấy, khi mà chưa ai có khái niệm gì về chiến tranh và cách mạng. Nhưng rồi tất cả mọi thứ đều đã bị lật nhào và cuốn phăng đi hết. Tất cả các cơ sở tôn giáo gần như đều bị dẹp bỏ trên toàn lãnh thổ Liên bang Xô viết. Không biết các nữ tu ở đây trôi dạt về đâu?

Trên đường về, Thoa đưa Hân ra bờ sông, nơi có một con đường nhỏ đầy sỏi đá dẫn xuống cây cầu được làm bằng gỗ, bắc trên những chiếc thùng phuy cỡ lớn. Hệt như kiểu cầu phao ở miền Bắc Việt Nam thời chiến tranh. Thật lạ. Dòng nước trong veo, uốn lượn mềm mại như một dải lụa và hoàn toàn tĩnh lặng. Bên kia sông, mấy con bò loang đang gặm cỏ ngon lành, soi bóng xuống mặt gương lặng ngắt.

Một cơn mưa nhẹ nhàng đổ xuống, không dấu hiệu nào báo trước. Hân và Thoa vội chạy đến bên một gốc liễu trú mưa vì gần đó chẳng có một cái cây nào khác. Họ nép chung dưới vòm ô mà Thoa đã mang theo. Những giọt mưa lộp bộp đan nhau trên mái ô rồi chảy thành dòng xuống đất.

Đứng sát bên cạnh Thoa, cảm nhận từng hơi thở của cô, nhìn bàn tay cô đang chìa ra hứng nước, Hân bỗng thấy mình xao xuyến. Anh những muốn ôm lấy Thoa, cầm bàn tay ấy của cô và đặt lên đó một cái hôn, nhưng lại không dám, mà chỉ khẽ thở dài. Trong giây phút ấy, Hân nghĩ mình đã yêu Thoa thật sự và hình như cô cũng mong anh  ngỏ ý. Nhưng rồi không có chuyện gì xảy ra, và bây giờ lại đến lượt Thoa khẽ thở dài. Tiếng thở dài như ẩn chứa một điều gì đó mà Hân không biết gọi tên.

Mưa tạnh cũng bất ngờ như khi nó bắt đầu. Cả bầu trời và dòng sông sáng bừng lên. Mấy con bò vẫn ung dung gặm cỏ mà chẳng để ý gì đến đất với trời. Hân đưa Thoa trở lại trường phổ thông, nơi cô và các bạn tá túc trong thời gian thực tập. Anh phải về Mátxcơva trên chuyến tàu bốn giờ chiều. Chuyến sau, vào lúc sáu giờ thì sợ là hơi muộn vì sáng mai, Hân phải tập trung ở trường để đi nghỉ ở Xôchi; toàn bộ kí túc xá sẽ được biến thành điểm lưu trú cho khách đến dự Oolimpích Mátxcơva. Còn Thoa, thì hết kì thực tập này, cô sẽ về phép ở Việt Nam.

Liệu Thoa nghĩ như thế nào về những tình cảm của anh đối với cô? Hơn một lần Hân đã tự hỏi mình như thế và anh tin là cô rất biết, chỉ có điều không nói ra thôi. Trong tình yêu, phụ nữ thường có giác quan thứ sáu kia mà! Lại còn bài thơ anh đã tặng cô, nói về trận mưa hôm ấy. Thoa đọc, khen hay và cũng tỏ ra xúc động. Nhưng tiếc thay, thế giới của cô lại khác hẳn với anh. Có cảm giác, cái mà anh có thì cô không cần và ngược lại, cái anh cần thì cô không có. Hơn nữa, biết đâu cô chẳng sợ thái độ nghiêm túc của Hân, vì đối với cô, yêu thì cứ là… yêu thôi, không phải ngại ngần gì hết. Thậm chí chả cần yêu, chỉ muốn thôi cũng đã xong rồi.

Hân chưa nghĩ đến việc tỏ tình với Thoa, phần do anh đắn đo nghĩ ngợi quá nhiều, phần vì có một cái gì đó thuộc về bản năng mách bảo anh nên cẩn thận. Đến lúc biết được sự buông thả của Thoa thì anh không dám nghĩ đến việc yêu cô nữa. Một cách rất trần tục, Hân còn lo lắng đến khả năng anh không thể nào đáp ứng được nhu cầu tình dục của cô. Càng không thể chấp nhận được, ngay cả khi đã yêu anh rồi, rất có thể Thoa vẫn cứ thoải mái lên giường với những gã đàn ông khác, như những gì mà cô đang thực hiện lúc này. Vậy mà cô vẫn thường dè bỉu, chê bôi đám con gái Nga dễ dãi, không cần yêu đương gì hết cũng có thể ngủ với bất cứ anh nào. Nhiều đứa sáng ra, chia tay rồi còn chưa kịp biết tên nhau! “Khác hẳn với em, chỉ chung chạ với những người đã làm quen từ trước”, Hân thầm nghĩ.

Anh cảm thấy ghê ghê mỗi khi Thoa, trong khi trò chuyện lại bất chợt làm ra vẻ hơi giật mình vì một sự hớ hênh giả vờ nào đó, vội vàng nhìn xuống bộ ngực phẳng lì vẫn đang được che kín như bưng hoặc khép lại đôi chân hơi dạng ra một chút. Cũng đã hơn một lần, anh bắt gặp ánh mắt của Thoa làm như vô tình lướt qua khoảng giữa hai đùi của một người khác giới hoặc nhìn trộm những cơ thể đàn ông khỏe mạnh. Nhưng giọt nước làm tràn li trong suy nghĩ của Hân đối với Thoa lại là lần cô xuống chỗ anh chơi, đúng vào lúc Xêriôgia đang cởi trần trùng trục để dọn phòng. Không giấu được sự thèm muốn và choáng ngợp, cô chằm chằm nhìn anh bạn người Nga lực lưỡng như muốn lôi ngay anh ta lên giường. Đến nỗi Hân hỏi liền mấy câu mà cô cũng vẫn không nghe thấy.

Vốn là người dễ bị tổn thương, Hân thấy mình như bị Thoa xúc phạm không chỉ một lần. Buồn khủng khiếp! Cảm giác này cứ lặp đi lặp lại, khi cô tỏ ra dè giữ trước anh, nhưng lại gần như công khai gạ gẫm hết người này đến người khác mà cô thích. Hân càng lo ngại hơn khi nhìn về quá khứ của mẹ Thoa, người đã để lại bao nhiêu điều tiếng ở đây. Giỏ nhà ai quai nhà ấy, và rõ ràng là Thoa đang cho thấy, cô không hề thua kém đấng sinh thành trong lĩnh vực tình trường. Vậy thì làm sao Hân lại có thể yên tâm mà yêu Thoa cho được, mặc dù theo phán đoán của anh, nếu anh ngỏ ý thì hẳn là cô sẽ không từ chối. Nhưng cái làm cho Hân ngạc nhiên, không hiểu được ở Thoa là cô, người đã từng dan díu với bao nhiêu đàn ông lại có thể đau đớn, vật vã đến thế khi nhận được tin người yêu của cô vừa lấy vợ. Đầu đuôi là hôm ấy, Thoa rủ Hân cùng đi đến Sứ quán để cô nhận thư và quà của bố cô mới gửi sang. Vị cán bộ đang lưu trú tại nhà khách của Sứ quán, đưa cho Thoa gói quà và lá thư rồi khẽ bảo:

– Chẳng có gì vui đâu, cháu ạ!

Thoa run run mở phong bì, đọc thư ngay tại chỗ. Mặt cô bỗng tái đi và nước mắt trào ra cùng với giọng nói nghẹn ngào:

– Anh Tứ anh ấy lấy vợ rồi!

Không cần Thoa phải giải thích gì thêm, Hân cũng biết ngay là cô vừa nói đến ai. Và suốt chặng đường từ Sứ quán về đến kí túc xá, Thoa như đã biến thành một con người khác, hoàn toàn câm lặng. Đôi mắt to của cô trống rỗng, vô hồn. Chỉ đến khi cả hai đã dừng lại trước cửa phòng của Thoa, cô mới nói:

– Anh ở lại đây với em đi!

Hân khẽ gật đầu trong một nỗi hoang mang vì anh không nỡ từ chối đề nghị ấy. Và thật bất ngờ, khi vừa bước vào phòng, chưa kịp cởi xong chiếc áo khoác vứt vào một góc, Thoa đã nằm vật ra giường cùng với những lời lẽ gần như trách móc:

– Đấy, anh cứ nương nhẹ cuộc đời…

Sao lại “nương nhẹ cuộc đời” ở đây? Chẳng lẽ anh lại là người có lỗi? Suy nghĩ ấy thoáng qua trong óc Hân, nhưng anh không muốn nói gì. Mà không nói gì hết là hơn. Vì tất cả mọi lời lẽ vào lúc này đều vô nghĩa. Hân đành mở cúc chiếc áo măng tô nặng trịch, nới khăn quàng cổ cho đỡ nóng rồi ngồi ghé xuống bên ghế tựa. Anh không biết an ủi Thoa như thế nào, càng không thể cầm tay hay vuốt tóc cô vì bài học từ Phương Linh vẫn đang còn đó. Một lần, thấy cô khóc lóc sụt sùi ghê quá, Hân mủi lòng khẽ ôm lấy Phương Linh, vuốt ve mái tóc của cô và hôn nhẹ lên đó một cái. Bỗng nhiên, Linh trừng mắt:

– Sao anh lại hôn em?

– Anh… thương em quá! – Hân ngượng đến nóng bừng cả mặt, mặc dù anh không hề có tà ý gì trong chuyện ấy nhưng không biết giải thích thế nào. Rất có thể Phương Linh lại coi đó là hành vi lạm dụng hay xúc phạm đến cô.

Bây giờ, Hân lại rơi vào tình cảnh trớ trêu thêm lần nữa.

Thật không may cho Hân, đêm ấy Lêna, cô bạn cùng phòng với Thoa lại không có nhà. Lúc đầu, anh đã tưởng mình chỉ phải ngồi ở đó một lúc, rồi cô kia về và thế là xong. Việc an ủi cô gái đang đau khổ vì tình sẽ được đẩy cho người khác. Mà đám con gái nói chuyện với nhau cũng dễ hơn. Nhưng Hân ngồi mãi, ngồi mãi vẫn chẳng thấy Lêna đâu để anh có thể đánh bài chuồn. Đã thế, lại còn thêm nỗi buồn đi tiểu nhưng không dám đứng lên vì xấu hổ. Chẳng gì Hân cũng phải chịu đựng suốt từ lúc bốn năm giờ chiều, mà bây giờ đã hơn mười một giờ đêm. May mà cuối cùng, thấy Hân cứ nhấp nha nhấp nhổm không yên nên Thoa cũng đoán ra và bảo:

– Anh cần giải quyết cái gì thì cứ tự nhiên đi, có gì đâu mà ngại. – Cô đổi tư thế, nằm quay mặt vào tường. – Chỉ có anh em mình ở đây thôi, chứ đêm nay con Lêna nó không về đâu. Nó đã dặn trước rồi.

Liệu đây có phải là lời gợi ý hay gạ gẫm gì không? Hân không biết. Nhưng anh không muốn bước chân vào phòng vệ sinh của cô gái đang nằm đây vì lúc nãy, qua cánh cửa nhà tắm mở toang hoang, anh đã kịp thấy cả một chậu quần áo to lù lù trong đó. Tuy vậy, Hân cũng tận dụng ngay câu nói ấy của Thoa theo cách khác:

– Anh… phải về cất cái máy ảnh. Lúc nãy, anh vội đi với em nên để quên ở trên bàn. Em cứ yên tâm, anh sẽ quay lại ngay.

Hân đứng dậy, đi theo cầu thang thoát hiểm xuống tầng dưới vì lối này gần hơn. Và khi vừa về đến phòng mình, anh đã vội lao vào nhà vệ sinh, xả hết cả một bầu nước đang căng tức, gây khó chịu. Xong rồi! Nhẹ cả người! Hân rửa tay, treo măng tô lên mắc áo ở trong tủ rồi giấu chiếc máy ảnh đi mượn xuống dưới hộc đi văng. Sau đó, anh khóa cửa lại cẩn thận rồi mới chậm chạp ngược lên chỗ Thoa. Lúc này, cô cũng đã kịp thay chiếc quần bò dày cộp bằng chiếc áo liền váy mặc trong nhà. Ngọn đèn trần, được kết bằng bốn bóng tròn sáng choang cũng đã được tắt đi, thay vào đó là quầng sáng vàng mờ dịu tỏa ra từ chiếc đèn bàn ở đầu giường.

Thoa nằm đó, dài ngoằng và mỏng dính như bị dán xuống đi văng. Nhưng từ mép dưới của tấm chăn bọc beljô trắng, đôi bàn chân gầy guộc đi tất của cô vẫn thò ra. Hân lặng lẽ ngồi xuống ghế, và chỉ khi nghe tiếng Thoa nấc lên, anh mới biết là cô không ngủ.

Hân cứ ngồi như thế, mong sao thời gian trôi qua thật nhanh và tuy rất mệt, anh cũng không dám nằm tạm xuống chiếc đi văng bỏ trống của Lêna mà chỉ tựa vào lưng ghế, thiếp đi một lúc. Mãi sau, áng chừng trời sắp sáng và thấy Thoa đã nằm im, anh mới từ từ đứng dậy, dém chăn lại cho cô rồi rón rén bước ra. Liệu người ta sẽ nghĩ gì đây, nếu họ nhìn thấy mình vừa ra khỏi phòng của một cô gái vào lúc bốn năm giờ sáng? Hân lo lắng nghĩ. Lại là kiểm điểm, bắt nhận tội hủ hóa hay quan hệ bất chính rồi đuổi về nước ngay? Chắc không đến nỗi thế đâu, nhưng dù sao cũng thành chuyện om sòm, thật khó mà có thể nói gì! Hân khẽ rùng mình vì một cơn gió lạnh thốc tới khi anh mở cửa ra cầu thang thoát hiểm, được xây nhô ra như một mũi tàu biển cao chót vót.

 

*

*          *

 

Sau chuyện xảy ra đêm ấy, Hân thấy Thoa thay đổi khá nhiều. Cô ăn diện hơn, chú ý trang điểm hơn và đi đi về về rất thất thường. Không khó để đoán ra, Thoa đang lao vào những cuộc chơi bời chóng vánh. Thành thì đã bị bỏ rơi và có vẻ như anh ta không dễ chấp nhận thực tế này. Còn Hân, anh không nghĩ Thoa đang tìm cách trả thù kẻ bội tình, vì đã có lần cô nói, đó là sự trả thù chính mình, chả được gì mà chỉ mất thêm. Hành động của Thoa lúc này có lẽ chỉ nhằm thỏa mãn thú vui xác thịt, thế thôi. Mọi cái đều thật là đơn giản! Nhưng lại không đơn giản chút nào, việc Hân cố gắng tránh xa cô.

Tại sao Thoa lại có thể sống như thế được? Hân ngờ rằng ở cô gái này, tình yêu và tình dục hoàn toàn có thể tách rời. Vì vậy cô mới vừa nhớ đến một anh chàng Tứ nào đó ở Việt Nam, lại vừa sẵn sàng ngủ với nhiều người khác. Nhưng nếu thế thì cái gì đã khiến Thoa đau đớn, vật vã khi nghe tin người yêu cô lấy vợ?

Hân không khỏi ngạc nhiên khi cô kể cho anh nghe, rằng trong đám cưới, Tứ đã gọi nhầm tên của cô dâu đến mấy lần, cứ “Thoa ơi”! Nhưng tại sao cô lại không nghĩ rằng Tứ đi lấy vợ là do anh ta biết được chuyện của cô ở bên này? Liệu có người đàn ông nào chấp nhận cho vợ hoặc người yêu mình sống theo kiểu ấy? Hà Nội và Mátxcơva tuy cách xa nhau thật, nhưng các đoàn từ Việt Nam vẫn sang đây liên tục. Mỗi lần có người ở bên này về, lại đem theo cả đống thư và những câu chuyện làm quà… Một vài bạn tình của Thoa, sau thời gian công tác, học hành ở bên này cũng đã lần lượt về nước hết. Vậy thì làm sao mà những chiến tích của cô từ Mátxcơva lại không đến tai người ở bên nhà kia chứ! Sao cô không hiểu ra điều đó? Hơn nữa, yêu nhau đã lâu, chung đụng với nhau không ít, chẳng lẽ cái anh chàng Tứ ấy lại còn không biết đam mê, ham muốn của cô mãnh liệt đến thế nào? Sáu bảy năm trời ở xứ người, nơi mọi thứ đều dễ dàng, thoải mái, làm sao Thoa kìm mình được. Mà cô cũng đâu có ý định kìm với giữ gì!

Thoa đã từng hồn nhiên cho rằng con gái chỉ nên chơi bời lúc chưa chồng. Chứ khi đã có gia đình rồi thì phải ngoan, không thì có mà tan cửa nát nhà. Lúc khác cô lại bảo, con gái giỏi lắm cũng chỉ biết đến chín mười anh là cùng. Chẳng như lũ đàn ông, chơi bời thoải mái, bao nhiêu cũng được. Nhưng định mức áng chừng này ở đâu ra? Hay đây là mục tiêu phấn đấu của Thoa? Hân không sao hiểu nổi. Có điều, một lần lên phòng Thoa, anh ngỡ ngàng thấy cô đang ngồi vừa đọc sách, vừa nghe nhạc khiêu dâm phát ra từ chiếc máy cát xét đặt ở đầu giường. Không giấu được nỗi ngạc nhiên và xấu hổ khi nghe thấy những tiếng rên rỉ, câu Je t’aime[9] bằng cả hai giọng nam nữ và hơi thở dồn dập hòa quyện lẫn vào từng nốt nhạc, Hân ngứa mồm hỏi ngập ngừng:

– Em… cũng nghe loại nhạc này à?

– Ôi giời, nghe mãi rồi! – Thoa đáp lại, tỉnh bơ.

Hân bối rối cáo lui vì chẳng ai lại có thể ngồi nghe loại nhạc như thế với một người khác giới. Thoa, không để ý gì đến Hân, vẫn chăm chú nghe nhạc và chỉ buông một câu rất nhẹ nhàng pha chút coi thường:

– Có gì đâu mà!

Sẽ chẳng có gì đáng nói, nếu như Thoa vẫn tiếp tục học hành, ăn ngủ và cứ chơi giai như cô muốn. Nhưng rồi có một chuyện xảy ra khiến Hân thay đổi hẳn cách nhìn và cũng chấm dứt luôn chút tình cảm dại khờ còn sót lại của anh đối với cô. Số là, vào dịp cuối mùa đông, ông Vi sang công tác tại Liên Xô. Công việc đã xong, trong khi chờ vé máy bay về nước, ông đến kí túc xá thăm đứa con duy nhất. Hai bố con nói chuyện với nhau được một lúc vào buổi tối thì Thoa đã vội đi ngay và cho biết, hôm sau cô phải đi học đến chiều tối mới về. Ông Vi đành xuống ngủ nhờ ở chỗ Thành.

Hôm sau, Thoa đi mãi vẫn không về. Ông Vi sốt ruột, nhưng chẳng biết làm thế nào. Việc ăn uống thì không có gì đáng ngại, vì chuyện ấy quá đơn giản. Khổ một nỗi đến bốn, năm giờ chiều thì ông lăn ra sốt. Tám giờ tối, vẫn chẳng thấy Thoa đâu. Thành vội nấu nồi cháo, nhưng ông Vi không ăn mà chỉ nằm rên hừ hừ. Đến tận gần một giờ sáng, khi cơn sốt tạm lui, ông đã chợp mắt được một lúc thì mới thấy Thoa bước vào, mang theo cả hơi lạnh từ đường phố. Thành chưa kịp trách móc cô không để ý gì đến người bố thì Thoa đã nổi xung lên: 

– Anh im đi nhé! Tôi đi có việc của tôi, anh biết cái gì mà nói!

Sang ngày thứ ba, Thoa xuống phòng của Thành, nói được với bố vài câu trước lúc đi học. Cũng lạ, vì thỉnh thoảng, cô vẫn trốn học đi chơi hay nằm ngủ ở nhà cơ mà. Sinh viên, ai chẳng có những lần như thế. Sao nhân dịp này, Thoa không bỏ học lấy một hôm? Ông Vi chẳng biết làm gì nữa, đành phải chào mọi người ra về vì thời gian trong chuyến đi công tác của ông đã hết, vé máy bay đã sẵn sàng và cơn sốt cũng qua rồi. Trước lúc tạm biệt, ông còn lục tất cả các túi áo túi quần được hơn năm mươi rúp, nhờ Thành đưa hết cho Thoa vì ông không cần đến nữa.

