Văn xuôi · 13/12/2021

CHUYỆN BUỒN

(Bìa truyện làm năm 1970)

(Bìa truyện làm năm 1970)

           Xóm nhỏ lèo tèo chừng hơn chục nếp nhà tranh lụp sụp, xiêu vẹo. Những bức tường đất đổ nghiêng, sụt lở, trơ cả dóc[1]. Những mái lá sạm đen, mục nát. Những ô cửa sổ bé nhỏ, tối tăm và những cánh cửa ra vào đã tróc hết sơn, mọt ruỗng.

          Cái xóm nhỏ nghèo nàn ấy ở ngay trong thành phố. Nó nép mình bên một cái ao khá rộng mà bờ ao được tạo nên bởi những đống rác cao lù lù gồm đủ các loại giẻ rách, ống bơ gỉ, xác súc vật chết cùng trăm nghìn thứ táp nham bẩn thỉu khác mà bất cứ ai cũng có thể tiện tay quẳng ra bất cứ lúc nào, không cần nhờ đến xe chở rác của thành phố.

          Trên những núi rác ấy, từng đàn ruồi nhặng sống một cách hoàn toàn no đủ và phè phỡn. Chúng đậu đen đặc thành những đám nhỏ to, loang lổ, vo vo, vù vù, ầm ĩ. Và mỗi khi có động, chúng lại cất cánh bay ào ào như những đàn ong lớn.

          Nhưng ruồi nhặng không phải là người chủ duy nhất của những đống mồi béo bở này. Khi bóng đêm vừa xuống thì từng đàn chuột cống, chuột chù… ào ra, sục sạo khắp mọi nơi mọi chỗ kiếm ăn, trong khúc nhạc o o bất tuyệt của đội quân muỗi đang ồ ạt tiến công vào bất cứ nơi nào có ánh sáng tỏa ra từ những ngọn đèn.

          Không hiểu cái xóm này mọc lên từ bao giờ. Chỉ biết rằng những ngôi nhà ở đây hiện nay đều nằm ở giữa một cái đầm rất lớn hồi mấy chục năm về trước. Và những ngôi nhà, cũng như những con người, cứ sinh sôi nảy nở mãi ra, lấn dần, lấn dần cái đầm bằng những bãi rác. Kì diệu thay là sự biến đổi của thời gian cùng với sự tác động của con người. Cái đầm đã biến thành mảnh ao tù nước đọng xanh ngăn ngắt và lấm tấm những cánh bèo, vươn dài những bè rau muống. 

          Những đống rác ấy cũng như những túp nhà dột nát xiêu vẹo kia dường như muốn nói rằng: đây là nơi tập trung của những con người có địa vị thấp hèn nhất trong xã hội, những người khốn khổ. Song cũng nhờ những đống rác ấy cùng các loại ruồi, muỗi, gián, chuột… mà có lẽ phải tới mấy chục phần trăm trẻ con ở đây được biết thế nào là bệnh xá hay bệnh viện. Và biết đâu nhờ thế mà những người làm việc trong ngành y tế đều có thể yên tâm một cách vững vàng, chẳng bao giờ phải lo thất nghiệp.  

          Những người ở trong cái xóm nhỏ ấy sống với nhau hết sức thân ái và hòa thuận. Tuy vậy đôi khi họ cũng to tiếng với nhau và họa hoằn lắm – có khi phải đến một, hai tháng mới xảy ra một vụ xô xát nho nhỏ của người lớn hoặc trẻ con có bươu đầu mẻ trán. Nhưng sau đó họ vẫn trở lại vui vẻ, bình thường bởi những công việc làm ăn bận rộn, vả lại họ là những người quân tử, ai hơi đâu chấp nhặt những chuyện vặt vãnh ấy làm gì. 

          Ở gần cuối xóm, cách cái ao một quãng khá xa có một căn nhà năm gian không lấy gì làm đẹp đẽ cao ráo hơn những nhà khác. Có điều, nom nó có vẻ sạch mắt hơn bởi bốn bức tường đất không bị lở lói và trên mái được phủ một màu vàng nhạt tuy mỏng manh của lớp rạ mới.

          Trong căn nhà ấy có hai gia đình gồm chín người ở. Ba gian bên kia của một gia đình gồm tám người nhưng nay chỉ còn bảy vì một cậu con trai đi bộ đội. Còn hai gian bên này là của một gia đình gồm có hai người – hai ông bà già đã về hưu nhưng bây giờ chỉ có một người ở – một cô gái mới mười chín tuổi.