Nghe chuyện, Hân chỉ còn biết thở dài ngao ngán. Anh hỏi lại Thành, sao ông không vặn lại, là tất cả các cửa hàng cửa hiệu, thư viện hay trường học đều đóng cửa muộn nhất là vào chín giờ tối. Vì thế không ai có thể làm gì sau khoảng thời gian ấy. Lớp của Thoa tan học từ bốn rưỡi chiều. Thời gian đi lại các nơi cứ gọi là mất ba tiếng nữa. Vẫn còn đến tận bốn năm tiếng đồng hồ. Vậy thì cô đã có việc gì đến nỗi quên luôn cả ông bố đang chờ đợi? Đâu phải lúc nào ông Vi cũng có cơ hội đi công tác ở Mátxcơva!

Thành không nói gì nhưng Hân biết, anh ta tức lắm vì sau khi cưới vợ xong, sang đây học tiếp thì không còn động được vào người Thoa nữa. Đã có những Bính, những Nghi, những gì gì đó thay thế anh bí thư chi bộ này rồi. Hân lại nhớ đến chuyện nghe ai đó kể, rằng ở phiên tòa xử li hôn, khi nghe ông Vi nói mẹ Thoa không biết chăm lo cho hạnh phúc gia đình, thì bà ta (lúc này đã xấp xỉ tuổi bốn mươi, cũng không còn xinh đẹp lắm) liền chao chát quặc lại ngay:

– Anh nói thế mà không biết xấu hổ à? Bao nhiêu năm nay, ai tề gia nội trợ cho anh? Rồi những lần anh đưa bạn về rượu chè bù khú? Hồi chưa li thân, tôi còn phải là từng cái áo cái quần cho anh mặc! Sao anh chóng quên thế, hả? Anh bị thần kinh à?

Mọi việc cứ lặng lẽ trôi qua cho đến khi Hân tốt nghiệp. Năm sau, Thoa cất công về nước cưới chồng. Hân cũng được mời đến dự đám cưới và lần đầu tiên, anh gặp cả ông bố lẫn bà mẹ của Thoa. Hai người trông giống như một đôi đũa lệch vì ông thì cao gầy, đen đúa, bà lại trắng trẻo đẫy đà, đang độ phát phì. Vị hôn phu của Thoa, nom rõ ra một con đực khỏe mạnh và tốt giống, nghe nói là đội trưởng xuất khẩu lao động ở tận Xibir và sau đám cưới, hai người lại sang bên đó. Thoa vẫn còn tận hai năm để học hành, còn anh chồng của cô thì Hân không biết.

Khoảng mươi mười lăm tháng sau, qua Thành, Hân biết tin Thoa vừa sinh được một đứa con trai nặng ba cân rưỡi. Trời! Đúng là một tính toán đâu ra đấy. Cô sẽ có cơ hội ở lại Mátxcơva thêm một năm nữa, cũng có nghĩa là sẽ bảo vệ tốt nghiệp chậm lại một năm. Nhưng điều quan trọng hơn, là bà mẹ trẻ không phải lo lắng gì nhiều từ tã lót, đường sữa đến mọi thứ cần thiết khác cho đứa bé, điều mà ở Việt Nam lúc này là cả một vấn đề. Các sản phụ muốn mua gì cũng phải có phiếu, mà có phiếu cũng chưa chắc đã mua được ngay vì đủ thứ lí do. Trong đó, lí do hay được nêu ra nhất, là hàng chưa về hoặc hết hàng. Muốn có một ít bột cho trẻ thì phải mua gạo về rồi đem thuê người xay; có nhiều người sống bằng nghề xay bột, từ các loại gạo khác nhau cho đến đậu xanh. Mùa đông trời rét căm căm, dầu đâu, than đâu, biết lấy gì để đun nước tắm. Mùa hè nắng như đổ lửa, nhiều ngày vẫn bị mất điện và nước sạch cũng không có đủ mà dùng. Hân ngỡ ngàng nhận ra Thoa đúng là một cao thủ! Càng cao thủ hơn, khi cô vừa lấy chồng đã có con được ngay, nghĩa là hoàn toàn chủ động theo ý muốn. Chẳng gì, Thoa cũng đã từng chơi bời đến thế và biết đâu, lại còn cả Tây trắng Tây đen như mẹ cô ngày trước!  

Không biết tại sao, nhưng sau khoảng vài ba năm gì đó sống chung, đôi vợ chồng ấy lại chia tay. Thật là chóng vánh! Thoa tốt nghiệp, ôm con về nước, tá túc ở nhà bố đẻ. Còn chồng cũ của cô vẫn đi đi về về giữa thành phố Kemerôvơ và Mátxcơva, buôn bán đủ những thứ gì có thể. Hân không có liên hệ gì với Thoa, nhưng đôi khi rất tình cờ, anh vẫn biết tin về cô, chắng hạn như việc Thoa nhanh chóng làm quen với một kiến trúc sư vừa mới li hôn cách đó không lâu; hai người bèn rổ rá cạp lại rồi Thoa đến ở luôn nhà chồng mới. Họ có thêm một đứa con gái đúng như ý nguyện của cả hai, vì trước đó, anh kiến trúc sư cũng đã có một con trai rồi.

 

Chuyện về Thoa tưởng như chỉ có vậy và Hân cũng đã quên đi. Nhưng rồi một ngày kia, ở lớp tại chức được mở riêng cho Hà Nội, biết Hân từng học ở trường ấy vào những năm tháng ấy, một nam học viên đã hỏi ngay, thầy có biết cô nào tên là Thoa không. Sau đó, anh ta khoe mình là hàng xóm của cô từ nhỏ. “Thầy không tưởng tượng được đâu, từ năm mười bốn mười lăm tuổi, nó đã đưa bạn trai về nhà ngủ. Vì bố mẹ nó bỏ nhau, bác Vi nhận nuôi nó nhưng cứ đi công tác suốt, nên chẳng có thời gian đâu mà chăm lo cho nó”, anh học viên ấy nói.

“Làm gì mà đến nỗi không tưởng tượng được”, Hân thầm nghĩ nhưng không hé lộ thêm một chuyện khác về Thoa. Đó là việc cô đã từng nuôi nhốt một vị nghiên cứu sinh tới cả tháng trời, không cho ló mặt ra ngoài. Phải nhốt, là vì sau vụ cô gái Nga tự tử, người ta kiểm tra, kiểm soát rất ghê. Nắm lấy cơ hội, Thoa liền giữ rịt anh chàng nọ ở trong phòng. Để làm gì thì chẳng nói, ai cũng biết. Vị nghiên cứu sinh ấy lại là bồ cũ của Miên, cô bạn thân của Thoa tại Mátxcơva. Học ở trường kinh tế và sang trước tận hai năm, nên Miên cũng tốt nghiệp trước Thoa. Cô đã bàn giao lại cho Thoa người tình cũ của mình trước khi về nước. Hiện đại chưa?! Chuyện xảy ra khi Hân vẫn đang học năm cuối ở bên đó nên dù không muốn, anh cũng biết và có lần còn vô tình đụng phải ông nghiên cứu sinh kia trong thang máy. Anh này trạc tuổi Hân, nhưng to khỏe. Một bộ mặt phởn phơ và mãn nguyện. Có lẽ anh ta không biết mình đang bị biến thành đồ chơi của một cô gái, trái lại, còn lấy làm sung sướng vì đã được cung phụng và chiều chuộng. Hân cảm thấy thật may mắn khi anh đã không yêu được Thoa và lấy cô làm vợ.    

Hân cũng thầm cảm ơn số phận đã không cho phép anh đến với Thoa, để nhờ thế anh mới có cơ hội gặp gỡ, làm quen với Hồng, người sẽ trở thành vợ anh sau này. Đôi khi nghĩ lại, Hân còn cho rằng đó chính là một trong những lựa chọn đúng đắn, quan trọng nhất của anh trong suốt cả cuộc đời và tự hào về điều đó. Còn nếu yêu và lấy Thoa? Chắc chắn trước sau gì cũng lại li hôn để rồi thêm một lần đau khổ mà thôi. Hân không muốn thế. Vốn  là người nhát gan, chẳng bao giờ anh dám nghĩ đến việc đánh cược với cuộc đời. Vậy mà  trước khi kết thúc cuộc đi chơi ở Đức về, Thoa đã gửi điện để Hân đi đón và anh mong ngóng mãi cái giờ phút quan trọng ấy.

Như một người lãng mạn nhất trên đời, Hân cố gắng tìm mua cho bằng được ba bông hồng thật đẹp, kế cũng hơi xót ruột, với ý định sẽ tặng Thoa và ngỏ ý ngay tại sân ga. Lại còn nghĩ đến việc hôn cô nữa! Thầm đoán xem cô sẽ có phản ứng như thế nào… Liệu có bị từ chối hay nghe mắng không? Nhưng trong chuyện này có sự can thiệp của ông trời hay sao đấy, nên lẽ ra phải đến ga này thì Hân lại phóng thẳng sang ga khác. Mátxcơva có đến ba bốn nhà ga đi các nước Đông Âu, nhưng tuyến đường sắt chạy thẳng tới Berlin thì chỉ có một. Thế mà Hân lại nhớ nhầm. Đến khi phát hiện ra thì không làm gì được nữa. Giờ này chắc đoàn tàu từ Đức về đã đến ga của nó lâu rồi! Hân đành lủi thủi quay đầu mà không có người lẽ ra cần phải đón. Sau đó, do hàng loạt nguyên nhân mà lời yêu của anh đối với Thoa không bao giờ được nói ra. Mọi thứ đã trở thành chuyện cũ. Nhưng nỗi buồn và sự tổn thương sẽ còn đeo đẳng Hân trong một thời gian chẳng ngắn ngủi gì.

 

 

 

          Bảy

 

Phương Linh đã châm cho mình điếu thuốc thứ hai. Chị nheo mắt và nhả khói ra thật chậm. Đúng là đối với Phương Linh, cuộc gặp gỡ này có vẻ bất ngờ. Nói “có vẻ” bởi lẽ, Hân đã gọi điện thông báo trước. Nhưng vẫn bất ngờ vì bao nhiêu lâu nay, hai người có liên lạc với nhau đâu! Thậm chí, tên anh dường như không còn lưu lại trong trí nhớ của chị. Dăm ba lần ra Hà Nội, lúc công tác, lúc đi chơi chị cũng không hề nghĩ tới anh. Có thể, một phần vì hai người ở quá cách xa nhau với môi trường công tác rất khác nhau. Nhưng cái chính, có lẽ là do sự quên, một thuộc tính quan trọng của con người. Đôi lúc Phương Linh đã nghĩ rằng, cũng may mà con người ta có thể quên. Chứ nếu cái gì cũng nhớ mãi nhớ hoài thì làm sao mà sống nổi!  

Phương Linh không còn nhớ đến Hân có lẽ là do anh chẳng để lại trong chị một ấn tượng gì đặc biệt. Chững chạc, đàng hoàng nhưng không hoạt ngôn, cũng chẳng phải là người ưa hài hước. Và hình như anh cũng không hề có lấy một mục đích hay tham vọng nào để vươn lên mà chỉ biết phó mặc cho số phận. Phương Linh không hiểu được tại sao cho đến tuổi ba mươi, Hân vẫn không có đôi, dù là với các cô gái Nga hay Việt. Do sự kén cá chọn canh hay khiếm khuyết nào đó về thể chất và tâm lí? Nhưng dù sao, chị vẫn cho rằng, nếu là bạn thì Hân sẽ là người bạn có thể tin cậy được. Nếu là người yêu, anh sẽ là người yêu chung tình. Nhưng hỡi ôi, đó không phải típ người mà Phương Linh tìm kiếm.

Cô gái Sài Gòn không biết, thật ra Hân là một người hoàn toàn bình thường về mọi mặt. Anh cũng có đủ mọi thứ ham muốn như ai. Nhưng mặc cảm tự ti, những năm tháng trong rừng rồi cả những cơn sốt rét và bệnh tật, ở một mức độ nào đó đã khiến Hân không dễ dàng sống được đúng như những gì anh có. Mặt khác, Hân là một con người đầy mâu thuẫn. Tha thiết yêu và mong muốn được yêu, từng đau khổ và thất vọng khá nhiều, nhưng anh lại hiếm khi biểu lộ ra ngoài; chỉ theo đuổi những viển vông, lãng mạn mà quên đi phần rất đời của nó. Nói cách khác, Hân là con người của suy nghĩ chứ không phải là hành động. Đối với anh, hành vi tính dục là một cái gì đó thiêng liêng, không thể xem thường. Vì thế, sau những rung động nhất thời và một hai lần yêu hụt ở Mátxcơva, anh vẫn là người cô độc.

 

Câu chuyện giữa Phương Linh và Hân đưa đẩy thế nào lại quay về với một nhân vật mà từ lâu anh đã muốn quên đi, hay ít nhất cũng là không nhắc đến. Vậy mà nó cứ cộm lên, đau, khó chịu như một cái dằm cắm sâu vào da thịt nhưng chưa khều ra được.

– Anh còn nhớ anh Quang không? Vừa mới tuần trước, anh ấy vào đây công tác, có ghé qua chỗ em…

Ồ, nhớ chứ, làm sao mà quên được! – Hân suy nghĩ rất nhanh và tự nhắc mình nên thận trọng khi nhắc đến người này.

– Có. Hồi này anh ấy thế nào?

– Thì… vẫn thế. Được phong giáo sư rồi. Mà nghe đâu, anh ấy sắp sửa lên thứ trưởng.

– Thế cơ à!

Hân thốt lên, đầy thán phục. Sự thán phục của anh là thật, bởi lẽ từ lâu anh đã biết Quang là người có chí tiến thủ, lại rất giỏi trong các mối quan hệ và biết cương nhu đúng mực. Thế thì làm gì chẳng lên! Nhưng cao hơn nữa thì có lẽ là hơi khó. Năm mươi rồi, nếu lên thứ trưởng, hết một nhiệm kì là năm nhăm. Lúc ấy có muốn vào trung ương cũng không dễ. Mà nếu không phải Ủy viên trung ương thì đừng có mơ làm bộ trưởng. Rất rõ ràng! Cùng lắm chỉ được cái hàm tương đương. Ơ, mà điều gì sẽ xảy ra, nếu một ngày nào đó Phạm Hồng Quang lên làm bộ trưởng hay thủ tướng? Thậm chí là cao hơn nữa?

– Anh ấy mới có thêm một đứa con trai, và nghe nói người vợ thứ hai này của anh ấy, nói như thế nào nhỉ… – Phương Linh hơi nhăn trán, cố dùng đúng cái từ mà có lẽ Quang đã nói với chị. – Rất là tòng phục anh ấy.

Không phải “mới”! Hân ngầm sửa lại vì đến giờ, có lẽ thằng bé đã tám, chín tuổi rồi. Còn tòng phục thì không có gì khó hiểu vì một người như Quang, chắc rất biết đến cái oai và cái uy của mình trong gia đình. Mặt khác, trong khi chồng là giáo sư, tiến sĩ khoa học lại sắp lên thứ trưởng; vợ giáo viên cấp hai, thì sự chênh lệch về trình độ và địa vị giữa hai người rõ ràng là quá lớn. Thêm vào đó, vị giáo sư này lại rất biết cách để kiếm được thật nhiều tiền. Vậy thì làm sao mà cô vợ lại dám không tòng phục!

Phương Linh nói “người vợ thứ hai” vì Thanh, vợ trước của Quang đã mất trong vụ tai nạn máy bay ở Thái Lan, sau khi sống chung với anh được gần năm năm và có hai con. Không gọi là “chị” có lẽ do người mới này kém tuổi Phương Linh nhiều. Hân cảm thấy hơi chạnh lòng vì những thông tin mà Phương Linh vừa đưa ra, một cách vô tình cho anh biết, rằng chị và Quang vẫn giữ một mối quan hệ chắc chắn là gắn bó.

 

Hân gặp Quang trong một lần anh đến chỗ Phương Linh. Lúc đó anh ta vừa mới chân ướt chân ráo sang Mátxcơva làm nghiên cứu sinh. Một thanh niên vào loại cao to, vóc dáng thể thao, với áo phông quần bò rất mốt và gương mặt thông minh. Hai người làm quen với nhau, và Hân rất có thiện cảm với Quang tuy cũng nhanh chóng nhận ra anh này có vẻ hơi điệu đà, rào trước đón sau khá kĩ, lại còn gia trưởng. Điều đó thể hiện qua từng lời ăn tiếng nói và cách cư xử của Quang với những người xung quanh. 

Tuy cũng bằng tuổi Hân và qua một thời gian quân ngũ, nhưng Quang không phải đi chiến đấu mà lại làm công vụ cho một ông trung tướng. Sau Hiệp định Paris, ông này cho anh chuyển ngành, thi vào đại học. Đến khi tốt nghiệp, bằng cách nào đó, Quang được giữ lại trường làm giảng viên một thời gian rồi sang đây làm luận án phó tiến sĩ. Hân chỉ không thích Quang ở chỗ anh này có quá nhiều tham vọng, tuy được che đậy bằng những lời lẽ hoa mĩ đấy, nhưng đôi khi vẫn cứ lộ ra. Biết đề cao giá trị của đồng tiền và cư xử thì thật khéo! Mà ở đời, những ai khéo quá thường bao giờ cũng dễ lấy lòng người khác. Từ đó, họ có thể kiếm chác thứ này thứ nọ, thậm chí là tạo ra những nấc thang để ngoi lên.

Hân không khỏi ngạc nhiên trước vẻ đắc ý của Quang khi anh ta hào hứng khoe, rằng bên này chúng tôi vừa hạ bệ được một thằng đơn vị trưởng cực kì mao ít và đưa người khác lên thay.

– Thằng… nó láo lắm! Không còn coi ai ra gì nữa! – Quang hả hê ra mặt. – Thì phải cho nó biết thế nào là lễ độ thôi! Bọn tôi cứ bảo nhau, tên nó là Khỉển, nhưng lẽ ra phải đổi thành Khuyển thì mới đúng.

           Hân không hỏi lại, láo, là láo như thế nào. Nhưng nghe nói anh đơn vị trưởng cũ ấy cũng là cựu chiến binh, đảng viên, nghiên cứu sinh, nghĩa là mọi người đã chọn mặt gửi vàng và có chỉ đạo từ cấp trên đấy chứ! Tại sao anh ta lại bị coi là mao ít, hay chỉ vì quá ư nghiêm khắc, muốn ngăn cản những hành vi buôn bán, chơi bời, chểnh mảng học hành? Thế thì chết là đúng rồi. Bây giờ có ai muốn bị người ta siết chặt lại đâu! Kẻ lên thay, nếu không phải bạn bè, chiến hữu của Quang thì chắc là cũng thoáng. Nếu không thì anh ta hạ bệ người khác làm gì! Nhưng trời ơi, chức đơn vị trưởng của người Việt Nam ở một trường, có bổng lộc gì đâu! Sao Quang lại tỏ ra hăng hái hộ người khác thế?! Hay là vì ghét nhau nên phải loại bỏ thôi? Thì ra, cái ông phó tiến sĩ tương lai này cũng ghê gớm thật.

Cũng trong lần đầu tiên gặp Quang, Hân đã mơ hồ cảm thấy có cái gì đó hơi bất thường trong quan hệ giữa anh chàng nghiên cứu sinh đẹp trai và Phương Linh. Đôi mắt của cô cứ sáng lên khi nhìn và nghe Quang nói. Thái độ thì vui vẻ và luôn luôn tán đồng anh này ở rất nhiều điều. Có cảm giác, hiếm khi Phương Linh như thế. Và cũng rõ ràng là, về mặt ngoại hình, Quang hơn đứt người chồng mới cưới của cô. Biết đâu Phương Linh lại chẳng đang đắm mình trong một cuộc phiêu lưu tình ái mới! Thế là sau lần ấy, Hân giữ ý không đến chỗ Phương Linh nữa.

Phương Linh tốt nghiệp, về nước lúc nào Hân không biết, mặc dù trước đó, anh đã chủ động liên hệ xem cô có cần giúp đỡ gì không. Vừa may, Quang đứng ra nhận trách nhiệm giúp Phương Linh tất cả.

– Cậu cứ yên tâm! Tớ sẽ lo cho cô ấy. Cậu không cần phải sang đây đâu. – Giọng Quang chắc như đinh đóng cột vang lên qua điện thoại. – Đi lại xa xôi vất vả, mà cô ấy cũng đâu có nhiều đồ đạc gì.

– Cũng được. Thế, Quang cho mình gửi lởi chúc Phương Linh mạnh khỏe và về nước an toàn, may mắn…

– Được rồi! Thế nhé!

– Tạm biệt!

Hân đặt ống nghe xuống và rời khỏi bốt điện thoại công cộng. Anh có thể gọi cho Quang, vì kí túc xá bên ấy có điện thoại dành riêng cho tầng của nghiên cứu sinh, lẽ đương nhiên là vẫn phải qua thường trực. Mỗi khi có ai gọi đến, người ta sẽ bấm chuông báo (có sẵn ở từng phòng) để người được gọi ra nghe. Hân hiểu, Quang và chắc là cả Phương Linh đều không muốn anh có mặt lúc cô về nước. Cũng tốt thôi. Nhưng thêm một lần nữa, Hân cảm thấy hơi khó chịu trước cách xưng hô của Quang: cậu cậu tớ tớ, cứ như là người trên kẻ dưới.     