          Không ai biết chính xác vì sao có sự chung đụng ấy. Hai ông chủ gia đình cùng làm việc với nhau ở một xí nghiệp vận tải đường sông nên họ muốn được gần gụi với nhau chăng? Chỉ biết rằng họ khá thân nhau – hai ông thợ máy tàu thủy ấy. Và có lẽ vì một ông không có con nên họ chẳng hề xích mích bao giờ. Bởi vì – như mọi người thường nghĩ – trẻ con là nguồn gốc của mọi sự rắc rối và va chạm.                          

          … Câu chuyện ấy xảy ra từ năm một nghìn chín trăm sáu mươi bảy. Như vậy có nghĩa là hơn ba năm đã trôi qua với biết bao nhiêu thay đổi, làm mất đi nhiều điều to lớn và nhỏ nhặt. Tất cả mọi cái đều không còn như cũ, vì cũng như nhiều nơi khác, cái xóm nhỏ này đã trải qua những biến động dữ dội của chiến tranh. Người ta già đi nhanh hơn. Lớp trẻ con dường như cũng lớn nhanh hơn để kịp bổ sung vào cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Có những đứa đi làm, có đứa còn đi học, và nhiều đứa phải cầm khẩu súng ra đi… Thay thế dần cho họ – những thanh niên gái trai mới bước vào đời ấy – là những đứa trẻ con, một lớp đàn em vừa mới lớn.   

          Thời gian như một dòng nước, bào mòn tất cả và dìm sâu vào sự lãng quên mọi việc xảy ra. Nhưng đôi khi vẫn có người nhớ lại chuyện cũ của một ngày xưa nào đó. Và từ những điều nhỏ bé bình thường nhất được suy tưởng lại, người ta cũng có thể đau xót, ngậm ngùi… 

 

*** 

 

          Phương mở khóa rồi khe khẽ đẩy cửa bước vào nhà. Cái bản lề khô dầu rít lên ken két làm cô cau mày khó chịu. Gian buồng nhỏ hiện ra lờ mờ bởi ánh sáng của ngọn đèn dầu từ bên kia liếp hắt sang, biến những đồ vật trong nhà thành những hình khối đen đen, mờ nhạt. 

          Phương đến bên bàn xem đồng hồ và khẽ giật mình. Chết thật, hơn mười hai giờ rồi! Tuy biết là đêm đã khuya nhưng cô vẫn không nghĩ là cô về muộn đến thế này cho đến khi nhìn thấy chiếc kim dài sắp sửa chạm số ba. Phương không hiểu tại sao thời gian lại trôi đi nhanh thế. 

          Bên kia liếp có tiếng cọt kẹt của cái giường nằm rồi tiếng bà Hy vọng sang:

          – Cô Phương về rồi đấy à? Mấy giờ rồi hở cô?

          – Dạ, hơn mười rưỡi rồi bác ạ. Bác chưa ngủ à?

          – Nực quá, nào đã ngủ nghê gì được đâu. À, tối nay có anh nào đến hỏi thăm cô đấy.

          Phương hỏi lại, giọng nhỏ như một tiếng thì thầm:

          – Ai thế hở bác?

          – Tôi không biết. Anh ấy bảo là anh ấy làm ở chỗ cô.

          Ai nhi? Phương hơi băn khoăn một lát. Thằng cha nào nói dối vụng thế mà bác ấy cũng tin. “Làm ở chỗ cô” mà không biết mình làm ca nào nữa, lại còn vác mặt đến đây. Phương tiếp:

          – Thế… đến lúc mấy giờ bác có nhớ không ạ? 

          – Độ tám giờ. Thấy tôi nói là cô đi làm ca chiều, anh ấy về ngay, tôi không hỏi tên.

          Phương lẳng lặng để chiếc túi xách nhỏ lên bàn. Từ bên kia vọng sang tiếng bác Hy trở mình và rên khe khẽ. Lát sau, giọng bác lại cất lên với vẻ trầm buồn:

          – Thôi, tắt đền đi ngủ, Huấn. Khuya lắm rồi còn gì.

           – Vâng ạ, con sắp xong rồi đây. Mẹ cứ ngủ đi.