Phương Linh vừa về nước được ít lâu, thì vợ chồng cô đã đưa nhau ra tòa li dị. Quân đòi lại từ chiếc xe đạp Peugeot, chiếc ti vi National đen trắng trở đi. Lí do, đó không phải là tài sản chung của hai vợ chồng, cũng không phải do Phương Linh sắm, mà nhờ họ hàng của Quân từ Pháp gửi về. Gì thì gì chứ vào cái năm tám mốt, tám hai, đó vẫn là những tài sản lớn trong mỗi gia đình, đâu phải ai cũng dễ dàng có được! Cũng còn may, vì Phương Linh chưa kịp có con, nên không phải tranh nhau quyền nuôi đứa trẻ.

Phương Linh nhanh chóng có được một công việc ngon lành khiến nhiều người phải thầm ghen tị. Tất nhiên, không ai biết được cô đã phải chiến đấu như thế nào để có đươc một chỗ đứng dưới mặt trời. Với khả năng sử dụng thành thạo tiếng Nga và tiếng Anh, lại thêm chút tiếng Pháp học từ thời xa xưa ở trường dòng, Phương Linh càng trở nên đắt giá giữa những cán bộ, trí thức mù ngoại ngữ từ ngoài Bắc mới vào. Đến một lúc nào đó, người ta bảo cô vào Đảng để tiện cho việc đề bạt. Thì vào! Lúc này chẳng còn ai coi chuyện bồ bịch hoặc quan hệ ngoài luồng là hành vi vi phạm đạo đức hay quan điểm gì nữa. Dân Sài Gòn lại càng thoáng hơn. Phương Linh được đưa lên phó phòng rồi trưởng phòng. Không ai phản đối, phần do lí lịch gia đình vốn là dân cách mạng nòi và quá khứ ở R rất đáng nể. Phần đúng là Phương Linh làm rất được việc. Hơn nữa, mọi người trong cơ quan đều quý mến cô.

Không lâu sau cuộc li hôn, Phương Linh làm quen với Đoàn Thanh, người chồng hiện nay của chị. Gần như không còn yêu đương lãng mạn gì nữa, mà chỉ qua tìm hiểu sơ sơ, họ đã làm đám cưới liền. Cũng phải, vì anh đã gần bốn mươi, còn Phương Linh cũng ba mươi mấy. Không ai biết được, Phương Linh đã hồi hộp mong chờ một đứa con như thế nào. Bởi vì một bác sĩ sản khoa ở Mátxcơva đã từng cảnh báo, nếu cô còn phá thai lần nữa, thì sẽ mất khả năng sinh đẻ. Trong cuộc hôn nhân trước, Phương Linh cũng đã mong, nhưng không có thai được với Quân. May mắn làm sao, đến lần này, cho dù có những trục trặc nhất định, nhưng chị đã sinh được một đứa con trai giống Đoàn Thanh như tạc. Phương Linh thở phào sung sướng, và đối với chị, như thế là quá đủ. Chị không hề muốn có thêm một đứa con nữa làm gì.

 

*

*          *

 

Hân trở thành đàn ông trong một tình huống mà trước đó không bao giờ anh nghĩ tới. Chẳng là Giênhja, cô bạn gái của Vượng đến tìm, nhưng cậu ta lại không có nhà. Thấy cô đang bần thần đứng ở hành lang, hỏi thăm người này người khác về anh bạn Việt Nam nên Hân động lòng trắc ẩn, đi tìm Vượng giúp cô. Không thấy! Cũng không ai biết anh chàng ấy biến đi đâu. Rồi trước cảnh Giênhja có vẻ hoang mang, không muốn ra về mà cũng chẳng biết làm gì trong lúc chờ đợi bạn trai, Hân đành mời cô vào phòng anh ngồi tạm, pha trà cho cô uống sau đó đi nấu cơm vì lúc này trời đã tối.

Cơm nước đã được nấu xong. Hân dọn ra bàn, mời Giênhja cùng ăn. Cô gái không khách sáo một tí nào, ăn hệt như kiểu một người đã mấy ngày liền không có gì bỏ bụng. Ăn xong, cô khen ngon, uống thêm một cốc nước chè rồi lại đi tìm Vượng nhưng cậu ta vẫn chưa về. Giênhja để lại đó một mẩu tin nhắn cho Vượng rồi lại quay về chỗ Hân ngồi vì cô chẳng còn chỗ nào khác để mà đi.

Mười một, rồi mười hai giờ đêm. Vẫn không thấy tăm hơi Vượng đâu. Hân đành xuống tìm thêm lần nữa, nhưng cậu bạn người Bêlaruxxja ở cùng phòng chỉ nhún vai “Không biết!”. Mẩu giấy mà Giênhja gài lại vẫn yên vị trên tay nắm cửa phòng. Hân chậm rãi quay về và bản năng trong con người anh dường như vừa thức dậy, mách bảo một điều gì đó. Hân biết, Giênhja không thể đi đâu vào lúc khuya khoắt và rét mướt này. Mà có lẽ cô cũng không dám mạo hiểm, vì đã ra khỏi kí túc xá là không thể quay vào được nữa. Theo quy định chung, cứ đến sau mười hai giờ đêm là các bà thường trực khóa cửa, tắt đèn đi ngủ. Lúc ấy thì đừng có mà đánh thức các bà!

Đúng như Hân dự đoán, Giênhja lo lắng bồn chồn ra mặt rồi tỏ ý thất vọng hoàn toàn khi thấy anh trở lại và khẽ lắc đầu. Cô tần ngần một lát rồi mới hỏi Hân một cách rụt rè:

– Anh… có thể cho em ngủ nhờ ở đây được không?

– Được chứ! – Hân mừng rỡ gật đầu ngay lập tức, không kịp vờ vĩnh che giấu cảm xúc của mình đi nữa.

Tất nhiên, “anh” với “em” gì cũng là theo cách nói lịch sự thôi, chứ thực ra cộng đồng người Việt tại đây thường biến các đại từ nhân xưng trong tiếng Nga thành “mày” và “tao” hết, bất kể đối tượng giao tiếp là nam hay nữ, lớn hay bé, chỉ trừ các thầy cô và những người cao tuổi.

Giênhja có vẻ yên tâm hẳn, nhưng lại bỗng thở dài. Tiếng thở dài như chất chứa cả một nỗi niềm, khiến người nghe phải nao lòng. Cô gái ngồi thừ ra một lúc, khẽ cắn môi suy nghĩ. Không biết thế nào, tự nhiên Hân lại có đủ can đảm ngồi xuống bên cạnh Giênhja, đưa tay vuốt nhẹ lên mái tóc nâu dày mượt của cô. Giênhja không nói gì, mà chỉ quay lại, liếc nhìn Hân một cái. Đúng lúc đó anh mới nhận ra, cô không mặc áo con và chiếc sơ mi nam loại rẻ tiền trên người cô không cài cúc ngực, để lộ ra gần như cả một bầu vú căng tròn. Hân không thể kìm mình được nữa, liền thò tay vào đó. Giênhja không hề giận dữ bực mình thì chớ, lại còn hơi mỉm cười, lườm anh một cái:

– Này, đồ chơi của anh đấy à?

– Ừ! – Hân đáp liều rồi bắt đầu hôn lên cổ, lên gáy và đôi môi cô gái, trong khi tay vẫn không ngừng sục sạo trên bộ ngực của cô. Giênhja im lặng, nhưng đến khi thấy Hân loay hoay tìm cách cởi cúc chiếc quần bò nhung của mình, thì cô liền ngăn lại:

– Anh chờ em một lát.

Giênhja đứng dậy, xách túi bước ra. Chỉ nghe thấy tiếng nước xối đều đều rõ là lâu, làm cho Hân sốt cả ruột, tưởng cô đã trốn đi đâu mất. Phải đến hàng chục phút sau, Giênhja mới tắm xong và vừa bước vào trong phòng, cô đã xoay luôn chốt khóa trên cánh cửa. Rất tự nhiên, cô mở chiếc khăn tắm to tướng đang quấn quanh mình từ ngang ngực trở xuống, lau mái tóc thật kĩ rồi cuối cùng mới bước lại phía anh chàng Việt Nam xa lạ.

Hân choáng váng, gần như nghẹt thở. Anh đứng dậy, ôm chặt lấy cái thân hình nuột nà, đầy khêu gợi của Giênhja một lúc lâu. So với những cô gái Nga khác, Giênhja thuộc vào loại hơi bé nhỏ; có lẽ cô chỉ cao chừng một mét sáu mươi, sáu hai là cùng. Nhưng cũng giống như những người cùng chủng tộc, cơ thể cô thật đầy đặn với đôi vai tròn, ngực nở và hông rộng tạo nên những đường cong quyến rũ. Đặc biệt, đôi cánh tay và bàn tay của cô thì chỉ có thể nói là hoàn mĩ.

– Nào, bắt đầu!

Giênhja nói và hơi ngạc nhiên khi thấy Hân khẽ run lên. Nhưng rồi cô hiểu ra, tất nhiên là theo cách của mình, liền thoáng mỉm cười rồi cầm tay anh đặt vào chỗ nhạy cảm nhất của người con gái. Còn Hân, vẫn cứ run như thế, bắt đầu hành trình hôn từ cổ xuống ngực, đến đôi vú to và cân đối của Giênhja, cái bụng phẳng và dịu dàng như lụa. Cuối cùng, anh dừng lại ở cái tam giác ngược phủ một lớp lông màu hung thật mượt mà.

Giênhja chủ động giúp Hân cởi nốt chiếc quần đùi rồi nằm xuống đi văng. Và khi anh vừa đè lên người cô thì Giênhja đã dạng chân, giúp anh đi ngay vào nơi cần thiết. Nhưng đúng lúc đó, Hân bỗng rùng mình một cái, gần như gập đôi người lại và chúi về phía trước. Dường như bao nhiêu tinh chất tích tụ trong con người anh từ bấy lâu nay đã phụt ra bằng hết, không cách nào kìm giữ được. Một cảm giác thất vọng tràn trề choán lấy Hân, trong khi cô gái người Nga vẫn nằm im, vỗ vỗ vào lưng anh như an ủi. Lát sau, cô mới hỏi:

– Anh… mới lần đầu tiên à?

– Ừ, – Hân xấu hổ và bối rối đến mức chỉ muốn chui ngay xuống đất.

Giênhja khẽ xoa xoa lên đầu anh mấy cái như để động viên:

– Không sao đâu! Lần đầu tiên, ai cũng thế cả… Anh ngủ đi. Chỉ một lát nữa là sẽ làm được ngay thôi mà.

Cô gái lại đi ra nhà tắm. Lát sau cô quay vào, nằm ôm lấy Hân. Rồi trong khi Hân còn đang rờ rẫm khám phá và tận hưởng cảm giác thú vị trên khắp cơ thể trẻ trung, ngồn ngộn của cô thì Giênhja đã ngủ ngon lành.

Sáng hôm sau Hân dậy sớm như thường lệ, pha trà, ăn sáng cùng với Giênhja rồi đi học. Cô gái vẫn ở đó chờ Vượng và Hân không mảy may lo ngại, vì anh chẳng có gì để cho ai lấy trộm. Hơn nữa, không hiểu tại sao anh lại thấy hoàn toàn có thể tin tưởng được vào cô gái mới quen này.

Ra khỏi kí túc xá, Hân hít một hơi dài, đầy căng lồng ngực thứ không khí lạnh giá, trong lành. Tuyết rơi đêm qua, tạo nên một màu trắng tinh khôi trên những cành cây trơ trụi, đem lại cảm giác chúng như được tạo nên bằng bông nõn. Cũng vẫn cảnh vật như mọi ngày, quen thuộc đến nhàm chán, nhưng hôm nay Hân lại thấy nó hiện ra với những nét rất riêng. Phải chăng là nhờ có ánh nắng ban mai, mà những ngày tuyết rơi lại có nắng ở đây là rất hiếm. Hay vì sau một đêm gần gũi Giênhja, anh đã biến thành con người khác?

Suốt ngày hôm ấy, Hân ngồi trong lớp mà không nghe, không ghi được gì hết. Chỉ mong sao chóng hết giờ để về nhà, đồng thời cũng mong Vượng cứ tiếp tục đi vắng, càng lâu càng tốt. Hân chợt nhận ra mình đã bước qua lời nguyền, chẳng khác gì những gã đàn ông khác và mọi sự hóa ra lại thật là đơn giản. Nó phức tạp hay không là do cách nghĩ của mỗi người.

Năm sáu tiết học rồi cũng trôi qua. Hân vội vã rẽ vào cửa hàng thực phẩm, phóng tay mua những thứ đủ dùng đến mấy ngày rồi mới đi về. Đúng như anh dự đoán, Giênhja vẫn đang ở trong phòng chứ chẳng đi đâu. Nhà cửa, bàn ghế đã được thu dọn sạch sẽ, gọn gàng. Cô gái mặc chiếc kha lát màu xanh nhạt, đang đứng hút thuốc bên cửa sổ. Và mỗi khi chuyển động, bộ đùi của cô lại thấp thoáng hiện ra, cực kì quyến rũ. Chiều nay qua Cường, Hân đã biết là Vượng có việc đột xuất phải đi Vinhiux hay Riga[10] gì đó khoảng một tuần. Anh thông báo cho Giênhja tin ấy rồi cùng cô nấu ăn bữa tối. Sau đó, anh cẩn thận dán lên cánh cửa ngoài mảnh giấy nói mình đi vắng để tránh bị người khác quấy rầy.

 

Hân may mắn sống cùng với Giênhja được đúng ba ngày. Ba ngày ấy, anh như bay tít lên đến tận chín tầng mây, mệt mỏi nhưng hạnh phúc. Cô gái người Nga cho anh nếm trải đủ những ngọt bùi, khám phá mọi bí ẩn của bản thân, chiều anh đến tận cùng. Còn Hân, anh cũng không bỏ lỡ cơ hội, thử áp dụng mọi tư thế, kiểu cách mà anh biết được qua sách báo, phim ảnh hoặc nghe ai đó nói. Mỗi lần thấy Hân như vậy, Giênhja lại nheo mắt cười tinh quái:

– Đúng là… ông nhóc già!

“Ông nhóc già!” Hân đã nghe một cô bạn học cùng lớp gọi anh như thế, nhưng trong bối cảnh hoàn toàn khác. Còn lúc này, anh như đang đắm chìm trong một cõi u mê đầy cám dỗ chết người. Hân không nghĩ Giênhja là cô gái trụy lạc hay hư hỏng, mặc dù cô tự nhận mình là kẻ chơi bời, từng quan hệ với rất nhiều người. Có lẽ chỉ đơn giản cô là như thế, một trong muôn vàn cô gái người Nga của hôm nay. Khái niệm tình yêu và lòng chung thủy của các cô giờ đây đã khác những thế hệ trước rồi. Thì cũng như Thoa đấy thôi! Đâu phải chỉ có các cô gái Tây mới biết sống và yêu theo kiểu mới!

Giênhja không xin tiền Hân, mà cũng chẳng đòi hỏi gì ở anh, chỉ ngoan ngoãn chiều chuộng và đáp ứng. Đổi lại, cô chỉ mong anh cho ở tạm vài hôm, chờ đến lúc Vượng về. Vậy mà có một lần, thấy cô tư lự trước tờ biên lai cầm cố chiếc nhẫn vàng với giá bảy mươi rúp đã đến hẹn trả, thì anh nói ngay là mình không có tiền, mặc dù trong túi anh vẫn còn tới hơn bảy mươi rúp học bổng[11] vừa mới lĩnh. Đến khi Giênhja đã đi rồi, Hân mới xấu hổ cho hành động ấy của mình. Lúc đó, cô bảo vẫn còn gần năm mươi rúp trong ví. Như vậy, chỉ cần thêm chưa đến ba mươi rúp nữa là đã có thể chuộc được chiếc nhẫn về; sau đấy nếu đem bán đứt, chắc chắn sẽ phải được một trăm hai mươi rúp. Nhưng Hân đã không dám cho Giênhja vay để làm việc đó. Mà tất cả chỉ cần có ba mươi rúp! Hân bỗng thấy sao mình keo kiệt thế!

Cứ theo những lời kể của Giênhja mà Hân tin là thật, thì cô từ Ivanovo, một thành phố nhỏ cách Mátxcơva gần ba trăm ki lô mét về đây học trung cấp kĩ thuật. Tốt nghiệp rồi, nhưng cô chưa muốn về ngay vì còn ở lại chơi với một số bạn bè cùng hội cùng thuyền. Giênhja quen biết và bồ bịch với một số người Việt Nam, trong đó có Vượng và thỉnh thoảng lại đem quần bò, áo phông, kính râm… về quê bán để được hưởng hoa hồng. Nhưng bây giờ thì cô đã chán, muốn về lại thành phố của mình xin việc làm rồi còn tính đến chuyện chồng con…

Hân không biết anh là người thứ bao nhiêu đi qua cuộc đời của Giênhja, nhưng dù sao vẫn phải cảm ơn cô. Vì cô đã biến anh thành một gã đàn ông thật sự để anh có thể hiểu được mình hơn và tin vào chính bản thân mình.

Vượng đã về, có vẻ như sớm hơn dự định. Cậu ta lên chỗ Hân để tìm Giênhja. Bây giờ Hân mới biết là cậu ta đi đánh hàng. Cô gái liền thu dọn quần áo, bắt tay Hân cảm ơn rồi đi cùng với Vượng như chưa từng có chuyện gì xảy ra.

Không bao giờ Hân hỏi Vượng về cô gái ấy, mà cậu ta cũng chẳng nói gì. Không ai cần phải nói gì trong những trường hợp như thế. Nhưng trước đó, qua tấm hộ chiếu công dân[12] và thẻ ra vào trường trung cấp kĩ thuật của Giênhja mà cô đưa cho anh xem, Hân biết cô gái Ivanovo này mới vừa tròn hai mươi hai tuổi, bằng tuổi Tuyết.

Kể từ hôm ấy, Hân không biết tin tức gì về Giênhja nữa. Không thể và cũng không nên hỏi Vượng làm gì. Chỉ biết sau đó ít lâu, cậu ta có con với một cô gái người Nga khác. Lằng nhằng mất đến mấy năm sau khi đứa bé đã qua đời, cậu ta làm ăn buôn bán chán chê rồi mới bò về Việt Nam, dần dà trở thành quan chức cấp cao một cách thật thần tình, cứ như là có phép màu.

 

*

*          *

 

Hân gọi thêm hai li kem rồi vừa nhấm nháp, vừa lắng nghe một bản nhạc trữ tình với âm lượng rất nhỏ đang được phát ra từ chiếc loa thùng của quầy hàng. Gần hai mươi năm trước, khi chia tay Phương Linh ở một bến xe buýt trong khuôn viên Trường Đại học Lômônôxốp, Hân làm sao có thể hình dung được anh và chị lại có cuộc gặp gỡ như thế này tại Sài Gòn.

 

– Công việc của anh thế nào? Có tốt không? – Câu hỏi của Phương Linh kéo Hân về thực tại.

– Thì… cũng bình thường. Thời buổi này, người ta đọc và học văn học Nga Xô viết ít lắm. Sắp tới, họ còn bỏ môn này ở một số chuyên ngành đào tạo tại các trường.

– Thế… anh đã có học hàm học vị gì rồi?

– Chẳng có gỉ hết! – Hân khẽ lắc đầu. – Cũng không phải là đảng viên luôn.

– Ủa, sao lại thế?! – Phương Linh tỏ ý ngạc nhiên thật sự. – Em tưởng đâu anh phải là đảng viên từ lâu rồi chớ?

Hân mỉm cười, khẽ lắc đầu lần nữa:

– Cũng chẳng biết tại sao! Anh thì anh cảm thấy mình tốt ơi là tốt, nhưng người ta vẫn không kết nạp… – Hân giả vờ làm ra vẻ nghiêm trang. – Còn học hàm học vị thì… chuyện của anh dài lắm. Mà… Anh có muốn cũng không được.

– Trời! Anh là giảng viên đại học kia mà! Ít ra thì…

Không biết giải thích ra sao, Hân chỉ khẽ nhún vai:

– Mỗi người một hoàn cảnh, em ạ. Đúng là đối với công việc của anh, nếu có học hàm học vị thì tốt hơn. Và đến một lúc nào đó, chắc nó sẽ trở thành nhu cầu bắt buộc. Nhưng có lẽ em cũng biết rồi. Đâu phải ông giáo sư nào cũng giỏi, và giảng viên nào cũng đều dốt, đúng không? Em thử nhớ lại hộ anh xem, trong số những nghiên cứu sinh ở trường em hồi xưa, liệu có mấy người đáng được gọi là thông minh, tài giỏi? Mấy người thật sự dành thời gian cho việc nghiên cứu khoa học, hay chỉ toàn buôn buôn bán bán suốt ngày? Ông nào cũng có vẻ rất chi là bệ vệ, đi đâu cũng xách những chiếc cặp rõ to. Nhưng mở ra thì liệu thấy gì? Chỉ toàn là thuốc tây, xích líp xe đạp, dây mai xo với ít xương bò và mấy chiếc bánh mì! Em có nể phục được ai trong số những nghiên cứu sinh cùng thời ở bên ấy không?

– À… – Phương Linh buông một câu lấp lửng. Suýt nữa chị đã nêu cái tên Phạm Hồng Quang, nhưng may sao kịp dừng lại được. Và Hân cũng biết ngay điều đó.

– Cũng tương tự như vậy, – Hân tiếp tục. – Anh không nghĩ tất cả mọi đảng viên đều tốt và những người ngoài Đảng đều là xấu. Làm gì có chuyện ấy! Em thử xem, cả nước hiện nay có mấy triệu đảng viên? Nếu chỉ cán bộ đảng viên mới là những người tốt, người ưu tú nhất thì mấy chục triệu cư dân còn lại đều xấu và đáng bị vứt hết đi à? Hơn nữa, trên toàn thế gian này, người tốt bao giờ chẳng nhiều hơn kẻ xấu, bất chấp thể chế chính trị là như thế nào! Liệu có ai dám to mồm khoe dân mình tốt hơn dân Mĩ, dân Nhật không, mặc dù hai nước ấy có mấy ai là đảng viên cộng sản?

Phương Linh không nói gì mà chỉ lặng lẽ dùng chiếc muỗng nhỏ xíu xúc kem đưa lên miệng. Còn Hân, anh vẫn nhớ, trong suốt bao nhiêu năm người ta vẫn từng khẳng định rằng chỉ các đảng viên cộng sản mới là những phần tử ưu tú và yêu nước nhất. Sao lại có thể cực đoan đến thế! Chẳng lẽ từ hàng nghìn năm nay, khi đất nước còn chưa có Đảng, các bậc tiền nhân, các chí sĩ và nhà nho yêu nước rồi đến thời chống Pháp và chống Mĩ, bao nhiêu quần chúng ngoài đảng đã chiến đấu hi sinh cho Tổ quốc cũng đều không yêu nước bằng những người cộng sản à? Hay là Đảng muốn độc quyền lòng yêu nước? Lại còn luôn luôn tự khẳng định mình là quang vinh và vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc. Thế thì bao nhiêu võ công hiển hách của cha ông, rồi những triều đại vua sáng tôi hiền của đất nước này sẽ được xếp vào thứ hạng nào?

Lịch sử không nói rõ thế kỉ mười ba, dân mình có được mấy triệu người, nhưng bờ cõi nước ta thì mới chỉ kéo dài đến Hà Tĩnh, Quảng Bình gì đó. Thế mà đã ba lần đánh thắng quân Nguyên, mặc dù chẳng ai giúp cho các cụ nhà Trần một hạt thóc, mũi tên hay thanh kiếm! Nhưng nếu không có sự chi viện của Liên Xô, Trung Quốc và bao nhiêu nước khác thì liệu chúng ta có thắng được Pháp và Mĩ không? Lúc nào cũng khoe mình độc lập, tự chủ. Nhưng “hợp tác toàn diện” với Liên Xô rồi thì đến cái chức danh lãnh đạo của Nhà nước cũng thay đổi luôn. Trong quân đội cũng như công an không còn cấp chuẩn úy một vạch không sao và thượng tá. Cũng từ đó có hai loại đại tá, là ba sao và bốn sao. Đến khi Liên Xô sụp đổ thì tất cả lại quay về cách gọi y như cũ. Đại tá, là phải bốn sao hai vạch. Còn ba sao, thượng tá. Không ai còn bị nhầm lẫn hoặc phải băn khoăn gì nữa.

– Thế… theo anh thì phải làm thế nào? – Phương Linh làm ra vẻ quan tâm.

– Tự khen mình ít thôi. Đừng bao giờ quên, lòng yêu nước của mỗi con người đều bắt nguồn từ truyền thống ngàn đời của toàn dân tộc. Các tinh hoa văn hóa tinh thần cũng thế. Em thử nghĩ xem, cái gì sẽ xảy ra nếu một cô gái đứng ở giữa đường gào lên thật to: “Ôi làng nước ơi, nhìn xem tôi có đẹp không này! Tôi là người đẹp nhất nhà đấy nhé! Hơn cả mẹ tôi và bà nội tôi nhiều”! Có mà điên!

Phương Linh phì cười, khẽ đập vào tay Hân một cái: 

-Trời, anh ví von gì mà nghe thú vị ghê!

Hân nhấp một ngụm nước rồi bỗng trầm giọng xuống:

– Em thử nghĩ xem, xưa nay có ai lại dám tự nhận mình là cực kì thông minh, tài giỏi, là vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc và không bao giờ phạm sai lầm, dù nhỏ. Nhưng Đảng ta thì từ lâu vẫn khẳng định mình như thế. Không chỉ một lần, ghi trong các văn kiện hẳn hoi. Thế còn bao nhiêu sai lầm, từ cải cách ruộng đất đến chiến lược phát triển kinh tế, rồi quan hệ với nước này nước khác thì sao? Em còn nhớ vụ “giá lương tiền” không? Bao nhiêu là người khốn khổ!

Phương Linh khẽ gật đầu ngán ngẩm:

– Nhớ chứ! Quên làm sao được. Em ở trong này cũng xất bất sang bang, tưởng chết luôn! Mọi thứ đều trở nên khan hiếm. Vật giá leo thang từng giờ…

– Đấy, đấy… Cũng giống như hồi nổ ra cuộc chiến tranh biên giới phía bắc, năm bảy chín. Nếu Liên Xô không khẩn cấp tìm mọi cách giúp đỡ ta thì liệu Đặng Tiểu Bình có rút quân về nước sớm như thế không? Sau chừng hai chục ngày… – Người đàn ông tóc hoa râm ấy ngừng lại trong giây lát rồi mới tiếp:

– Theo đường bộ, từ Lạng Sơn về đến Hà Nội chỉ chưa đầy hai trăm cây số, mà lúc đó ở một số nơi, quân Tàu đã kéo vào sâu trong đất ta đến bốn năm mươi cây số. Đã có phương án cho hàng loạt cơ quan sơ tán vào Nam. Em đừng quên, là chúng ta đánh nhau với Mĩ bằng xương máu và trí tuệ của dân mình, cộng với bao nhiêu là tiền của và chuyên gia quân sự của Liên Xô[13], Trung Quốc… Nhiều người, trong đó có cả một số phi công Triều Tiên đã chết ở Việt Nam. Tất cả những thứ khác, từ viên đạn, khẩu súng cho đến hạt gạo cũng là hàng viện trợ. Vì dân mình làm có đủ ăn đâu! Lấy gì mà đánh! Thậm chí sau chiến tranh, có năm còn phải nhập hơn một triệu tấn lương thực cơ mà!

Phương Linh hơi ngỡ ngàng trước những lời Hân nói. Nhưng kinh nghiệm lâu nay cho chị thấy, không nên sa đà vào những chuyện như thế này. Chẳng để làm gì hết! Còn Hân, anh chỉ nói đúng sự thật và những gì thường nghĩ. Lại thấy cả một sự vô lí là khi đang phấn đấu cũng như lúc đã trở thành đảng viên, mỗi người đều dường như không còn là bản thân mình nữa. Cứ như là người hai mặt. Nhìn vào các cuộc họp chi bộ hay lúc học nghị quyết là sẽ thấy. Tất cả đều gật gù, nói toàn điều tốt và tỏ ý tán thành. Nhưng vừa ra khỏi hội trường đã khác. Ở bất kì đâu, trong bất cứ thời điểm nào cũng đều có thể kêu ca than vãn đủ điều, vậy mà chẳng bao giờ dám công khai lên tiếng một cách đàng hoàng vì sợ bị quy kết về quan điểm và tư tưởng.

Sự giả dối cứ thế mà nhân lên và không ai có thể phủ nhận, từ rất lâu Đảng ta đã trở thành một đảng đặc quyển. Cái gì cũng phải trước hết dành cho người của Đảng. Từ chức vụ nhỏ nhất tưởng như chẳng có gì quan trọng, như tổ trưởng dân phố hay trưởng thôn trở đi. Cái giả, nói mãi nói hoài rồi bỗng nhiên được người ta coi như thật, hoặc vờ tin là thật. Như việc ai vào Đảng cũng đều là để hi sinh và cống hiến. “Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân”. Nhưng nếu không hi vọng được trao cho quyền lực, bổng lộc, ưu đãi… thì liệu có mấy ai thề phấn đấu hi sinh đến hơi thở cuối cùng? Đã qua lâu rồi, cái thời kì các vị cách mạng tiền bối sẵn sàng vào tù ra tội, thậm chí là bước lên đoạn đầu đài hoặc ra trường bắn. Giờ đây, liệu cái gì sẽ xảy ra, nếu chẳng may đảng viên bị cắt hết mọi đặc quyền đặc lợi? Lúc đó, sẽ còn được mấy người xin vào Đảng?

Không phải đảng viên, Hân không thể nào tranh được một suất đi làm nghiên cứu sinh ở nước ngoài. Người ta lập luận rằng anh vừa mới tốt nghiệp ở Liên Xô về (mặc dù đã qua được sáu bảy năm), lại không phải là đảng viên. Chỉ tiêu thì chỉ có một. Thôi thì ưu tiên cho một cô khác nhiều tuổi hơn, đảng viên gần chục năm rồi lại chưa được đi đâu. Tuy đề tài nghiên cứu không được phù hợp lắm, nhưng thay đổi đi cũng dễ ấy mà. Hân không cãi, nhưng thêm hiểu thế nào là nghiên cứu khoa học ở nước mình.

Mấy năm sau, cả phe ta sụp đổ, chẳng ai còn đi đâu được nữa. Cánh cửa sang các nước tư bản đế quốc từ lâu vẫn bị coi là “đang giãy chết” còn chưa mở ra. Làm nghiên cứu sinh trong nước cũng không đơn giản vì đủ những chuyện phiền hà và rất tốn tiền. Động đến cái gì cũng phải móc hầu bao. Đã thế, nhiều ông thầy lại không được giỏi lắm mà nhân cách xem ra cũng kém. Ví dụ như giáo sư A phạm tội trộm cắp, bị giữ lại ở sân bay; tiến sĩ B khét tiếng về khả năng sát gái, đến nỗi các nữ học trò muốn đến gặp ông đều phải rủ nhau đi ít nhất là vài ba người. Rồi phó giáo sư kia đạo văn người khác… Lại có ông, trước khi tạm biệt xứ người đã thản nhiên lấy từ tấm rèm che cửa sổ đến chiếc tủ con ở trong phòng, đem gửi theo đường tàu biển về nhà.

Có lần, Hân phải đi tiễn một vị nghiên cứu sinh cùng đơn vị. Nhân vật này đã lớn tuổi và rất chịu khó làm kinh tế. Ông ta cẩn thận khâu thêm một loạt túi ở phía trong áo măng tô, nhồi nhét đủ các loại phụ tùng xe đạp vào đó để trốn việc phải cân hành lí. Đỡ được khối tiền cước nhé! Mấy rúp một cân đấy chứ ít à! Rồi ông đóng com lê, thắt cà vạt, khoác hai chiếc măng tô dạ đen to tướng chồng lên nhau giữa mùa hè Mátxcơva hai mươi sáu, hai mươi bảy độ. Mồ hôi toát ra như tắm nhưng ông vẫn lấy làm sung sướng, tưởng mình khôn lắm mà không biết rằng vào lúc ấy, người ta còn dễ, cho qua hết. Nhưng Hân thì không quên được cái nhìn dè bỉu của các cô nhân viên Hàng không Liên Xô to cao lừng lững ở sân bay Seremenchevô I. Họ cười cợt, chỉ trỏ cho nhau xem cái gã đàn ông Việt Nam nhỏ bé và dị hợm đang bước đi không vững vì sức nặng đè xuống từ hai chiếc áo măng tô chứa đầy xích líp và pê đan xe đạp.

Như một hệ quả tất yếu, nhiều vị trong số các “sư”, “sĩ” ấy chẳng bao giờ có nổi lấy một bài báo nào đăng trên tạp chí khoa học nước ngoài hay trong nước. Thậm chí có ông còn phải thuê ngườì viết luận án để mà bảo vệ. Công trình của các vị ấy chẳng bao giờ được xuất bản ở đâu mà nói dại, nếu có xuất bản chắc cũng khó có ai tìm đọc và rất có thể còn khiến cho nhiều người phải đỏ mặt lên vì xấu hổ. Hân không thể hạ mình đi làm học trò của những người như thế. Chẳng thà không học vị học hàm gì còn hơn!

Sự đời biến đổi khôn lường. Đang từ mô hình đào tạo theo kiểu Liên Xô, bỗng nhiên người ta bỏ hết để xoay sang hướng khác. Từ niên chế chuyển sang học phần, đào tạo theo hai giai đoạn. Không còn nghiên cứu sinh làm phó tiến sĩ, thay vào đó là thạc sĩ rồi tiến sĩ và tiến sĩ khoa học. Đến một ngày kia, bao nhiêu ông bà phó bỗng nhiên thành tiến sĩ luôn. Còn tiến sĩ trước đó thì được gắn thêm hai từ “khoa học”. Ô, thế chẳng lẽ phó (tiến sĩ) lại không khoa học à? Có cảm giác, người ta cố tình phức tạp hóa một vấn đề lẽ ra không cần phải làm cho phức tạp. Thì vẫn còn chức danh phó giáo sư và giáo sư đấy thôi! Sao không gọi luôn là giáo sư và giáo sư khoa học luôn một thể!

Tiếp theo, là bao nhiêu đổi mới, bao nhiêu thử nghiệm, cải tiến rồi lại đổi mới, từ chữ viết đến công tác đào tạo, thi cử… cuối cùng đều thất bại. Chỉ khổ cho mấy chục triệu gia đình có con em đang ở trong độ tuổi đến trường và lũ trẻ bị đem ra thí nghiệm hết đợt này sang đợt khác. Mà tác giả của những dự án lớn nhỏ và liên tục ấy là ai? Toàn những giáo sư tiến sĩ, quan chức đầu ngành chứ đâu phải một ông hay bà chân trắng nào, với những khoản nợ vay của nước ngoài không ngừng được tăng lên. Vay để xây dựng chương trình đào tạo mới, để viết sách giáo khoa. Vay để đưa cán bộ đi khảo sát, học tập kinh nghiệm của nước ngoài. Vay để làm dự án thiết lập mạng lưới tin học… Toàn là những chuyện động trời! Nhưng chất lượng giáo dục và đào tạo thì ngày càng đi xuống.

Tự thấy mình không phải là người thông minh tài giỏi gì, chẳng bao giờ Hân đặt mục tiêu phải trở thành thạc sĩ hay tiến sĩ cho bằng được. Nhất là sau khi anh đã biết được ít nhiều về nhân thân cũng như trình độ của một số ông thầy, bà cô ở cùng ngành. Mà xét cho cùng, có ai ôm được mọi thứ danh vọng tiền tài, địa vị mãi đâu! Tất cả đều phù du, ảo ảnh hết. Vậy thì lao tâm khổ tứ vì những thứ ấy để làm gì? Hão! Hân chỉ muốn làm tròn công việc của mình, và thế là đủ. Không ganh đua hay bon chen với bất kì ai, cũng chẳng màng đến một cái gì khác ngoài danh hiệu “phó thường dân dự bị”. Không bao giờ Hân ảo tưởng hay tự huyễn hoặc mình.

Nhưng nói như thế không có nghĩa là anh không phấn đấu tự hoàn thiện về mọi mặt. Cũng nhìn ra đủ mọi sai lầm và hạn chế của mình. Khổ nỗi ngay cả khi đã xác định thế rồi, Hân cũng có thoát khỏi được đâu, những chuyện giời ơi đất hỡi, nghi ngờ đố kị của một số người, tưởng anh ngáng cản đường đi của họ mà không hề nghĩ rằng anh chưa bao giờ muốn làm, dù tổ phó bộ môn hay tổ trưởng công đoàn! Vậy mà đã có lúc một số đồng nghiệp và cả học trò còn tìm cách đâm dao sau lưng khiến anh bị tổn thương. Đến nỗi hơn một lần Hân phải kêu lên: sao người ta lại có thể đối xử với mình như thế?!

 

Bất chợt, Hân nhận ra cả căn phòng im ắng khác thường và chỉ có anh đang ngồi đây với Phương Linh. Thì ra, chiếc băng cát xét đã chạy hết, và lúc này vẫn đang giờ làm việc. Không có ai ngoài anh và Phương Linh đang ngồi bên nhau, trên chiếc ghế đôi.

– Tình hình của em thế nào? Mọi việc có ổn không? – Bây giờ, đến lượt Hân hỏi Phương Linh.

– Em vẫn thế. Công việc thì bận rộn. Tiền bạc lúc ít lúc nhiều, nhưng nói chung là cũng ổn… – Phương Linh trả lời và bất ngờ nói tiếp. – Bọn đàn ông vẫn chạy theo em hàng đàn!

Hân hơi sửng sốt trước những lời lẽ khoe khoang ấy. Không nhìn thấy gương mặt của Phương Linh vào lúc này vì nó đã bị mái tóc chị che khuất, nhưng anh lấy làm nghi ngờ điều vừa nghe được. Bởi vì cho dù trông vẫn có vẻ trẻ hơn tuổi thật của mình, thì chị cũng đâu có còn là Phương Linh của ngày xưa! Và tuy đã trang điểm rất khéo, nhưng chị vẫn không giấu đi đâu được cái cổ đã hằn lên những nếp nhăn và đôi bàn tay không còn vẻ nuột nà, mềm mại thời con gái. 

Thật may là Hân đã không cười khi Phương Linh nói ra điều đó. Anh vẫn không quên, đã có lần từ lâu lắm, chị bảo anh có một nụ cười rất chi là xảo quyệt. Xảo quyệt gì cơ chứ! Hân đâu phải con người mưu mô, thủ đoạn gì. Hay là Phương Linh dùng từ không chính xác? Tuy vậy, sau khi nghe nhận xét của cô, Hân vẫn cứ thận trọng thử cười trong gương theo nhiều kiểu khác nhau, xem nó như thế nào và tự nhận thấy không có gì đáng để người ta nghĩ xấu. Trái lại, còn có vẻ hiền lành nữa. Rất có thể là sự vô thức của Phương Linh đã dẫn đến cảm giác sai. Tuy nhiên, vào lúc này Hân thấy mình vẫn nên cẩn thận.

Hân không thể nào tin được, giờ đây Phương Linh vẫn còn có người theo đuổi. Ở tuổi này, làm sao còn hấp dẫn được ai. Hơn nữa, đàn ông thời nay đâu có khó khăn gì khi muốn kiếm cho mình một cô gái trẻ. Biết bao nhiêu hoa hậu, người đẹp thời trang, diễn viên, ca sĩ, sinh viên… mười tám đôi mươi cho các anh lựa chọn. Vấn đề là ở túi tiền. Liệu các anh có chịu chi không. Chứ khi đã xế chiều, chẳng có mấy ai lại còn muốn chạy theo những mối tình lãng mạn ngoài luồng để có thể dẫn đến hậu quả khôn lường hoặc bỏ vợ bỏ con mà sống với bồ. Vừa tốn tiền lại vừa rắc rối và nguy hiểm. Mà ngay cả khi muốn cặp bồ thì chắc chắn người ta cũng không nghĩ đến các bà các cô đã sang qua đỉnh dốc. Mùa thu của chị em không phải là mùa thu của đất trời để các ông trẻ đắm mình vào đó.

 

Nhạc đã lại nổi lên, có lẽ nhờ cô nhân viên nhà hàng đã thay băng cát xét hoặc đĩa CD. Hân nối lại mạch chuyện vừa bị ngắt quãng của anh với Phương Linh:

– Còn anh thì không hề có bồ.

“Hừ, coi bộ ông tướng tá thế này thì bồ với bịch cái nỗi gì!” – Người đàn bà thầm nghĩ và tin rằng Hân vừa nói thật.

Phương Linh không biết, đằng sau cái vẻ khắc khổ, lạnh lùng của Hân lại là một con người khác hẳn. Đa sầu đa cảm và đôi khi còn lãng mạn viển vông, tuy không để lộ ra ngoài. Nhiều lúc, Hân vẫn rưng rưng nước mắt trước những trang sách, câu thơ; trong khi nghe lại một bài hát cũ hoặc xem một cảnh phim gây ấn tượng. Anh cũng ngẩn ngơ trước những bức tranh, pho tượng được coi là kiệt tác; mủi lòng trước những hoàn cảnh éo le hoặc thương tâm, đôi lúc còn cả tin đến mức dễ bị mắc lừa và về cơ bản, là một người hướng thiện. Tuy không phải là không có lúc xé rào, nhưng nhìn chung Hân vẫn là người biết sống và hành xử theo những nguyên tắc đạo đức mà số đông, cho dù ở thời đại nào cũng vẫn thường buộc chặt mình vào đó.

– Ủa, chút xíu nữa thì quên… – Phương Linh khẽ kêu lên – Thế chuyện vợ con anh thì thế nào? Anh được mấy cháu rồi?