          Thế ra anh ấy vẫn còn thức. Phương ghé mắt nhìn sang. Dưới ánh đèn dầu tù mù, Huấn đang ngồi viết cái gì không biết. Trời nóng, ngồi trong nhà toát cả mồ hôi mà anh vẫn bỏ tay áo dài xuống, gài cúc cổ tay cẩn thận, chắc để cho muỗi đỡ đốt. Đôi má hóp vào dưới hai gò má nhô cao và mái tóc rủ xuống cái trán hơi dô làm cho anh như biến thành một ông già khắc khổ. Đằng sau Huấn là những mảng đen kì dị ở những nơi ánh đèn không rọi tới. Những mảng bóng tối ấy như bao vây, nuốt chửng lấy anh. 

          Không biết có người đang nhìn trộm, Huấn vẫn chăm chú viết. Bỗng anh dừng lại, cau mày như suy nghĩ điều gì rồi đưa tay đập muỗi liền mấy cái. Cả không gian im lặng và những ngọn gió họa hoằn lắm mới lọt được vào, khiến chiếc màn mắc ở cái giường phía sau anh khẽ đung đưa. 

          Phương rón rén đến bên giường, bỏ màn xuống rồi đi nằm. Ngoài trời, trăng cuối tháng mọc lên từ lúc nào đã tỏa ánh sáng vàng yếu ớt. Ánh trăng xuyên qua cửa sổ, đọng lại thành vệt dài trên mặt đất và một phần bức tường giúp Phương có thể nhìn thấy chiếc khung kính cỡ lớn lồng bức ảnh cô mới chụp được phóng to. Mặc dù không nhìn thấy được rõ ràng, Phương vẫn biết cô gái trong ảnh mặc áo sơ mi ngắn tay đang mỉm cười duyên dáng với mình. Tay phải cô cầm chiếc kính râm đưa lên ngang ngực, nửa như đang định đeo vào, nửa như vừa mới tháo ra, mấy ngọn tóc xòa xuống trán. Tay trái cô giữ sợi dây đeo chiếc máy ảnh quàng ở trên vai, thực ra chỉ là chiếc vỏ máy ảnh của ông phó nháy.        

          Bên kia liếp có tiếng ngáp dài khe khẽ và tiếng thổi đèn tắt phụt. Huấn cũng đi ngủ rồi. Không, anh còn mở cửa ra sân làm gì đó. Có lẽ anh đi đánh răng. Anh súc miệng òng ọc, rồi nhổ xuống sân đất. Một lát sau, Huấn mới trở vào, tiếng bước chân trên đôi dép cao su ướt nghe lép nhép.

          Bây giờ thì có lẽ Huấn đã ngủ say rồi. Còn Phương, cô vẫn đang thao thức, trở mình đến mấy lần mà không tài nào ngủ được. Cô cảm thấy mình rõ là dại dột vì đã uống cà phê, thứ hầu như cô chưa động đến bao giờ. Chỉ vì mất điện, không làm được nữa lẽ ra về sớm nhưng người ta cứ mời và Phương nể con bạn quá nên đành phải cùng đi với nó, mặc dù cô biết như thế chẳng hay ho gì. Những người bắt gặp cô bước ra từ hiệu cà phê vào lúc đêm hôm khuya khoắt cùng mấy chàng trai và một cô gái khác có thể dễ hiểu lầm về cô lắm. Mà nếu chẳng may chính Huấn gặp cô thì anh sẽ nghĩ thế nào… Cũng may, chẳng bao giờ Huấn đi uống cà phê. Phương biết rõ như thế.

          Vào những khi khó ngủ, con người ta thường suy nghĩ vẩn vơ. Có lẽ đấy cũng là lúc ai đó có thời gian suy nghĩ về một công việc sẽ làm, một quyết định sắp được đưa ra hoặc nhớ lại những kỉ niệm gần xa, tốt hoặc xấu của mình… Bởi vì vào lúc đó, xung quanh đã lắng đi tiếng động của ban ngày, con người ta dễ thoát ra khỏi thực tại và vì thế, ý nghĩ cũng trở nên sáng rõ hơn chăng?