Hân hiểu, câu hỏi này không hề chứa đựng một sự quan tâm nào, nhưng có sao đâu! Chẳng có gì quan trọng. Không biết có lúc nào rất tình cờ, Phương Linh nghe ai nói đến chuyện hôn nhân và gia đình của mình không? Hân thủng thẳng nửa đùa nửa thật:

– Bà xã nhà anh làm nghề bán phở. Anh có hai cháu, đứa lớn là con trai, đang học lớp tám. Đứa bé là con gái, học lớp ba. Còn vất vả nhiều…

Phương Linh không giấu nổi ngạc nhiên:

– Chị… bán phở ấy ạ?

– Đúng rồi! – Hân gật đầu và chợt nghĩ, đã bịa thì bịa luôn cho xong chuyện. – Bán ngay tại nhà. Không phải chạy đi đâu hết.

– Ủa, em tưởng đâu anh phải lấy vợ là bác sĩ, kĩ sư gì đó chớ? Sao lại…

Hân phì cười, nhưng vẫn tiếp tục y như thật:

– Anh cũng muốn lắm, nhưng không hiểu tại sao chẳng có cô bác sĩ hay kĩ sư nào chịu lấy anh. Đành lấy một cô bán phở vậy, dù sao cũng được ăn no, em ạ. Giống như con quạ già trong truyện của Anđécxen ấy, em có nhớ không? – Hân hơi ngạc nhiên trước sự lâm li ấy của mình. – Vì thế mà giáo án của anh đầy mùi phở bò tái, chín, nạm, gầu… đủ cả. Em cứ ra Hà Nội đi, anh hứa sẽ chiêu đãi em mệt nghỉ.

Phương Linh bật cười thành tiếng:

– Trời, nghe mà ham quá ta! Thế thì mai, em phải ra ngoài đó liền. Để xem anh có bà vợ đảm đang tới cỡ nào!

– Nhất trí!

Hân ngoéo tay Phương Linh giao hẹn, ra cái điều chắc chắn, nhưng trong bụng lại cười thầm vì thực sự anh cũng không hiểu tại sao mình lại có thể nói xạo trơn tru như vậy. Có lẽ do từ lâu, anh đã nghĩ đến một câu chuyện, đại thể có một đôi vợ chồng làm giáo viên. Vì cuộc sống quá khó khăn, đồng lương ít ỏi nên sau khi cân nhắc đắn đo, người vợ đành chấp nhận bỏ nghề, quay ra bán phở. Không ngờ việc làm ấy lại thành công: chỉ sau một thời gian, cuộc sống của cả gia đình khá lên trông thấy. Hai vợ chồng mua được đất, xây được nhà, mở cửa hiệu chứ không còn phải đi thuê địa điểm như trước nữa. Chị vợ còm nhom trở nên béo tốt, đẫy đà. Nhưng cũng từ đó, anh chồng bỗng nhiên phát sợ, không còn ăn được bất cứ loại phở gì và cũng không dám động vào người vợ vì lúc nào cũng chỉ ngửi thấy toàn mùi phở.

Phương Linh vẫn nửa tin nửa ngờ, nhưng Hân không cải chính. Một chuyện bịa nhưng vô hại, kiểu như cá tháng Tư thôi mà. Sự thật là Hồng, vợ anh không phải kĩ sư hay bác sĩ nhưng cũng tốt nghiệp đại học, chuyên ngành quản lí kinh tế. Anh làm quen với Hồng qua sự giới thiệu của chính bà mẹ vợ Quang, nhưng không gợi nên được ở cô một chút cảm tình nào trong lần đầu gặp gỡ. Những lần sau, còn tệ hại hơn vì có người tìm cách phá, mặc dù chuyện ấy chẳng liên quan hay ảnh hưởng gì đến họ. Đơn giản, là không thích thì cứ phá chơi thôi, cái đặc tính cố hữu của người Việt Nam không thể nào khác được. Đến nỗi, đã có lúc Hân nghĩ, mình nên dừng lại vì chẳng còn lí do gì để mà bước tới.

May mắn làm sao, nhờ sự tác động của bà mẹ Hồng, cuối cùng, cô cũng thay đổi thái độ đối với Hân. Cứ như trò đùa của số phận! Nhưng, vốn chẳng biết làm ăn buôn bán gì lại tiêu hoang, nên sau sáu năm ở Liên Xô, Hân về nước chỉ với đúng một chiếc xe đạp mua ở cửa hàng đồ cũ, một đầu máy khâu chạy điện và mấy thứ đồ dủng lặt vặt. Khác hẳn với Cường, trước lúc về nước, cả căn phòng của cậu ta chất đầy các thứ đồ, chỉ riêng xe máy Simson của Đức đã là ba chiếc. Vậy mà thật không may cho Hân, chiếc xe đạp của anh lại bị mất trộm trước khi cưới không lâu. Còn cái đầu máy khâu, phải bán đi mới có tiền lo mọi việc. Bố mẹ anh đã quá già lại nghèo nên không giúp được gì. Hơn nữa, mang tiếng đi Tây về, chẳng lẽ muối mặt xin tiền của mọi người để làm đám cưới? Nhưng cũng buồn cười, chẳng biết do lơ đễnh thế nào, lúc thiết kế và đặt in thiếp mời, Hân lại quên béng ngay mất dòng chữ đáng được coi là quan trọng nhất: Rất hân hạnh được đón tiếp.

 

Sau đám cưới ít lâu, những khó khăn dồn dập về cơm áo gạo tiền đã ập đến với Hân và Hồng. Hai vợ chồng anh phải làm đủ những việc khác nhau, từ may gia công quần áo đến đan lát, thêu thùa để kiếm thêm ít tiền còm, nhưng tuyệt nhiên không dám nghĩ đến việc chạy hàng vì chẳng ai có năng khiếu gì về chuyện đó. Gần một năm sau, Hồng sinh được một đứa con trai khiến Hân thở phào nhẹ nhõm. Thế là nỗi lo canh cánh bao nhiêu năm qua đã được giải tỏa hoàn toàn. Bởi vì rất nhiều người lính kinh qua chiến tranh đã gặp khó khăn về đường con cái do ảnh hưởng chất độc màu da cam và những bệnh tật khác nhau. Nhiều anh phải chạy chữa khắp nơi vẫn không có kết quả. Không ít người đành ôm hận vì sinh ra những đứa con dị dạng, không thể có được cuộc sống bình thường. Nhưng Hân, may mắn thay không bị rơi vào trường hợp ấy.

Cả nước bỗng nhiên nháo nhào lên vì vụ giá – lương – tiền. Không thể tưởng tượng được tại sao người ta lại có thể bất chấp mọi quy luật khách quan và tùy tiện đến thế khi tung ra một chính sách làm ảnh hưởng đến cuộc sống của mấy chục triệu con người vốn đã kiệt quệ vì những chủ trương, chính sách sai lầm và hậu quả của mấy cuộc chiến tranh liên tiếp. Nghe nói, theo ý kiến của các chuyên gia, đáng lẽ phải đi theo đúng lộ trình của nó là xóa bỏ bao cấp, thay đổi giá cả, tiếp theo là cải cách tiền lương và kết thúc bằng việc đổi tiền. Nhưng không biết do sự nóng vội, duy ý chí của ai mà người ta đã làm ngược lại, là đổi tiền, cải cách tiền lương rồi cuối cùng mới đến giá cả.

Mọi cái trở nên cực kì hỗn loạn. Hàng chục triệu gia đình rơi vào cảnh khốn cùng vì đồng tiền mất giá. Sản xuất, giao thương đình trệ. Mãi hàng chục năm sau người ta mới dám hé lộ một phần sự thật là đã có thời điểm, lạm phát lên tới bảy trăm phần trăm! Một tỉ lệ hiếm có quốc gia nào sánh kịp.

Không biết có phải chịu trách nhiệm trong vụ ấy không, nhưng tại Đại hội Đảng tiếp theo, nhà thơ rất nổi tiếng kia không được bầu vào trung ương nữa. Mọi chức vụ của ông cũng mất dần. Thơ ông bây giờ ít xuất hiện trên báo hơn và đã có vẻ nặng trĩu suy tư, không còn phơi phới lạc quan như trước. Cùng lúc đó là những biến động long trời lở đất ở Đông Âu rồi tiếp theo là sự sụp đổ hoàn toàn của Liên bang Xô viết. Cái quốc gia từng lớn nhất hành tinh, chiếm một phần sáu địa cầu đã đi về mười lăm ngả. Trên thế giới không còn phe xã hội chủ nghĩa ngày nào. Chẳng bù cho lúc nhà thơ Việt Nam phóng bút:

                                      Liên Xô xưa cũng như ta

                                Mai sau ta cũng như là Liên Xô…

Nhưng cái “mai sau” ấy là mai sau nào nhỉ?

Thật tiếc là không ai biết, kể cả cái nhà ông đã đẻ ra những câu thơ ấy.

 

*

*          *

 

Cuộc sống của gia đình Hân có sự đổi thay rõ rệt sau khi Hồng được cử đi công tác nước ngoài một tháng. Đến lúc về, cô đem theo được một khoản dành dụm cũng tương đối, nhờ vậy mới mua được xe máy cho chồng. Hai người quyết định sinh thêm một đứa con rồi từ đó dần dần thoát khỏi cảnh nghèo túng tuy còn lâu mới có thể được coi là khá giả. Mà khá giả làm sao được, khi cả vợ lẫn chồng đều làm công ăn lương của nhà nước lại không một tí chức quyền nào.

Lúc này đổi mới đã được dăm sáu năm, người dân đỡ cơ cực hơn một chút. Nhưng ở nhiều nơi lại xuất hiện tầng lớp cường hào mới (toàn là cán bộ, đảng viên đấy nhé!) và những vụ khiếu kiện về đất đai mỗi ngày một nhiều thêm, kéo dài như vô tận. Rất nhiều quan chức và đủ loại doanh nhân, doanh nghiệp giàu lên chỉ sau một đêm, và cũng rất nhiều người gần như mất trắng vì bị thu hồi đất. Bao nhiêu nghịch lí và những chuyện đau lòng. Các vụ án tham nhũng liên tiếp xảy ra, ngày càng lớn hơn về quy mô, tầm cỡ. Nạn cướp giật, đĩ điếm, lừa đảo, ma túy… không ngừng gia tăng và tình trạng buôn người ngày càng phổ biến. Nhiều cô gái ở các miền quê nghèo ồ ạt lấy chồng Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc… với hi vọng đổi đời để rồi cuối cùng vỡ mộng và không ít người chết thảm. Nhưng kinh khủng nhất là ở bất kì đâu, người ta cũng đều có thể hành hung, tạt axít và chém giết lẫn nhau một cách dã man, nhiều khi không cần một lí do nào hết.  

 

Vận may đến với Hân khi anh được cơ quan bình xét, chia cho mấy chục mét vuông đất để làm nhà. Nhưng mọi việc xem ra chẳng dễ dàng gì và cũng chính là qua những lần bị nâng lên đặt xuống chán chê rồi kiện cáo lung tung, Hân mới càng hiểu thêm lòng dạ của con người ta đối với nhau là như thế nào khi có cơ hội vơ vào. Mà đó toàn là những ông nọ bà kia, bằng cấp đày mình, đáng được gọi là dân trí thức.

Theo dự kiến, Hân sẽ được phân mảnh đất liền kề với nhà của một vị giáo sư khả kính, người ngày xưa đã từng góp công gánh gạch xây trường. Biết được tin này, ông liền tức tốc lên gặp ngay Hiệu trưởng, Chủ tịch Hội đồng nhà đất, trưởng khoa cũ của Hân. Ông ta hỏi thẳng luôn: anh Hân anh ấy làm cái gì mà được nhiều đất thế? Chẳng lẽ anh ấy xứng đáng được nhiều hơn cả tôi à? Rồi giáo sư đề nghị, cắt bớt độ mười mét vuông phía sau thửa đất, chia thêm cho ông làm cái bếp và để xe máy, chứ hiện nay bếp nhà ông chật quá. Ra vào cực kì bất tiện.

Hiệu trưởng chỉ nói một cách nhẹ nhàng, rằng trước sau, bác đã được đến cả trăm mét rồi đấy chứ. Bây giờ nếu có chật thì cũng là vì bác đã chia cho con gái và con rể, lại còn bán bớt cho cô Tấm ở cùng khoa… “Hơn nữa, mảnh đất ấy dài hơn mười lăm mét, nhưng rộng có hai mét tám, nếu cắt đi mười mét vuông cho bác thì phần còn lại xây cái gì cũng khó, mà nhà bác lại thành hình chữ e lờ (L) trông không đẹp tí nào. Anh Hân là thương binh, nên cũng phải ưu tiên một chút”. Vị giáo sư đuối lí nhưng còn cố cãi, rằng thương binh thì đã có chính sách ưu đãi, hằng tháng vẫn lĩnh bao nhiêu tiền rồi, còn đất cát lại là chuyện khác. Và đe, nếu các anh cứ chia mảnh đất ấy cho thằng Hân thì không yên được với tôi đâu!

Ông giáo sư kiện chưa xong thì lại đến một cô ở cùng tổ bộ môn của Hân. Đau thế! Cô này sinh năm sáu mươi tám, chưa phải giáo sư tiến sĩ gì nhưng đang làm nghiên cứu sinh. Lập luận của cô là anh Hân còn về đây sau em, anh ấy làm cái gì, cống hiến cho trường này được bao nhiêu mà cũng đòi được bằng em? Như thế thật không công bằng. Hay là thu bớt độ nửa mét mặt tiền của anh ấy, cho em rộng thêm ra một chút. Rồi đến một cậu khác được phân đất bên cạnh cô cũng vậy. Không chỉ kiện Hân, còn kiện luôn cả cô kia, vì mảnh đất được phân cho cậu ta bị thót đuôi chuột, không tốt về phong thủy. Cũng có lí, khi đất của chị này nở hậu tới gần một mét! Tất cả cứ í ỏm lên, đến nỗi Hội đồng đành phải dừng lại hết, không phân cho ai nữa.

Nhưng những kẻ to mồm ấy không biết hay làm như không biết rằng thật ra, người ta định thí cho các vị một tí là để dễ bề chia cho người nhà của Hiệu trưởng và Chủ tịch Công đoàn những mảnh to hơn, ở vị trí đẹp hơn. Hân được đưa vào danh sách cũng là vì thế: đấy nhé, chúng tôi rất chú ý đến những đối tượng đáng được ưu tiên. Khổ nỗi, không ai dám hé răng suy bì tị nạnh với các nhân vật kia, mặc dù họ về đây còn sau rất nhiều người. Thế là Hân bị biến thành mớ bung xung của đôi nam thanh nữ tú.

Rất biết thực chất của vấn đề là như thế nào, nhưng Hân vẫn lặng im. Tuy không còn ở vào thời kì cao điểm, nhưng đất ở khu tập thể xung quanh trường này cũng phải trên dưới năm mươi triệu đồng một mét vuông. Ba mươi mét, một tỉ năm trăm triệu. Là số tiền mà rất nhiều người làm ăn, dành dụm cả đời cũng không có được. Hai cô cậu kia đã được nhà trường giữ lại làm giảng viên và cho ở nhà công vụ gần chục năm rồi. Lại nữa, sau khi vào biên chế, thời gian công tác liên tục của họ được tính từ lúc học năm thứ nhất. Vấn đế còn lại, là làm sao biến cái nhà công vụ kia thành của mình hoặc kiếm mảnh đất xây nhà. Chứ mua, thì tiền đâu, mà tội gì! Nhà nước phải quan tâm chứ! Chẳng mấy khi có được cơ hội vàng như thế này. Phải chiến đấu giành giật lấy! Trên đời này làm gì có ai cho không ai được cái gì! Mà nếu chỉ trông vào đồng lương thì đến bao giờ mới mua được đất!

Hân bị coi là về sau vì đúng là anh từ nơi khác chuyển về khi cô cậu ấy vừa tốt nghiệp xong. Nhưng cả hai đều quên rằng thời gian công tác của Hân được tính từ lúc làm công nhân, trước cả khi anh đi bộ đội khá lâu. Với lại, nào có phải hai cô cậu ấy giỏi đến mức người ta phải giữ! Tốt nghiệp xong, chẳng biết xin việc ở đâu, cũng không muốn về quê nên cả hai bèn chạy chọt, xin ở lại trường. Thế là nghiễm nhiên biến thành người được nhà trường giữ lại. Đó là chưa kể, Hân còn nghe nói chính cái cô kia đã từng leo lên giường với Hiệu trưởng tiền nhiệm để đạt được mục đích của mình, là vào Đảng và kiếm lấy tí chức quyền nào đó. Vì thế, hoàn toàn có thể tin rằng nếu ông ấy không được đề bạt lên chức vụ cao hơn, chuyển đi nơi khác thì cô đã được phân đất lâu rồi. Mà chắc chắn không phải là chỉ ba mươi mét!  

Rác tai quá và cũng bực mình vì những hành vi khó chấp nhận kia, lại không muốn đôi co với mấy đứa trẻ ranh, Hân đành phải lên gặp Chủ tịch Hội đồng. Một con người thông minh và quyết đoán. Nếu có điều gì khiến anh có thể ghét Hân thì chỉ là do một lần, thấy Hân đã lớn tuổi lại chưa phải đảng viên, nên với tư cách bí thư chi bộ, anh đã thuyết phục Hân vào Đảng. Nào ngờ, Hân cãi lại ngay: “Cám ơn anh, tôi không có ý định làm việc đó”! Anh này giận đến tím cả mặt, nhưng không thèm nói thêm gì nữa. Thật may mắn cho Hân, ông bí thư của ngày qua có lẽ không phải là người hay chấp nhặt.

Lúc này, Hiệu trưởng đang ngồi trong phòng làm việc đầy đủ tiện nghi sang trọng, máy lạnh chạy êm. Người bảo trợ hết mình cho hai tài năng trẻ ấy đây! Anh tự tay pha trà, rót nước mời Hân rồi nghe trình bày lí do cuộc gặp. Hân lựa lời nói mọi việc như thế, như thế, rồi không đừng được nữa bèn làm luôn một mạch:

– Đấy anh xem, tôi tha không thèm kiện chúng nó thì thôi, chứ sao chúng nó lại kiện tôi? Tôi có tranh giành gì với chúng nó đâu?! Cả một hội đồng bình xét… Tôi hỏi anh, lúc tôi đi bộ đội, chiến đấu ở miền Nam thì chúng nó đang làm gì? Nói thật, xin lỗi anh, chắc chắn là lúc ấy chúng nó còn đang ở quê cởi truồng đi chân đất! Còn khoe khoang cống hiến cho cái trường này ấy à? Có giỏi thì kể ra xem người ta có cười cho thối mũi không?! Hay lên lớp, hưởng lương, ăn cơm chúa múa tối ngày cũng được coi là cống hiến? Nếu thế thì tôi còn cống hiến nhiều hơn! Anh thử xem, chúng nó có được bài báo hay công trình khoa học nào đăng ở đâu chưa? Còn nếu gọi luận án của chúng nó là công trình nghiên cứu gì ghê gớm lắm thì cứ in ra cho người ta đọc và đánh giá. Liệu có dám không?  

Hân ngừng lại, liếc nhìn Hiệu trưởng như để thăm dò trong khi anh này vẫn khoan thai hút thuốc và phun khói ra đằng mũi, không tỏ thái độ gì rõ rệt.

– Hừm… Đây thì bốn năm ở chiến trường, vào sống ra chết. Hơn năm mươi bài báo, tiểu luận và phê bình, có người ở trường mình đọc và biết đấy! Lại còn dịch cả hai cuốn sách, một số truyện ngắn và kịch bản phim… Khoe là về đây trước, nhưng anh thử xem cộng tất cả lại, chúng nó có được bao nhiêu năm công tác kể từ khi vào đại học? Còn tôi, tròn ba mươi năm đây này! Nhiều hơn tuổi đời của hai đứa nhé! Chính vì thế mà mặc dù mỗi năm ở cơ quan khác, kể cả thời gian tại ngũ, được các anh tính bằng nửa năm ở đây thôi, tổng số điểm bình xét của tôi vẫn cao gấp hơn hai lần chúng nó! Đúng không? Tiêu chuẩn thương binh cũng chỉ được các anh cộng thêm cho hai điểm! Vậy mà đã lần nào tôi lên gặp các anh để xin xỏ, đề đạt gì chưa, hay đây là lần đầu tiên? Hơn nữa, nếu chúng nó muốn thì cứ việc đi mà đòi mảnh đất to hơn chứ can cớ gì lại so sánh với người nọ người kia rồi xúc phạm đến tôi? Anh thấy có đúng không?

Hiệu trưởng còn chưa kịp nói gì thì vừa lúc đó có người bước vào, xin gặp. Hân đắn đo một lúc rồi cuối cùng cũng đành rút lui vì không biết sẽ phải chờ đến lúc nào sếp mới quay lại được với anh, mà những gì cần nói thì đã nói xong rồi. Nhưng cũng phải sau đó mấy năm, người ta mới chia đất cho anh và hai cô cậu kia, mỗi người được hai mươi lăm mét. Vị giáo sư cũng không đòi cắt đất của Hân để chia thêm cho ông, vì anh có được phân chỗ ấy nữa đâu!