          Nhìn mặt trăng ở ngoài trời đang lơ lửng buông xuống một màu vàng dịu, nghe tiếng thạch sùng tặc lưỡi trên bức vách đầu giường, tiếng muỗi vo ve ngoài màn và cả tiếng chuột kêu chí chóe đuổi nhau ở ngoài sân, tiếng côn trùng rên rỉ… tự nhiên Phương lại nhớ những ngày còn thơ dại của cô. Như một cuốn phim màu sinh động được chiếu lại, Phương nhìn thấy mình trong đó…

          Lên bốn tuổi, Phương đã phải vĩnh viễn xa rời mẹ, chỉ còn cha, một cán bộ thủy lợi huyện hiền lành và nhu nhược, suốt ngày đi vắng. Lên năm tuổi, Phương phải gọi một người một người đàn bà khác, tên là Lụa làm “mẹ mới”. Người đàn bà ấy đẹp, sắc sảo và nanh ác, khác hẳn với mẹ đẻ của Phương, một người biết yêu thương chồng con hết mực. Lên sáu tuổi, Phương đã là cái gai trước mắt bà dì ghẻ, phải chịu đựng những lời chửi rủa độc ác và đủ các loại đòn roi của bà này. Cứ như thế, Phương lớn dần lên trong một gia đình mà cô được hưởng hai tình cảm hoàn toàn trái ngược: sự thương yêu dè dặt của người cha và sự căm ghét không cần có lí do của người dì ghẻ. 

          Trong những bữa ăn, trong mỗi việc làm dù nhỏ nhặt nhất hằng ngày, Phương luôn luôn bắt gặp cái nhìn soi mói của bà dì ghẻ. Con bé sớm mồ côi mẹ ấy phải chịu biết bao nhiêu điều đau đớn và tủi nhục trong suốt thời thơ ấu của mình.  

          Như một con ở, nó còn phải nấu cơm, gánh lúa, rau bèo cám bã lợn gà và làm đủ các thứ việc không tên khác. Tuy vậy, có một việc nó không phải động đến bao giờ, là đi chợ. “Để cho nó đi mua vừa đắt, vừa ôi, lại còn ăn bớt ăn xén nữa”. Bà dì ghẻ đã giải thích cho bố Phương như vậy. Nhưng bà cố tình giấu chuyện bà muốn đi chợ một mình để tiện ăn quà. 

          Làm việc luôn chân luôn tay, rất ít khi được nghỉ ấy thế mà Phương vẫn bị hắt hủi và đánh đập. Vết sẹo ở trên lông mày của Phương là dấu tích của một trận đòn tàn nhẫn mà nó phải chịu. Vết sẹo tuy không lớn và cứ mờ dần đi theo thời gian nhưng cũng đủ để Phương nhớ mãi, nhất là những khi soi gương, bất chợt cô nhìn thấy nó. Một cái dằm của thanh tre rào cổng ngày xưa đã cắm sâu vào đấy. 

          Thật lạ lùng, như một cây non chưa bám chắc vào đất đã bị mưa nắng dập vùi, Phương vẫn lớn lên, tưởng như không bị ảnh hưởng gì từ những trận đòn roi và công việc nặng nề. Con bé giống mẹ ở nước da trắng mịn, đôi mắt long lanh và nhất là đôi môi cắn chỉ đỏ tươi với nụ cười lúm đồng tiền. Không ai biết được Phương đã bao nhiêu đêm nằm thổn thức, thầm gọi “Mẹ ơi!” trong tiếng nấc. “Ôi dào! Hồng nhan thì bạc phận chứ nào có báu gì!”. Bà dì ghẻ Phương thường tuôn ra những lời như thế mỗi khi có ai đến chơi tỏ ý khen con bé. 

          Bố Phương hầu như không bao giờ biết những nỗi khổ tâm ấy của con gái. Cô giấu kín tất cả mọi điều và chỉ thầm chịu đựng một mình. Cô biết ông bố dù rất thương cô nhưng cũng chẳng làm gì được. Ông vốn là người sợ vợ. Hơn nữa, bà Lụa chỉ đánh đập con riêng của chồng vào những lúc ông đi vắng. Vì thế bố Phương luôn luôn yên tâm về đứa con hiền lành ngoan ngoãn của mình. Ông không thể nào biết được, trong tâm hồn thơ ngây của con lúc nào cũng chứa chất những nỗi buồn u uất. Ông chỉ chợt hiểu ra tất cả, khi một lần bất ngờ thấy mặt mũi Phương sưng vù, toàn thân đầy những vết roi. Hậu quả của việc người vợ kế quá tay.

          … Không hiểu Phương còn phải chịu đựng đến bao giờ, nếu như cuộc chiến tranh phá hoại không ngày càng ác liệt. Ông bác ruột của Phương về hưu, chán cảnh sống thành phố nên trở lại quê ở thị trấn Kiến Thụy, vườn cây ao cá đàng hoàng. Ông nảy ra ý định cho Phương đến ở nhờ và tiện thể trông coi hộ gian nhà trong lúc chưa bán được với lí do cô vẫn làm việc trong thành phố chứ không phải đi sơ tán. Thế là Phương nghiễm nhiên được đến ở đây để trông nhà cho bác. Tất nhiên, điều này sẽ không xảy ra nếu như quãng đường từ xí Nhà máy toa xe của cô về Kiến Thụy không xa đến ba bốn mươi cây số mà cô lại không có xe đạp. Ở khu tập thể của xí nghiệp mãi thì bất tiện mà cũng chỉ kê được đúng một chiếc giường.

          Hôm Phương sắp sửa dọn đến xóm này, dì ghẻ của cô nói bằng một giọng chì chiết mà vẫn có vẻ nửa đùa nửa thật: 

          – Cô ở đấy thế nào thì ở, đằng ấy chật chội lại chung đụng đấy! Cẩn thận, đừng có tự do quá mà lại vác trống về đây. Tôi thì tôi từ ngay lập tức.

          Ông bố Phương không nói gì, vì tính ông xưa nay vẫn thế. Mọi việc trong nhà bao giờ cũng do vợ ông định đoạt.

          Phương ngáp dài và nhìn ra ngoài trời. Trăng đã lên cao hơn, sáng hơn. Nền trời lồng lộng sáng bởi ánh trăng vời vợi, loáng thoáng mấy ngôi sao như những giọt nhũ vàng. Từ phía xa đang ùn lên những vầng mây trắng. Gió thổi nhiều làm không khí mát mẻ dễ chịu hơn. Phương nhận thấy điều đó khi cô bắt đầu bước vào giấc ngủ một cách dịu dàng.

          Phương tỉnh dậy vào khoảng tám giờ sáng. Cô đang rửa mặt thì nghe có tiếng gọi:

          – Chị Phương ơi, chị có đi chợ không?

          Không cần quay lại cũng biết là ai rồi, Phương hỏi: 

          – Thành đấy à? Về bao giờ đấy? 

          – Em về hôm qua. – Thành trả lời rồi bước đến bên Phương, tiện tay để cái rổ lên mặt phi nước. – Em định gọi chị từ sớm cơ, nhưng thấy chị ngủ say quá nên lại thôi. À, tối qua tan ca xong rồi  chị còn đi chơi có phải không?

          – Ai bảo mày thế? Mà mày có gọi sớm tao cũng chẳng dậy đâu. Đi làm về mệt, phải ngủ bù cho lại sức chứ.

          – Mẹ em bảo con gái dậy trưa không tốt đâu!

          – Con gái dậy trưa là con gái lười.

          Thành mỉm cười tinh nghịch nhìn Phương:

          – Em biết hết rồi cơ. Chị đừng hòng mà giấu được em nhé. Em biết anh ấy rồi!

          – Bậy nào! Mày thì biết cái gì. Hết ca đã buồn ngủ bỏ đời đi được lại còn chơi với bời… Mày chỉ được cái bắt nọn là không ai bằng.

          Thành chăm chú nhìn vào mắt Phương một lát:

          – Ứ! Chị nói dối. Tối qua mãi mười giờ rồi em vẫn còn gánh nước. Gánh xong, em đã ngủ được một giấc rồi chị mới về mà lúc mẹ em hỏi, chị lại bảo mới mười rưỡi. Chị tưởng lúc ấy em vẫn ngủ đấy! Giấu đầu hở đuôi chưa nào?

          Phương đưa mắt lườm cô bé, hắt chậu nước đi rồi bảo:

          – Mày cứ liều liệu đấy. Rồi đến lượt mày!

          – Đừng hòng! Em chẳng “ấy” đâu! – Thành đỏ bừng mặt lên, vội cãi. 

          Phương vẫn thủng thẳng:

          – Ừ, chẳng… Đấy rồi mà xem.

          Cả hai bước vào trong nhà. Phương hơi ngượng vì những lời nói vô tư của Thành. Con bé này tinh thật. Có lẽ chẳng giấu được nó cái gì. Phương nghĩ vậy và liếc nhìn khuôn mặt tròn trĩnh, ửng hồng của Thành. Hai tay cầm rổ để ra sau lưng, nó đi như đếm từng bước một trong nhà. Mái tóc dài đen mướt khẽ đung đưa, vẻ mặt nó hơi đăm chiêu như đang suy nghĩ điều gì.