Như một bác AQ chính hiệu, Hân lấy làm sung sướng lắm vì mảnh đất trời cho ấy. Một tỉ hai trăm năm mươi triệu đồng chứ nào có ít ỏi gì! Anh không phải khuất lụy ai, cũng chẳng đến nỗi phải mất tiền chạy chọt. Thế đã là may mắn lắm rồi và càng may mắn hơn, khi mà ở các nơi khác, chẳng còn lấy một mảnh đất cắm dùi nào để chia cho ai nữa. Hai vợ chồng Hân liền dốc hết tiền nong dành dụm, vay mượn thêm bạn bè và lần đầu tiên, xây được cái tổ ấm cho mình.

Mọi chuyện tưởng như thế là xong, nhưng không. Hai đồng nghiệp trẻ của Hân, giờ đều đã là tiến sĩ, vẫn còn chưa hài lòng lắm. Chẳng biết suy nghĩ như thế nào, cậu chàng sinh năm bảy mươi kia lại xưng xưng lên rằng nếu không có Hân nhảy vào, thì mảnh đất ấy chỉ phải chia đôi, nghĩa là cậu ta sẽ được gần bốn mươi mét! Cô nọ thì rêu rao, là nhờ có cô mà Hân mới được đất làm nhà, chứ không thì còn lâu! Đã thế, lại còn tỏ ra cao ngạo, cảm thông một cách tức cười: “Thôi thì cũng phải ưu tiên một chút. Chẳng gì anh ấy cũng là thương binh mà”!

Hân không thể nào hiểu nổi thái độ của những con người ghê gớm ấy. Nhưng anh biết, lẽ ra mảnh đất này chỉ thuộc về anh chàng lái xe của sếp. Bị phản đối ghê quá nên cậu ta đành phải chuyển sang nhận phần ở chỗ khác, nhỏ hơn. Hân được nhờ cô gái, có lẽ vì cô cao thượng đến nỗi lại còn đi xin đất cho anh, chứ không phải là kiện cáo và đòi cắt bớt. Không chấp nhận được thái độ của hai vị tân tiến sĩ kia, nhưng lần này thì Hân chẳng thèm nói năng gì nữa. Hãy cứ để cho chúng nó tha hồ mà vênh váo.

 

Câu chuyện giữa Hân và Phương Linh đã vãn. Có cảm giác, chị không còn gì để nói.     Cũng dễ nhận ra, giữa hai người không còn có được sự đồng cảm gần gũi như xưa. Trái lại, một khoảng trống của gần hai mươi năm cách biệt, không thể lấp đầy. Chợt Hân nhớ đến một cái tên mà đã lâu lắm rồi, anh không còn nhắc tới. Một gương mặt trẻ trung, xinh đẹp đến ngỡ ngàng.

– À, lâu nay em có tin tức gì của Ira không?

– Nó chết lâu rồi, anh!

– Trời đất ơi! – Hân bàng hoàng, sửng sốt. – Làm sao mà chết, em có biết không?

Phương Linh khẽ gật đầu:

– Biết. Năm tám chín, em sang Mátxcơva công tác. Em có điện thoại cho mấy đứa cùng lớp và cả một số thầy cô để gặp mặt. Tụi bạn em kể lại là lần ấy, chẳng biết buồn cái gì đó, con Ira uống rượu say rồi rớt từ trên lầu năm xuống chết ngay.

– Trời! – Hân lại nhớ đến cô gái đã tự sát ở kí túc xá của anh ngày trước. Xương gãy và giập nát. Cả cơ thể rũ xuống như một tàu lá héo. Còn Ira, anh không biết thế nào…

– Anh biết không, lúc còn sống, con Ira nó cứ nói đi nói lại hoài với em là có một bà Digan xem bói cho nó, bảo nó sống không quá tuổi ba mươi; sẽ chết ở trên núi và cho đến lúc chết vẫn chưa chồng… Thế mà đúng thật! Đúng là cho đến lúc chết, nó vẫn chưa lấy ai, mặc dù đã chia tay anh nhà báo cụt chân ấy… Anh có nhớ lần em bị say rượu ở phòng anh không?

– Nhớ chứ! – Hân khẽ gật.

– Đó… – Phương Linh tiếp tục. – Lần ấy nó bỏ hết mọi việc, tìm cách đến tận nơi để gặp Cường, nói cho Cường biết em đang khốn khổ như thế nào. Chứ nếu không thì… Cường đâu có tới! Vậy mà nó chết, không ngờ được. Năm ấy nó ba mươi mốt tuổi. Thật ra ba mươi hay ba mươi mốt, chênh lệch đâu có nhiều. Đúng là chết trên núi, vì lúc đó nó đang đi công tác ở Kapkaz. Sau đó, người ta chôn nó ngay tại nghĩa trang trên núi.

Hân bàng hoàng, lạnh hết cả người. Lại hiện ra trước mắt anh gương mặt tươi vui, đôi mắt xanh pha xám và cái nhìn rất vô tâm của Ira. Chiếc váy liền áo mỏng tang, cổ khoét sâu, để lộ đến hai phần ba bộ ngực và đôi chân trắng nuột nà… Chính cô đã cất công đi tìm gọi Cường đến, vì Phương Linh. Tại sao những người tốt lại thường vắn số? Hân không tài nào hiểu được.

– Thế còn Thanh Hằng, em có biết sau này nó thế nào không? – Hân buột miệng hỏi đến một nhân vật khác.

Lần này thì Phương Linh lắc đầu, tỏ ý khinh thường. Chị vắn tắt cho Hân biết là sau khi chia tay Cường, Thanh Hằng liền sống ngay với một anh chàng người Bun hay Hung gì đó. Cô ta không được bảo vệ tốt nghiệp, rồi cuối cùng lưu vong ở Ba Lan.

Ba Lan! Liệu Thanh Hằng có thể làm gì ở đó khi mà cô không có nghề nghiệp, bằng cấp gì, cũng không nói được tiếng Ba Lan. Chẳng lẽ cô chỉ biết sống dựa vào một anh chàng da trắng tóc quăn nào đó! Cô đã làm thế nào để vượt qua được những biến động ở Ba Lan cũng như Đông Âu vào cuối những năm tám mươi? Và nếu Hân không nhầm, thì năm nay Thanh Hằng cũng đã bốn mươi ba, bốn mươi tư rồi. Thật khó có thể thay đổi gì được nữa.

Những thông tin cuối cùng khiến cho Hân cảm thấy lòng mình nặng trĩu. Anh nhìn đồng hồ: ba giờ bốn mươi lăm phút. Anh và Phương Linh ngồi đây đã được hơn một tiếng rồi. Hơn một tiếng, sau khoảng cách gần hai mươi năm và một nghìn mấy trăm ki lô mét. Nếu tính từ lần đầu tiên anh nhìn thấy Phương Linh ở khu nhà ĐAX thì đã hơn hai mươi ba năm. Lúc đó, chị trẻ trung xinh xắn như một cô bé mười sáu mười bảy tuổi. Còn bây giờ, anh chẳng biết nói gì…

Hân khẽ thở dài, bỏ luôn ý định rủ Phương Linh đi ăn cơm tối rồi sau đó xem kịch hay phim gì đó. Anh cũng không ngạc nhiên khi thấy chị không hề có ý mời anh đến nhà chơi hay hẹn một lần gặp lại; ngay cả một tấm các vi dít cũng không. Vậy mà ngày xưa, đã có lần Phương Linh xin một tấm ảnh của Hân “Để em luôn luôn nhớ tới anh”. Ảnh chụp nộp kèm hồ sơ đi học nước ngoài, lạ lùng thay, trông rất đẹp trai và đầy vẻ phong trần nhưng lại không giống anh cho lắm.

– Chừng nào anh lại ra Hà Nội? – Phương Linh cũng xem đồng hồ và hỏi.

– Trưa mai. Anh sẽ bay chuyến mười hai giờ ba mươi. Đăng kí vé rồi. 

– Nhanh nhỉ.

– Ừ, bao giờ cũng thế, anh đi công tác chỉ vừa đúng một tuần ấy mà. Thôi, chúng mình về đi. Để em còn làm việc chứ!

Hân đứng dậy và nhận thấy Phương Linh không biết anh vừa nói dối. Sự thực, là Hân sẽ bay chuyến ba giờ chiều, và mười hai rưỡi chắc còn đang sa đà trong cuộc liên hoan chia tay với lớp. Kinh nghiệm cho thấy khó có thể từ chối hay làm gì khác. Anh nói giờ bay sớm lên, phòng khi Phương Linh có ý định đến chào tạm biệt hay tiễn chân thì lại thêm phiền cho cả hai người. Nhưng rõ ràng là điều đó không một chút thoáng qua trong óc chị. Hân bỗng cảm thấy hơi hụt hẫng thế nào… 

Thanh toán tiền xong, Hân liền cùng Phương Linh bước ra ngoài. Nắng chứa chan rực rỡ khiến anh hơi chói mắt. Phương Linh cười, hỏi:

– Anh Hân này, anh có nhớ có lần em nói anh làm sao không?

Hân hơi ngớ ra một lát:

– Chịu! Em nói bao nhiêu lần, bao nhiêu là thứ, anh làm sao mà nhớ được! Mà… em nói gì ấy nhỉ?

– Em nói… anh có nụ cười xảo quyệt!

– Trời đất ơi! – Hân bật cười to. Thì ra cô ấy cũng không quên. – Thế bây giờ, em còn nghĩ thế không?

– Không, – Phương Linh tỏ ra nghiêm chỉnh. – Nhưng lúc đó, em cảm thấy đúng là như thế. Nụ cười của anh có cái gì đó hơi giả dối. Thậm chí là như để che giấu một âm mưu nào đó.

– Vậy thì… Em hãy nghe cho rõ nhé, – Hân nói bằng cái giọng hơi tưng tửng. – Thực ra, anh không có âm mưu gì đâu! Nhưng mà… coi em như hình mẫu hay thần tượng thì có đấy. Đến nỗi có thời gian, cái gì cũng “Phương Linh”. Và hình như lại còn hâm đến nỗi mê em nữa cơ! Không phải yêu đâu, không dám đâu, mà chỉ thôi. Không phải ljubôp, mà là vljubljon… Em có hiểu không?

– Trời! Thế mà em không biết! – Phương Linh hơi đỏ mặt kêu lên.

– Biết để làm gì? Có thay đổi được gì đâu! Nhưng cũng chính vì thế mà anh sẽ chẳng bao giờ quên em cả.

– Dạ…

– Và tất cả những gì em đã nói với anh, cho đến tận giờ phút này anh vẫn đào sâu chôn chặt, không nói cho ai biết. Cả sau này cũng thế. Rax na vxegđa… – Hân chậm rãi nhắc lại câu ngạn ngữ của người Nga. – Một lần cho mãi mãi, Phương Linh ạ. Em hoàn toàn có thể tin như vậy.  

– Cám ơn anh nhiều.

– Có gì đâu! Anh mới phải cám ơn em chứ!

Hai người bắt tay nhau tạm biệt. Thêm một lần nữa, Hân cảm thấy bàn tay Phương Linh lọt thỏm trong bàn tay không lấy gì làm to lắm của anh. Cứ như ngày xưa thì Hân đã hôn khẽ một cái lên má chị, nhưng bây giờ thì chịu. Anh giữ bàn tay nhỏ bé ấy một lát rồi mới buông ra cùng với lời chào tạm biệt thêm lần nữa.

 

Hân không gọi xe ôm mà lững thững đi như đếm từng bước một trên hè phố vì trời đẹp thế này… Đâu phải lúc nào mình cũng có cơ hội được đi dưới những hàng sao cổ thụ giữa Sài Gòn, thứ cây đặc trưng của phương Nam! Hân tự nhủ và thầm tính xem nên mua cái gì làm quà cho bà xã và cô con gái nhỏ ở nhà. Lại còn phải gọi điện báo tin, mặc dù chẳng có ai đi đón.

 Anh nhớ đến bài thơ Nhớ Bắc của Huỳnh Văn Nghệ[14] được viết từ năm một ngàn chín trăm ba tám hay bốn mươi gì đó tại Sài Gòn, với những câu chữ thật hào sảng và lay động lòng người. Hình như đây cũng là một trong những thi phẩm hiếm hoi nói đến Nguyễn Hoàng và sự nghiệp mở mang bờ cõi của cha ông mấy trăm năm trước.

                              Ai về Bắc, ta đi với!

                             Thăm lại non sông, giống Lạc Hồng

                             Từ thuở mang gươm đi mở cõi

                             Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long…

Không hiểu tại sao nhiều người vẫn cho rằng câu cuối trong khổ thơ này là Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long, Hân nghĩ. Không thể như thế được. Phải Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long mới ra được nỗi nhớ quê của những người đi mở cõi. Chứ trời Nam trên vùng đất mới được chinh phục và khai phá còn chưa hoàn toàn quy thuận, chưa thật sự thu về một mối thì làm sao mà nhớ đất kinh đô vốn được coi như một biểu tượng thiêng liêng của những người đi mở cõi. Nỗi nhớ ở đây chính là nỗi nhớ của cư dân xa quê một ngày cũng cảm thấy tựa trăm năm, trong hoàn cảnh phải đối mặt với bao nhiêu thử thách và hiểm nguy luôn luôn rình rập.

Suốt mấy chục năm, không hiểu tại sao người ta chỉ nhắc đi nhắc lại cái tội của Gia Long cõng rắn cắn gà nhà và trả thù Nguyễn Huệ một cách vô cùng tàn khốc. Họ gần như không nhắc gì đến việc triều Nguyễn mở mang bờ cõi và chính Nguyễn Ánh mới là người thống nhất giang sơn, xóa bỏ tình trạng một nước ba vua, anh em chém giết lẫn nhau. Tiếp đó là công cuộc đào kênh dẫn nước, khai khẩn đất đai, biến những hoang vu rậm rạp thành đồng ruộng phì nhiêu, bờ xôi ruộng mật… Cái mà Tây Sơn không làm được thì nhà Nguyễn đã làm xong. Quả thật, nếu không có Nguyễn Hoàng, Nguyễn Hữu Cảnh và các thuộc tướng của ông rồi sau đó là Gia Long cùng với những thế hệ tiếp theo thì ai mà biết được cương vực nước ta đóng khung lại ở nơi nào! Còn chuyện trả thù, thậm chí là dã man, tàn bạo đi chăng nữa thì triều đại nào chẳng thế!

Nguyên nhân sâu xa có lẽ nằm ở chỗ, dường như mỗi người sáng lập một triều đại mới trên đất nước này lại đều xuất thân từ tầng lớp nông dân và ảnh hưởng ý thức hệ nghìn năm khiến cho bất cứ ai mới lên ngôi cũng đều phải tìm cách diệt trừ hết tất cả những người thuộc dòng dõi vương triều cũ để đề phòng hậu họa. Hẳn không phải ngẫu nhiên mà anh em nhà Tây Sơn đã sai người khai quật mồ mả tổ tiên của Gia Long, đem vứt đi nơi khác và đâu phải chỉ một mình Nguyễn Phúc Thuần chết thảm dưới bàn tay của họ. Cơ nghiệp trăm năm do Nguyễn Hoàng gây dựng nên bị phá tan. Chính Nguyễn Ánh cũng đã từng  mấy lần bị dồn đến bước đường cùng và có lúc phải bỏ chạy ra tận ngoài Côn Đảo. Làm sao ông ta lại không tím ruột bầm gan vì điều đó! Nhưng không thể chối cãi một sự thật là quan lính Tây Sơn không được lòng dân đất phương Nam, còn Quang Toản thì bị các thổ hào Kinh Bắc bắt và đóng cũi, nộp cho quân nhà Nguyễn.

Cứ bảo, lịch sử rất công bằng. Nhưng có lẽ nó chỉ thật sự công bằng khi đứng ngoài những quan điểm chính trị hẹp hòi và mưu toan của một số cá nhân nào đó. Và trong việc này, hình như những người ở phía bên kia lại tỏ ra khách quan, đúng mực hơn thì phải. Một mặt, họ vẫn ghi nhận những võ công oanh liệt của Quang Trung, nhưng mặt khác lại đề cao vai trò nhà Nguyễn. Cái tên Gia Long từ lâu đã được đặt cho một con đường giữa trung tâm thành phố cũng như một công trình kiến trúc tiêu biểu và trường học tại Sài Gòn. Còn hình ảnh của Nguyễn Huệ thì đã từng xuất hiện trên những tờ giấy bạc của Ngân hàng Việt Nam Cộng hòa. Và, phàm đã là người Sài Gòn thì không ai lại không biết đến quân trường Quang Trung một thuở.

 

*

*          *

 

Bây giờ, Hân đã lại ngồi trên máy bay, sắp sửa về Hà Nội. Khoa học kĩ thuật quả là kì diệu! Ngày xưa, để đi từ Bắc vào Nam, mà mới chỉ đến khu vực Đông Nam bộ thôi, anh và đồng đội đã phải mất tới hơn ba tháng. Còn bây giờ, trong điều kiện bình thường, chỉ cần chưa đến hai tiếng đồng hồ. Vào thời điểm Hân sang Liên Xô học, đi tàu liên vận qua Trung Quốc tới Mátxcơva mất hơn một tuần. Lúc về nước, đường tàu bị cắt, đi máy bay mười bảy tiếng. Nhưng khoa học kĩ thuật cũng hủy diệt con người, tàn phá môi trường. Một chuyến bay từ Sài Gòn ra Hà Nội đã tung lên trời biết bao nhiêu khí thải. Vậy một ngày, một năm, ở quốc gia này, đất nước kia, cả thế giới… sẽ là bao nhiêu? Lại còn muôn vàn hoạt động khác nhau của con người diễn ra từng giờ từng phút hủy hoại thiên nhiên. Những cuộc chiến tranh không lúc nào ngừng, rồi các vụ thử đủ loại vũ khí hạt nhân và sinh học. Những cuộc tàn sát và tận diệt các loài động thực vật ở khắp mọi nơi nhằm thỏa mãn nhu cầu vô tận của con người. Các loại rác thải công nghiệp và sinh hoạt, v.v.

Mải suy nghĩ miên man, Hân không để ý đến cô tiếp viên Hàng không đang nói về những quy tắc an toàn trên máy bay, cách sử dụng mặt nạ ô xi và áo phao trong trường hợp khẩn cấp. Ăn thua gì đâu! Nói dại, chứ lỡ chẳng may có chuyện gì xảy ra, liệu có ai còn nhớ được cửa thoát hiểm ở chỗ nào! Trước mắt Hân dường như lại hiện ra vụ tai nạn hàng không năm tám tám. Chiếc máy bay của hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam bị rơi ở Đôn Mường, Thái Lan. Tất cả đều chết hết, trừ cơ trưởng. Chẳng ai biết được nguyên nhân của vụ tai nạn ấy vì người ta không công bố, nhưng hệ lụy của nó thì tác động rất mạnh tới không chỉ một hai gia đình.

Hân không nói gì với Phương Linh về người vợ đầu của Quang là có lí do. Tuổi tác và kinh nghiệm cho anh thấy, không phải cái gì cũng có thể nói ra, nhất là khi quan hệ giữa anh và Quang từ mười mấy năm nay không còn nữa. Phương Linh đã kể, mỗi khi vào Sài Gòn công tác, Quang vẫn thường liên hệ với chị đấy thôi. Không thân mật gần gũi nhau, dễ gì người ta làm như thế! Hân cũng biết, một giáo sư tiến sĩ (khoa học), giám đốc trường đại học thì có rất nhiều dịp để đi. Chứ đâu phải như anh, một giảng viên không chức không quyền, lại phụ trách một môn học có vẻ như chẳng cần cho ai cả.

 

Chuyện tình duyên của Quang có nguyên nhân sâu xa từ việc bà Hà, một chuyên viên cấp cao của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp sang Liên Xô công tác. Gặp lại Quang, con của một cô bạn ngày xưa cùng hoạt động ở vùng địch hậu Liên khu ba, thấy cậu chàng có vẻ thông minh nhanh nhẹn lại đang làm nghiên cứu sinh, bà rất có cảm tình. Không hiểu Quang đã ứng xử ra sao, nhưng sau một tháng tìm hiểu về công tác sinh viên ở Mátxcơva, bà Hà đã làm một việc ít ai làm, là tìm cách giới thiệu Quang cho cô con gái lớn của mình, lúc đó vừa hai mươi sáu tuổi.

Thanh, con gái bà Hà cao ráo, xinh xắn, đã tốt nghiệp đại học Sư phạm Lênin được mấy năm và đang công tác ở một cơ quan Bộ. Cô gái năng động ấy thích cả thể thao và văn nghệ; thuộc tên từng cầu thủ của các đội bóng nổi tiếng trên thế giới và các giải đấu quốc tế; nhớ được rất nhiều tác phẩm điện ảnh và văn chương, các diễn viên, nghệ sĩ nước ngoài, lại còn biết chơi cả pianô và ghi ta. Ngoài khả năng tiếng Nga vào loại siêu phàm thì tiếng Anh của cô cũng rất giỏi, mặc dù Thanh chỉ học ở các lớp buổi tối. Nhưng quan trọng hơn, có lẽ là ở chỗ cô sống rất giản dị và luôn luôn vui vẻ, hòa đồng với mọi người. 