          – Mày có chuyện gì thế, Thành?

          Thành dừng lại, hơi lúng túng:

          – Không, có gì đâu. Chị xong chưa, đi đi thôi không lại muộn. – Cô bé lại ngập ngừng. – À chị Phương này, chị còn tiền không cho em mượn một đồng. Mấy hôm nữa anh Huấn lĩnh lương rồi em trả.

          Khổ thật, cái con bé… Phương nhìn Thành hơi đỏ mặt, chân di di dưới nền nhà. Cô mở ví lấy ra một tờ giấy bạc hai đồng: 

          – Em cầm lấy. Mà không phải trả chị nữa đâu.

          Thành ngước đôi mắt to hơi buồn lên nhìn Phương như thể ngỡ ngàng:

          – Chị…

          – Thôi, không phải hỏi nữa. Tao vừa mới được lĩnh tiền thêm giờ tháng này, được hơn mười đồng.

          Thành định nói gì đó nhưng lại ngừng bặt. Tay cô vân vê đồng bạc màu xanh còn mới. Hai chị em bước ra. Một ngọn gió nhẹ nhàng tạt qua, mát rượi.

          – Cụ đâu rồi? – Phương hỏi.

          – Thầy em chưa về.

          – Bác gái cơ mà.

          – À, em cứ tưởng… Mẹ em đang vá cái áo cho anh Huấn.

          Phương hơi cau mày:

          – Sao mày không vá cho anh ấy mà lại để cụ vá? Mắt kém phải đeo kính lại còn bao nhiêu là việc.

          – Hôm qua mãi tối mịt em mới ở bên Kiến An về, ăn xong lại bận, có biết đâu. Em vừa bảo để em vá, cụ không nghe, bảo em sang bên chị vay tiền rồi đi chợ đấy chứ… Thế mà chị lại mắng em.

          – Tao nói thế chứ ai mắng gì mày. Hơi một tí thì phụng phà phụng phịu. Bé lắm đấy!

          Im lặng một lúc rồi tự nhiên Phương hỏi:

          – Thành này, chị hỏi thật nhé, anh Huấn em… đã có người yêu chưa?

          Thành không giấu được vẻ ngạc nhiên, hỏi lại:

          – Chị hỏi làm gì cơ?

          – À… để biết thôi. – Phương lúng túng đáp.

          – Em… không biết. Có lẽ có rồi. Nhưng lại thôi rồi hay sao ấy. Mẹ em cứ bảo anh ấy đần với lại về sau chỉ có ế vợ. Anh ấy chẳng nói gì.

          Phương chép miệng: 

          – Hăm mốt hăm hai thì vợ với con cái gì. Chị hỏi thế tại vì lúc nào đi đâu về chị cũng thấy anh ấy ở nhà, có lẽ chẳng bao giờ anh ấy đi đâu cả.

          – Vâng. Anh ấy ít đi chơi lắm. Chẳng bù với anh Hải, cái ông tướng ấy thì phải biết. Hết giờ làm việc cấm có thấy ở nhà. Chỉ toàn đi chơi suốt thôi. Mẹ em thương anh Huấn lắm, thằng Hạnh là con út mà cụ ấy cũng chẳng thương bằng. Tại vì anh em làm được đồng nào là đem hết về đưa cho mẹ em. Còn anh Hải thì cứ phì phèo thuốc lá làm cho thằng Công nó bắt chước, mẹ em ghét lắm. 

          Phương mỉm cười:

          – Cụ cũng chẳng ghét gì tướng Hải ấy đâu. Không ai thương con bằng các bà mẹ, mà làm gì có bà mẹ nào lại không thương con. Có điều là cụ thương anh Huấn nhiều hơn thôi.

          Thành gật đầu đồng ý:

          – Đúng đấy chị ạ. Chẳng thế mà lúc anh Hải em đi bộ đội, mẹ em còn được mấy đồng dành dụm mãi cũng đem ra cho. Rồi lại khóc lóc… Nhất là lúc có đứa em em ốm thì phải biết.