Được bà Hà gắp mối, lúc đầu Thanh không đồng ý ngay, vì chưa biết Quang như thế nào, hơn nữa cô đâu có thiếu người theo đuổi! Bà mẹ ra sức phân tích thiệt hơn, thậm chí là ép buộc con gái phải nghe theo mình và sai lầm của bà chính là ở đó. Còn anh chàng nghiên cứu sinh thì lẽ đương nhiên là vui vẻ viết thư làm quen. Một lần, hai lần rồi ba lần… Dần dà, Thanh đã bị Quang chinh phục. Hai người hẹn nhau sẽ gặp mặt tại Việt Nam, khi Quang về thực tập.

Theo kế hoạch đã định trước, cuối năm ấy Quang xin phép nhà trường về nước để sưu tầm tài liệu cho luận án phó tiến sĩ của anh và nếu có thể được, sẽ tranh thủ cưới vợ luôn. Rõ ra là một công ba bốn việc. Nhưng phải có bộ đồ Tây cho lịch sự chứ! Quang không dám chi một lúc đến cả trăm rúp để mua, nên đành hỏi mượn Hân. Anh chàng cò hương chưa người yêu đã lo sắm quần áo để mặc hôm tốt nghiệp và cưới vợ, kể ra cũng đắn đo đôi chút nhưng vẫn đồng ý cho Quang mượn. Bộ com lê mới toanh và đôi giày da còn chưa kịp xỏ chân, đều nhập khẩu từ Tiệp Khắc. Rất may, là bộ com lê Hân mặc hơi rộng, nhưng với Quang lại rất vừa. Còn đôi giày thì khỏi nói. Quá đẹp luôn!

Quang đến chỗ Hân vào buổi tối để lấy hai thứ ấy vì ban ngày anh bận mà Hân cũng phải học đến tận hơn năm giờ chiều. Sau khi thử bộ com lê và đôi giày xong, Quang lấy làm ưng ý lắm, săm soi ngắm nghía chán chê rồi mới cởi ra. Anh ta ăn cơm tối với Hân rồi quyết định ngủ lại vì trời đã khuya mà lại rét. Hiềm nỗi, đi văng thì hai cái, nhưng chỉ có một tấm chăn nên hai người phải nằm chung một giường. Chẳng biết tại sao suốt đêm hôm ấy, chàng nghiên cứu sinh hết kéo sạch chăn lại cứ lẩn mẩn sờ mó Hân liên tục, làm cho anh không tài nào ngủ được.

Chuyến trở về Việt Nam của Quang có vẻ thành công mĩ mãn. Đám cưới đã được tổ chức và đôi vợ chồng trẻ ở luôn nhà bà Hà cho tiện, vì căn phòng nhỏ của Quang ở khu tập thể nhà trường đã tạm thời được phân cho người khác trong lúc anh đi vắng. Hơn nữa, ai lại đưa vợ mới cưới về đó chứ! Qua Tết âm lịch ít lâu, thấy con gái chưa có chuyển biến gì nên bằng uy tín và quan hệ của mình, bà Hà đã tìm cách xin cho chàng rể quý ở lại Việt Nam thêm một tháng. Kết quả là sau một tháng ấy, Thanh đã có bầu, còn Quang trở lại Mátxcơva tiếp tục công việc của anh ta.

Chàng nghiên cứu sinh đến gặp Hân không một chút quà nhỏ gọi là để chia vui, không thấy khoe ảnh cưới và cũng ít nói về gia đình vợ. Anh ta đưa cho Hân đôi giày và hai chiếc áo phông Thái, vì bộ com lê đã mặc trong đám cưới rồi, trả lại thì hơi bất tiện. Cũng được thôi. Hân sẽ đi mua bộ khác, thiếu gì. Hai chiếc áo phông, bán được bảy mươi rúp, vừa đủ để mua bộ com lê ở cửa hàng dành cho thiếu nhi. Nhà triết học đã tính cả rồi. Nhưng đến mấy hôm sau, khi Hân xem lại đôi giày mới biết, nó đã bị há cả mõm ra. Chắc là do bị kích chân hoặc đem phơi nắng quá lâu, lớp keo dán giày không chịu nổi. Lại còn bôi xi đen nham nhở như để che giấu cái mõm giày bị há.

Mấy tháng sau, Hân tốt nghiệp về nước. Vào cái thời điểm ấy, tòa nhà mười một tầng cao nhất Thủ đô còn chưa xây xong, đứng chơ vơ bên hồ Giảng Võ. Tàu điện vẫn chậm chạp lăn từng vòng bánh thép trên đường. Trong con mắt của Hân, thành phố như bị thu nhỏ lại, đầy bụi bặm và rác rưởi. Đất nước đang đói ăn thiếu mặc triền miên. Người dân, ai nấy đều giống nhau ở cái vẻ nhếch nhác và lam lũ. Thầy cô giáo còn phải mặc cả quần tích kê[15], áo lộn cổ[16] khi lên lớp. Không ít người kiếm sống bằng việc bơm xe đạp, bán hàng rong, cuốn thuốc lá hay vá dép nhựa rách. Toàn những nghề trên thế giới khó mà có được. Giữa lúc ấy, nhà nước lại kiểm tra hành chính, tịch thu “tài sản bất minh” của những người bị gán cho cái tội rất vu vơ là làm ăn bất chính.

“Ông vua lốp” ở Hà Nội, người ôm mộng gây dựng nên thương hiệu săm lốp Việt Nam có thể sánh ngang với Michelin của Pháp, bị mất sạch mọi thứ. Không đến nỗi bị đấu tố rồi đem ra xử bắn như hồi cải cách ruộng đất, nhưng sau khi đã ra khỏi trại giam và được minh oan, ông cũng chỉ được trả lại chưa đến một phần mười giá trị máy móc, phương tiện, vật tư… bị người ta tạm giữ. Rồi đến tận khi qua đời, ông vẫn không đòi lại được một phần tài sản của mình. Thêm một bi kịch nữa cho những người dám nuôi khát vọng làm giàu: Đảng chưa cho phép thì đừng có mà hòng nhé!

Vào lúc này, công an được giao nhiệm vụ dũi trụi tóc và rạch quần ống loe của những kẻ được coi là ăn chơi càn quấy. Đoàn thanh niên thì ra sức hô hào, vận động chị em phụ nữ mặc váy cho nó văn minh, lịch sự lại hợp vệ sinh và… tiết kiệm, nhưng chẳng có ai hưởng ứng vì có lẽ là chưa đến lúc. Tác giả Cây táo ông Lành, một thương binh chống Mĩ thì bị đuổi ra khỏi cơ quan, thậm chí còn vướng vào vòng lao lí và mất sạch mọi chế độ chỉ vì tác phẩm bị coi là phạm húy. Sau đó, còn nhiều vụ khác…

 

Hân đem thư và quà của Quang đến chỗ Thanh, nhưng cô đi làm chưa về. Bà Hà khoảng gần sáu mươi, tính tình xởi lởi, vui vẻ tiếp chuyện Hân và hỏi anh tương đối kĩ về tình hình công việc của Quang ở Mátxcơva. Hân đơn giản là biết gì nói nấy, tất nhiên là toàn những điều tốt về bạn mình. Bà mẹ vợ tỏ ra yên tâm hẳn về chàng rể. Câu chuyện loanh quanh thế nào lại xoay sang việc đời tư của Hân. Bà Hà rất quan tâm, hỏi tại sao anh lại muộn màng đến thế; anh thích tìm hiểu người như thế nào…

Ngẫm nghĩ một hồi rồi bà nói là sẽ giới thiệu cho Hân một đám. Sau này anh mới biết, thì ra các bà cùng hoạt động với nhau từ thời chống Pháp thường vẫn giữ mối quan hệ thân tình, có gì lại giúp đỡ nhau, kể cả chuyện dựng vợ gả chồng cho con cháu. Hân biết đến Hồng cũng là do sự giới thiệu của bà Hà. Không những thế, bà còn cho anh ở nhờ tới cả năm trời trong một ngôi từ đường cũ đến khi anh đã “chui gầm chạn” của gia đình vợ ở một khu tập thể vào loại khang trang nhất Hà Nội vào thời đó.

Điều mà Hân không thể ngờ tới, là Thanh không hợp được với chồng. Có thể, vì đó là kết quả của một cuộc hôn nhân sắp đặt mà cô đành chấp nhận theo yêu cầu của bà mẹ, chứ không phải vì tình yêu của chính cô. Cũng có thể, – Hân nghiêng về phía này nhiều hơn, – là do Thanh cảm thấy Quang có cái gì đó hơi độc đoán và gia trưởng. Tuy nhiên, mới chỉ qua gần hai tháng sống với nhau, các khiếm khuyết chưa kịp bộc lộ hết, mà biết đâu Thanh chẳng nghĩ mọi cái vẫn có thể chấp nhận được, thay đổi được nên chưa có gì xảy ra. Đến khi Quang về hẳn, mọi mâu thuẫn mới bắt đầu bùng nổ và mỗi lúc một thêm nghiêm trọng. Có lẽ Thanh đã nhận ra chồng cô thật sự là một người như thế nào và cách sống đo lọ nước mắm đếm củ dưa hành của anh này. Sự khác biệt về tính cách giữa hai người khiến cô không thể chịu đựng hơn được nữa. Nhưng đưa nhau ra tòa li dị nào có dễ đâu, nhất là khi đứa con trai của họ còn quá nhỏ.

Thật không may cho Thanh, là cô lại có bầu trong khi mọi chuyện vẫn lằng nhằng. Cô buộc phải li thân sau một vụ cãi nhau to. Bà Hà không muốn Thanh bỏ chồng, nên vẫn cố gắng tìm cách hàn gắn lại trong khi ông Trịnh chồng bà tỉnh táo hơn, thì lại khuyên con gái nên dứt khoát. Thanh sinh đứa thứ hai là con gái và mọi việc đã đến mức không thể nào cứu vãn được nữa, cuối cùng cô đành phải quyết định, sau chuyến đi công tác nước ngoài về sẽ chính thức đâm đơn ra tòa. Nhưng không bao giờ Thanh còn có thể làm việc ấy, để đến nỗi sau này bà Hà cứ ân hận mãi vì đã ép duyên con gái và không đồng ý cho cô được li hôn, từ đó mới xảy ra biết bao nhiêu là chuyện.

Chiếc máy bay rơi, có ai ngờ lại dẫn đến việc tranh giành số tiền bồi thường cho các nạn nhân. Ngoài khoản tiền mà Vietnam Airlines phải đền bù, thì Tổ chức Hàng không quốc tế ICAO cũng chi trả cho mỗi người chết hai mươi lăm ngàn đô la Mĩ. Hai mươi lăm ngàn đô la! Một con số khổng lồ! Nhiều gia đình bỗng nhiên lục đục với nhau vì những đồng tiền xương máu ấy. Bố mẹ chồng cãi nhau với nàng dâu. Con rể tranh giành với bố mẹ vợ. Anh chị em ruột cũng tị nạnh, so bì ít với nhiều…

Thêm một rắc rối nữa, là vào thời điểm ấy, nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi tích trữ và mua bán ngoại tệ. Bất kì ai, dù có đồng tiền của nước nào cũng đều phải gửi vào hoặc bán cho Ngân hàng nhà nước, chứ không được tự ý đem ra trao đổi. Vì thế, không ai được cầm số tiền kia, mà phải gửi tạm ở ngân hàng. Bù lại, nhà nước cho phép người có ngoại tệ, chủ yếu là đô la Mĩ được đăng kí mua hàng miễn thuế thông qua Tổng công ti xuất nhập khẩu (tất nhiên là của nhà nước rồi!). Lúc này, toàn dân Việt Nam thảy đều mong ước có ngày được sở hữu một chiếc xe máy bãi thải[17] của Nhật thay cho xe đạp đã lỗi thời. Cộng cả tiền mua, cước vận chuyển, làm thủ tục… cũng chỉ mất mấy trăm đô, nhưng bán ở Việt Nam xoàng ra cũng ba bốn cây vàng một chiếc. Ngang với giá một căn hộ khép kín, diện tích ba bốn chục mét vuông ở khu tập thể giữa Thủ đô. Người ta đua nhau đặt mua loại xe ấy để kiếm lời. Cũng từ đây, rất nhiều người sống được bằng nghề chỉ trỏ, buôn bán và sửa chữa xe máy cũ. Đối với nhiều người khác, chiếc xe máy là báu vật, niềm tự hào về sự giàu sang của cả gia đình.

Theo luật, thì cả bố mẹ vợ, hai đứa con và bản thân Quang đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Như vậy cũng có nghĩa là hai mươi lăm nghìn đô sẽ được chia đều cho cả năm người. Khổ nỗi, hai bậc lão thành cách mạng ấy lại cứ đòi nuôi hai đứa cháu ngoại đang trứng nước với lí do là Quang còn trẻ, trước sau gì cũng tục huyền. Ông bà không muốn cháu mình vừa mồ côi mẹ lại phải sống cảnh dì ghẻ con chồng. Nhưng… mười nghìn đô la! Thừa để mua hai mươi chiếc xe máy cũ nhưng còn tốt chán từ nước Nhật! Bán ở Việt Nam, mua được cả chục căn nhà! Hai ông bà già rên lên, cả quyết rằng họ mong mỏi được nuôi các cháu tuyệt nhiên không phải vì số tiền quá lớn, mà chỉ vì thương chúng nó. Nhưng anh chàng “nguyên con rể” dứt khoát không đồng ý. Cuối cùng, ông bà và Quang đành phải đưa nhau ra tòa phân xử.

Lẽ đương nhiên, Tòa xử cho Quang thắng kiện. Anh ta được quyền nuôi con và quản lí số tiền của chúng. Vị tiến sĩ trẻ rời khỏi gia đình bà Hà, dắt theo hai đứa con còn nhỏ xíu về ngôi nhà anh ta vừa mua cách đó không lâu. Mấy tháng sau, Quang lấy cô vợ mới, kém mình hơn chục tuổi và từ đó không bao giờ về thăm bố mẹ vợ cũ, cũng như không có mặt vào ngày giỗ của Thanh. Mỗi khi bà ngoại đến thăm các cháu, Quang đều lánh mặt, không thèm tiếp. Còn trước đó, khi được lĩnh tiền bồi thường từ Vietnam Airlines, anh ta đã kịp thời mua vàng cất giữ rồi, vì thứ kim loại quý này cứ tăng giá từng ngày mà nhà cửa, xe cộ gì cũng đều phải quy đổi ra vàng.

Hân vẫn băn khoăn, liệu có lúc nào đó Quang nghĩ lại và lấy làm biết ơn bà Hà không. Vì chính nhờ có bà, Quang mới lấy được Thanh. Rồi một mình bà lo lắng cho Thanh từng li từng tí lúc cô có thai đứa con đầu, kế đó là nuôi nấng, chăm sóc cháu từ khi còn đỏ hỏn. Cũng là do sự can thiệp của bà, mà hai vợ chồng chưa thể li hôn để đến lúc Thanh đột ngột ra đi, ba bố con Quang được hưởng tận mười lăm ngàn đô, số tiền lớn đến mức có đem cả đống đồ mà anh ta làm ăn buôn bán được ở Liên Xô ra so sánh cũng chẳng thấm tháp gì. Quang mua ngay được ngôi nhà rất khang trang, một phần là nhờ những đồng tiền của người đã khuất. Chứ không thì ông tiến sĩ khoa học này lấy đâu ra!

Nói đến việc làm ăn của Quang, Hân lại cảm thấy buồn cho người đã có lúc anh coi như bạn thân và chuyện gì cũng đem ra chia sẻ. Vốn rất lơ mơ về mọi thứ, nên lần đầu tiên nhìn thấy người ta bán vải áo bay, tức là loại vải dùng để may sơ mi chít gấu dành cho quân đội, Hân mừng quá, liền gọi điện ngay cho Quang biết. Anh này hỏi luôn địa chỉ cửa hàng, cách đi đến đó ra sao và nhờ Hân, nếu có thể được thì mua giúp anh ta mười mét hoặc nhiều hơn càng tốt.

Hân làm theo yêu cầu của bạn, biết rằng người Nga chẳng ai lại mua loại vải này nhiều đến thế làm gì. Ngay cả với những thứ khác, họ cũng chỉ mua đủ theo nhu cầu. Ngược lại hoàn toàn với người Việt Nam là đã mua, phải mua một lúc hàng mấy ki lô gam thuốc tây, dăm bảy cái đầu máy khâu, hàng chục chiếc phích sắt, nồi áp suất hoặc bàn là. Ca cao, sữa bột phải đánh hàng thùng. Lại còn đủ các loại máy móc, công cụ và cả những thứ oái oăm, không mấy ai biết đến như hạt bút bi, mũi khoan gọng kính… Chỉ khổ cho các bà thu ngân, phải chia nhỏ số lượng hàng, đánh máy làm nhiều hóa đơn để nếu bị kiểm tra, sẽ được coi là bán cho các khách hàng khác nhau chứ không phải là bán khối lượng hàng lớn như thế cho chỉ một hai người.

Quang đến. Vừa nhìn thấy chỗ vải mà Hân đã mua, anh ta vội lắc đầu ngay:

– Cậu mua thế này là hỏng rồi! Đem về Việt Nam chỉ có mà vứt đi. Phải mua loại vải màu xanh cốm cơ, xanh như màu nõn chuối ấy chứ đây là màu cỏ úa, không bán được đâu!

Hân giật mình nhìn lại. Ơ, màu này cũng đẹp mà! Nhưng cái đẹp trong mắt anh lại không trùng với cái đẹp của những người đi mua vải áo bay ở tận Việt Nam. Hân còn đang thừ người ra chưa biết thế nào thì Quang đã thản nhiên nói tiếp:

– Tớ tưởng cậu mua được đúng loại rồi, nên mới nhờ mua hộ. Nhưng bây giờ thì chịu, mà tớ cũng không có tiền. Thôi thì cậu cứ để đấy, xem có bán lại được cho anh gà mờ nào mới sang công tác không, hoặc đành phải đem về Việt Nam, chấp nhận bán rẻ đi một tí vậy. – Quang kết luận, với cái vẻ không còn gì để bàn cãi nữa.

Hân ngã ngửa người trước thái độ của Quang. Nhưng anh cũng cảm thấy mình thật khó mà bắt ông bạn này phải lấy số vải ông ta đã nhờ mua hộ. Và cũng ngay lúc đó Hân thoáng nghĩ, có khi nó lại cho là mình lừa nó. Tình ngay lí gian. Rất có thể nó cho rằng, mình biết là đã trót mua lầm, nên mới gọi điện cho nó để tống khứ một món hàng không đạt yêu cầu.

Hân không biết nói năng gì nữa, nhưng từ đó, anh nhìn Quang bằng con mắt khác. Tuy nhiên, trước khi về nước, Hân vẫn báo tin cho Quang biết để anh ta gửi cái gì đó về cho gia đình. Quang chỉ gửi cho gia đình vợ đúng một lá thư và gói quà nhỏ xíu. “Tớ sợ cậu nặng, hơn nữa còn phải dồn tiền để đóng hàng. Bởi vì nếu không có gì thay đổi thì chỉ cuối năm nay tớ đã phải bảo vệ và sau đó là về nước rồi”, Quang nói với Hân như thế. Đây cũng là lúc anh ta còn chưa tin chắc mình có thể từ luận án phó tiến sĩ phát triển lên thành tiến sĩ luôn và sẽ ở lại Mátxcơva thêm hai năm nữa.

 

*

*          *

 

Sau khi cưới vợ, thỉnh thoảng Hân lại đến thăm ông bà Trịnh – Hà lúc này đã trở thành ân nhân, người tác thành cho hạnh phúc của anh. Đúng là một mẫu cán bộ của ngày xưa: liêm khiết, giản dị và tuyệt đối trung thành với Đảng, tất nhiên là cũng hơi kĩ tính. Hai ông bà tỏ ra quý mến Hân, có lẽ chỉ đơn giản vì anh được coi là bạn của Quang. Cũng may là hai ông bà và cả Thanh đều không bao giờ hỏi dò về quá khứ của Quang, vả chăng nếu có hỏi thì Hân cũng không biết đâu mà trả lời vì thực ra họ mới quen biết nhau chưa được bao lâu. Nếu có sự đồng điệu nào đó, thì có lẽ là do hai người bằng tuổi nhau, cùng sống ở một thành phố và từng có thời gian phục vụ trong quân ngũ.

Quan hệ giữa Hân và Quang bỗng chốc biến thành một con số không to tướng sau khi anh biên thư nhắc bạn gửi ít túi lưới về cho mình vì Quang vẫn còn thiếu của anh ba mươi lăm rúp. Chưa được bao lâu thì một hôm bà Hà đến nhà, đầy vẻ băn khoăn ái ngại đưa cho anh lá thư trả lời của Quang. Thư không có phong bì, được ông phó tiến sĩ gửi chung với thư cho mẹ vợ. Hân đọc mà không thể nào tin nổi vào mắt mình vì những câu chữ được bôi ra trên trang giấy:    

Ông Hân,

Tôi không nợ nần gì ông cả. Nhưng vì mối quan hệ giữa chúng ta trước đây, tôi vẫn gửi về cho ông ba chục chiếc túi lưới để ông bán đi mà nuôi vợ nuôi con như ông đã yêu cầu, cộng với cả số tiền cước là đúng ba mươi lăm rúp. Yêu cầu ông bỏ ngay cái tính ki keo và từ nay tuyệt đối không được đến nhà tôi và nói xấu tôi với mọi người. Nếu không, ông sẽ phải gánh chịu hoàn toàn hậu quả.

                                                                                         Phạm Hồng Quang

Thằng… đểu thật! Hân chỉ còn thiếu cái nước bật ra một câu chửi tục. Nó lại mỉa mai, rỉa rói mình là để ông bán đi mà nuôi vợ nuôi con… Và cũng lẩn thẩn một cách hơi méo mó nghề nghiệp, anh nhận thấy chỉ có mấy dòng thôi mà ông phó tiến sĩ này đã lủng cà lủng củng, dùng chữ yêu cầu đến hai lần. Không phải điệp từ để nhấn mạnh một ý nào đó. Nhưng tại sao lại thế? Rõ ràng là Quang nợ anh ba mươi lăm rúp trong một lần đi mua hàng. Cậu ta thiếu tiền nên hỏi vay. Chẳng lẽ anh lại có lỗi trong việc dám đòi món nợ ấy hay sao? Hân chủ động nói Quang gửi túi lưới về, vì mặt hàng ấy rất dễ mua, lại không lo bị kiểm tra, gây khó gì cho ai cả. Nó lại còn cấm mình đến nhà và nói xấu… Sao mà lại có con người hèn hạ và tiểu nhân đến thế! Cũng chẳng biết từ đâu nảy nòi ra cái suy nghĩ bệnh hoạn này! Thế mà mình lại đang cảm thấy như người có lỗi vì đã mấy tháng nay không đến thăm ông Trịnh, bà Hà và vợ con của nó!

Tất nhiên, Hân thừa hiểu tại sao Quang lại gửi thư cho anh chung phong bì với người khác. Nó không hạ tiện đến nỗi phải tiết kiệm cái phong bì! Chắc hẳn Quang muốn ông Trịnh, bà Hà và nhất là Thanh, vợ nó đọc luôn cả lá thư này để biết được anh là kẻ xấu xa như thế nào còn nó quân tử, hào hiệp ra sao. Đúng là một mũi tên trúng hai đích nhé! Hân lại nhớ đến cái đêm Quang sang bên anh mượn bộ com lê và đôi giày về Việt Nam cưới vợ. Còn bây giờ…

Ba mươi lăm rúp! Gần bằng một phần ba số học bổng của nghiên cứu sinh lúc này là một trăm hai mươi. Bằng một cái áo phông Thái bán ở Mátxcơva. Kém đôi giày Tiệp, bốn mươi lăm rúp. Hơn cả tình cảm bạn bè! Nhưng nếu bình tĩnh suy nghĩ một chút thì hẳn Quang sẽ biết, Hân không phải là một kẻ lưu manh lừa đảo và cũng không xin nó. Mà nếu có xin, thì cũng xin một cách đàng hoàng, như một người bạn chẳng may gặp lúc khó khăn. Việc gì phải mất công bịa ra chuyện như thế hòng ăn không của nó ba mươi lăm rúp. Giả dụ anh có nhầm lẫn đến nỗi tự nhiên lại đi đòi món tiền mà Quang không hề nợ, thì lẽ ra nó cũng chỉ cần nói, rằng ông thử nhớ lại đi, tôi có nợ ông đâu! Mọi việc là như thế này… Và thế là xong. Làm gì phải nổi điên lên, ngay lập tức đã nghĩ xấu về người khác, lại còn làm ra vẻ ta đây tử tế.

“Vì mối quan hệ giữa chúng ra trước đây”, chứ không phải vì cái gì khác. Nó không muốn gọi mình là bạn. Thật rõ ràng! Ngay cả cái từ trước đây cũng như một thông điệp ngầm, rằng đó đã là chuyện cũ. Được thôi! Nhưng tại sao lại còn “ki keo” gì nữa? Không thể nào hiểu nổi! Hân cảm thấy thật tiếc cho mình là đã cẩn thận đến thế trong từng lời ăn tiếng nói mỗi khi nhắc đến Quang trước mặt bố mẹ vợ của anh ta. Điều này thì ông Trịnh, bà Hà và cả Thanh cũng đều biết rõ. Vậy thì lời buộc tội của Quang đối với Hân chẳng có ý nghĩa gì, nhưng dù sao anh vẫn cảm thấy mình bị xúc phạm và tổn thương ghê gớm.

Hai năm rồi cũng qua đi. Quang đã về nước với tấm bằng tiến sĩ, sau này được thêm hai từ “khoa học”. Một buổi tối, Hân bế đứa con trai mới bảy tháng tuổi đi chơi thì bất ngờ nhìn thấy Quang đang đi đến. Đèn sáng và vỉa hè trống trải, không thể tránh đi đâu được. Anh đành phải quay mặt làm ngơ, nhưng Quang lại tỏ ra rất tự nhiên:

– Chào bạn!

Ai bạn bè gì với mày, đồ đểu! Một luồng điện vừa xoẹt ngang qua óc Hân. Và câu trả lời bỗng bật ra từ vô thức, cứ như thể nó đã được lập trình sẵn sàng từ rất lâu rồi, lại còn khá điệu đà:

– Xin lỗi, tôi không có vinh dự được biết anh!

Không hiểu Quang cảm thấy như thế nào trước phản ứng của Hân, nhưng nói xong câu ấy, anh cảm thấy mình như vừa trút được cả nỗi căm uất và khinh bỉ dồn nén đã lâu ngày. Ngang với việc binh nhất Nguyễn Đình Hân hai mươi mốt tuổi chửi được một câu vào mặt chính trị viên đại đội ở Trường Sơn hơn mười lăm năm về trước.

Hân chỉ vỡ ra mọi chuyện qua lời kể của bà Hà, sau khi Thanh mất. Thì ra, cũng giống như các bà mẹ khác quan tâm đến hạnh phúc của con, bằng cách nào đó, bà biết được một số chuyện về Quang từ trước đó. Tiếc rằng những thông tin ấy đến với bà khi ván đã đóng thuyền, gạo đã thành cơm nên chẳng làm gì được nữa. Quá khứ thì thôi, không nhắc đến làm gì. Nhưng tệ nhất là sau khi lấy vợ, Quang lại lòng thòng với Nga, một cô phiên dịch cho công nhân xuất khẩu lao động. Ông tiến sĩ vướng vào chuyện tiền nong hàng họ gì đó, để cô ta phải đến tận nhà đòi, rồi lại còn dọa sẽ làm to chuyện. Thật cám cảnh cho bà mẹ vừa mất con gái lại mất luôn cả con rể, và mỗi khi nhắc đến một trong hai người lại nước mắt lưng tròng.

Không biết làm thế nào để an ủi hay xoa dịu được nỗi đau không dễ nguôi ngoai ấy của bà Hà, Hân cũng chẳng nói gì được nữa. Vì nói gì, đối với anh cũng là không thể. Người chết thì đã chết rồi. Người sống, xem ra đã vào guồng và đang thăng tiến rất nhanh…

 

Chiếc máy bay tăng tốc, lấy đà rồi bốc mình lên khỏi đường băng. Nỗi sợ cố hữu làm cho trái tim Hân thót lại. Anh hơi há miệng ra để cho tai đỡ bị ù đến lúc máy bay đạt độ cao cần thiết. Ừ, nếu bây giờ nó bị rơi thì sao? Có lẽ chỉ nhoáng một cái thôi. Không kịp biết sợ hay đau đớn gì nữa, hệt như điều thường xảy ra với những người lính trong trận chiến. Không ai cảm nhận được mình vừa chết. Nhưng nếu tai nạn xảy ra thì trong gia đình Hân cũng chẳng có ai tranh chấp gì đâu. Chắc chắn là như thế.

Những đám mây trắng xốp lững lờ trôi. Từ trên cao nhìn xuống không còn thấy nhà cửa, đường phố Sài Gòn đâu nữa mà thay vào đó là những dòng sông ngoằn ngoèo uốn lượn, sáng lóa lên trong nắng. Máy bay đã thu càng và chuyển sang chế độ bay bằng. Mặt đất tụt hẫng xuống xa xăm. Mấy cô tiếp viên Hàng không bắt đầu đi phát khăn giấy cho hành khách. Chỉ mấy giờ nữa thôi, Hân sẽ lại có mặt ở nhà, bên cạnh Hồng của anh, ngưởi luôn luôn vất vả vì công việc và hai đứa con đang tuổi ăn tuổi học. Người vợ của một anh chàng vô tích sự, cả đời chẳng làm được gì nên hồn lại còn ương bướng và gàn dở, không chịu vào Đảng mà cũng chẳng bao giờ mơ một tí chức quyền. Thì cũng đúng thôi; không phải đảng viên, làm sao mà có được chức quyền gì chứ!

Qua mười lăm năm chung sống, Hân lấy làm tiếc là anh chẳng làm được gì nhiều cho chị. Rất hiếm khi đi đây đi đó với nhau và ngay đến một bài thơ tặng vợ cũng không. Nhưng dù sao cũng đã cùng nhau chia ngọt sẻ bùi trong những năm tháng khó khăn, khi mà tiền chợ cũng phải tính từng đồng; đắn đo khi phải đi đám ma hay đám cưới và mỗi lần Tết đến lại phải chạy đôn chạy đáo. Một cái bình đun nước tắm hay chiếc ti vi cũng là mơ ước xa vời. Thế mà vẫn sống được, vẫn làm việc và nuôi hai đứa con lớn dần lên. Lại luôn luôn tự nhủ, mình vẫn còn hơn nhiều người khác… Biết làm sao, khi mà tình yêu của Hân không dễ biểu lộ bằng lời, vì anh là người rất vụng về trong việc bày tỏ tình cảm cũng như suy nghĩ của mình với những người thân thiết.

Hân ngả người, tựa lưng vào ghế và lim dim mắt. Thế là xong! Anh đã thực hiện được ý định của mình, đã gặp được Phương Linh sau gần hai mươi năm cách biệt. Lại nhớ có lần nói chuyện với một vị giáo sư vào cái thời sinh viên đã từng yêu một cô gái người Nga. Họ đã rơi nước mắt khi phải chia lìa, nhưng sau này dù có sang Mátxcơva đến mấy lần, biết địa chỉ của cô nhưng không bao giờ ông tìm gặp lại người yêu cũ. “Mình muốn cô ấy mãi mãi trẻ trung xinh đẹp trong tâm trí của mình”, ông nói. Lúc ấy Hân đã thầm trách vị giáo sư sao mà hèn đến thế. Nhưng bây giờ anh lại thấy ông ta không phải là không có lí vì khi đã già đi, người ta còn không muốn chấp nhận thực tế của chính mình, nói gì đến những bạn bè một thuở!

Chợt nhiên, Hân thấy hiện ra trước mắt anh gương mặt trẻ trung, vui vẻ của các bạn cùng lớp cũ, cả gái lẫn trai, những người đã hoặc sắp trở thành ông già bà cả hết rồi. Những Xêriôgia, Liđa, Massa, Bôrix, Igor… thời Liên bang Xô viết. Và các thầy cô, như cụ Gabrilôvíts, ông Lunghin, bà Golupkina, Phôkina, Zaxlanôva… Nhiều người trong số đó từng là đảng viên Đảng cộng sản Liên Xô. Qua bao nhiêu biến động chính trị và thử thách khắc nghiệt của thời gian, chẳng biết họ có còn không và nếu còn thì sống thế nào? Chắc là cơ cực lắm, vì cả đời các thầy cô chỉ biết sống bằng đồng lương nhà nước. Về hưu rồi, tiền nong ít đi; mọi ưu đãi không còn, đồng rúp lại mất giá từng ngày mà họ không biết làm gì để có thêm thu nhập… Hân còn nhớ, trong suốt những năm anh học ở Mátxcơva, ngoài thị trường chợ đen một đô la Mĩ đổi được ba rúp năm mươi. Nhưng sau khi Liên Xô tan rã, đã có lúc một đô la ăn hàng ngàn rúp. Ôi, nước Nga! Cái nước Nga vô cùng rộng lớn và những con người bao dung, nhân hậu làm sao… Thế mà tất cả đều đã bị biến thành nạn nhân của những kẻ cầm quyền với những trò chơi chính trị vô cùng bẩn thỉu. Mãi mãi, Hân không bao giờ quên được.

Ý nghĩ của Hân, cuối cùng lại quay về với Phương Linh. Anh không nhớ, có ai đó từng nói rằng không biết cái gì sẽ xảy ra nếu cô ấy cao thêm khoảng mươi mười lăm xăng ti mét nữa. Thì đời sống tình cảm của cô càng phong phú và đa dạng chứ sao! Hân vẫn chưa quên, vào cái thời xa lắc xa lơ ấy, rất nhiều người có cảm tình với Phương Linh, thậm chí ngay cả những ông lớn tuổi. Từng có một nhà văn nổi tiếng, bạn của cha cô, khi gặp Phương Linh ở Mátxcơva đã rủ cô đến khách sạn ăn uống, chuyện trò rồi ôm lấy cô mà than thở: “Chú cô đơn quá, cháu à!”. Phương Linh phải khó khăn lắm mới thoát khỏi được con dê già ấy.

Ồ, nhưng mà bao nhiêu lần gặp gỡ Phương Linh trong những năm tháng vừa qua, liệu Quang có nói gì với cô ấy về mình không? Hân hơi giật mình nghĩ đến điều này. Thế nào mà chẳng nói! Và chắc là nói theo cách của nó, nghĩa là gán thêm cho mình biết bao nhiêu điều tệ hại. Không khéo nó còn cho rằng tại mình mà vợ chồng nó lục đục với nhau cũng nên. Tính cách ấy, con người ấy… Uổng công mình giữ gìn ý tứ là thế mỗi lần đến chỗ bà Hà. Hân chợt hiểu ra thái độ của Phương Linh đối với anh trong cuộc gặp gỡ vừa rồi. Mọi cái bỗng trở nên sáng tỏ. Anh thở dài và cảm thấy thật buồn. Cũng may mà mình không có gì thất thố. Không một lời động chạm đến ông giáo sư kia.

Mình có yêu Phương Linh không? Đã có lần, Hân tự hỏi mình như thế và câu trả lời là… có. Nhưng thật ra cũng không hẳn thế. Nói cho đúng hơn, đấy chỉ là một thứ phải lòng, cảm mến hay mê đắm nhất thời. Tuổi trẻ, ai mà chẳng thế! Vljubljon, chứ không phải là ljubôp. Bởi vì anh tự biết mình và dừng lại. Người như Phương Linh phải dành cho những Cường, những Quân, những Quang… nào đó, chứ không phải là Hân. Cũng như chẳng bao giờ anh hợp với một danh vị hay chức tước nào, dù nhỏ. Người ta có cánh thì bay ở trên không. Mình chỉ có chân thì đi trên mặt đất. Mỗi người sinh ra ở trên đời lại có một số phận khác nhau, giãy giụa lắm chỉ càng thêm sầy vảy. Hân sống theo triết lí ấy không một chút băn khoăn và luôn luôn bằng lòng với chính mình. Cái gì đến, sẽ đến. Nhưng giờ đây, đúng vào lúc ngồi trên chiếc máy bay này, Hân cũng nhận ra rằng có lẽ từ nay, sẽ chẳng bao giờ anh còn gặp Phương Linh nữa. Một lần cho mãi mãi, như người Nga thường nói. Những cái gì đã qua thì cứ để cho nó trôi qua. Chẳng phải từ bao lâu nay, anh vẫn thầm cầu mong cho Phương Linh được bình yên, hạnh phúc hay sao?

 

 

 

                                                                            Viết lần thứ nhất, tháng 5.2008

                                                                    Sửa lại lần cuối và bố sung, tháng 9.2017

 

 

 

 

 

                                                          L Ờ I  N Ó I  T H Ê M

 

Tôi manh nha ý tưởng viết Cách biệt từ năm 1998, sau một chuyến đi công tác tại Sài Gòn. Nhưng vì không có gì thôi thúc và bản tính lại rất lười nên mãi vẫn chưa bắt tay vào việc.  Đến năm 2007, sau nhiều lần trì hoãn và tự hứa hẹn với mình, tôi mới cầm bút viết những dòng đầu tiên. Lúc đó, truyện có tên là Hai đầu cách biệt, đánh máy vi tính được gần một trăm trang A 4. Tôi gọi đấy là truyện vừa.

Nhưng tại sao lại Hai đầu cách biệt?  Tôi nghĩ, vì hai nhân vật chính là Hân và Phương Linh ở rất xa nhau, hoàn cảnh sống và tính cách của họ cũng khác nên đặt tên truyện như thế là phù hợp. Tuy nhiên, sau khi được một số bạn bè, người thân góp ý, tôi quyết định kéo câu chuyện dài ra và mở rộng thêm. Kết quả, mất gần tám năm nữa, Cách biệt mới được hoàn thiện với nội dung phong phú hơn, tính cách nhân vật rõ hơn và cũng có thêm nhiều chi tiết. Dung lượng câu chuyện tăng lên gấp đôi, còn tên truyện đã được bỏ bớt đi hai chữ.

Không thể gọi đây là tiểu thuyết, vì thể loại này có những đặc trưng riêng của nó. Cũng không phải truyện kí hay tự truyện bởi lẽ đây không phải là câu chuyện về những người thật việc thật, với những tên tuổi, địa chỉ rõ ràng. Câu chuyện cũng không được kể lại ở ngôi thứ nhất cho dù tác giả dựa theo nguyên mẫu ngoài đời. Vì vậy, nếu bạn đọc thấy trong truyện này có nhân vật nào gợi nhớ đến ai thì xin hãy hiểu cho, đó chỉ là do sự nệ thực của người viết mà thôi. Vả chăng,   ai dám bảo Natassa của L. Tolstoi, bà Bovari của Flobert hay lão Hạc, giáo Thứ, Chí Phèo… của Nam Cao không có nguồn gốc từ những con người thật?

Tôi coi đây là một truyện dài (với hơn 152 ngàn từ) và qua Cách biệt này, chỉ muốn gợi lại một vài chuyện cũ để bạn đọc, nhất là những người lớn tuổi cùng nhớ về một thời đã qua, với những gì đã từng nếm trải và chứng kiến. Còn với các bạn trẻ, thì hi vọng giúp họ hình dung được phần nào chuyện ngày xưa với những vui buồn của nó và qua đó hiểu thêm cuộc sống hôm nay.

Xin chân thành cảm ơn những ai đã đọc Cách biệt và lời nói thêm này.   

 

                                                                                             Hà Nội, ngày 13 tháng Chín năm 2017

Văn Nguyên Hậu

 

[1] Cách gọi thân mật những người có tên là Ivan.

[2] Làng, xóm.

[3] Lonnon (1913 – 1985), nguyên Thủ tướng vương quốc Campuchia, người lật đổ Quốc trưởng N.Xihanúc ngày 18.3.1970 để tiếm quyền, lập nên chính quyền thân Mĩ, chống cộng sản.

[4] Tiếng Nga, chỉ loại áo như blouse.

[5] Nhân vật trong truyện cổ dân gian Nga.

[6] Hai nhân vật trong truyện thơ cùng tên của A.Puskin.

[7] Nhà do phù thủy hóa phép tạo nên để bắt người (theo truyện dân gian).

 

 

[8] Rừng thưa, chủ yếu là cây dầu.

[9]Anh yêu em” hoặc “Em yêu anh” tùy người nói là nam hay nữ (tiếng Pháp).

[10] Thủ đô hai nước cộng hòa thuộc Liên Xô trước đây là Lítva và Lát vja.

[11] Thời gian này, học bổng của sinh viên nước ngoài tại Liên Xô mới được tăng thêm, lên 80 rúp.

[12] Các công dân Liên Xô trước đây không dùng chứng minh nhân dân mà là hộ chiếu.

 

 

 

[13] Trong chiến tranh chống Mĩ, số lượng các chuyên gia quân sự Liên Xô lần lượt có mặt ở Việt Nam là vào khoảng 15.000 người.

[14] Huỳnh Văn Nghệ (1914-1977). Sĩ quan cao cấp Quân đội nhân dân Việt Nam, được tôn vinh là thi tướng; Giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật (1996), Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân (2010).

[15] Kiểu đặt miếng vá vào phía trong, chủ yếu ở đầu gối và hai bên mông, khi quần còn chưa rách hẳn.

[16] Áo cũ, cổ áo bị sờn rách hay bạc màu, người ta lật phía dưới của nó lên cho có vẻ mới hơn. 

[17] Xe máy đã qua sử dụng, được bán với giá rẻ ở Nhật.