          Phương không khỏi bật cười vì câu nói của Thành nhưng rồi bỗng nhiên cô lại thở dài đánh sượt:

          – Nhanh thật. Hồi chị dọn đến đây là tháng giêng, vừa mới ăn Tết xong được ít ngày. Được độ một tháng thì Hải nó đi bộ đội. Thế mà bây giờ đã sang tháng tám.  Chẳng bao lâu nữa là lại Tết… À Thành này, anh Huấn em viết cái gì mà hôm nào cũng cặm cặm cụi cụi đến khuya thế?

          – Có lẽ anh ấy ghi nhật kí hay làm thơ gì ấy chị ạ. Em cũng chẳng biết nữa. Vì anh ấy không thích người khác tò mò, để ý đến việc anh ấy làm. Nhưng không phải hôm nào anh em cũng viết đâu. Có khi hàng tuần lễ cũng chẳng đụng đến giấy với bút gì đâu chị ạ.

          – Ừ. Nhiều hôm chị đi làm ca chiều về, phải đến hơn mười rưỡi rồi mà vẫn thấy anh ấy ngồi đấy viết. Trông sợ sợ là… Mà tại sao nhiều hôm có điện, anh ấy không bật lên lại vẫn cứ viết đèn dầu thế?

          – Anh em sợ mẹ em chói mắt không ngủ được. Chị không biết chứ, viết sớm hơn bọn trẻ con nó làm ồn lắm. Với lại anh ấy cũng khó ngủ và quen thức khuya rồi. Em thì em chịu. Cứ đặt mình xuống là ngủ được ngay, súng bắn bên tai cũng không biết.

          – Chuyện! Con gái đang tuổi ăn tuổi lớn mà lại. Này em có thích tính hắn ấy không?

          Thành nhìn Phương, không hiểu.

          – Chị thấy anh ấy lúc nào cũng có vẻ buồn buồn. Lại ít nói nữa. Có nhiều khi chị muốn nói chuyện với anh ấy mà khó thật cơ.

          Thành nói, giọng trầm trầm:

          – Tính anh ấy thế nhưng mà tốt lắm chị ạ. Em không nói dối đâu. Có lần anh ấy cho thằng Đỉnh, à chị có biết thằng Đỉnh không, anh ấy cho nó mượn bộ quần áo vì nó kêu là không có quần áo mặc đi chơi. Thế mà về sau nó lại đem bán đi mất. Mẹ em bảo phải bắt đền, anh ấy bảo “Mất rồi thì thôi mẹ ạ. Nó mượn con có phải để bán đâu. Chẳng qua vì nó gặp phải lúc nhỡ nhàng”… Mẹ em tức lắm. 

          – Thằng ấy thì chị có biết. Chị ghét nó lắm. Nó có phải là bạn của anh Huấn không?

          – Không, nó chỉ là người ở cùng một xóm. 

          – Thế tại sao nó lại đem bán bộ quần áo ấy đi?

          – Nó bảo hôm nó ở đây định về quê thì chẳng may bị mất cắp hết sạch tiền. Không vay được ai cả. Nó bí quá, nên đành phải tính đến chuyện bán bộ quần áo mượn của anh Huấn đi để có tiền mua vé tàu về rồi xin tiền gia đình đem trả. Vì bố mẹ nó bây giờ ở đấy. Nhưng chẳng may bố mẹ nó lại cũng không có tiền. Em thì em không tin đâu, đúng là kiểu nói dối nói dá… Em chán cho anh em lắm, nhiều lúc cứ như là ruột để ngoài da ấy, bất cứ ai cũng tin được.

          Phương mỉm cười, khẽ lắc đầu:

          – Ừ. Tính anh ấy thế.

          Buổi trưa, đúng vào lúc Phương đang thiu thiu ngủ thì báo động. Cô giật mình vùng dậy trong lúc một chiếc máy bay Mĩ cổ dài ngoằng vọt qua đầu. Rồi đến những chiếc khác lần lượt lao qua, nghiêng cánh tròng trành. Từng loạt đạn cao xạ nổ rất đanh làm bùng lên những bụm khói trắng đen dày đặc trên nền trời xanh thẫm.

          Phương thở hổn hển chạy đến bên hầm trú ẩn. Từ mãi tít phía trong, Thành vẫy tay rối rít:

          – Chị Phương ơi! Vào đây với em! 

          Thằng Vinh đang đứng ở cửa hầm. Thấy Phương, nó nép vào một bên để cô lách vào trong. Rồi nó lại ngước mắt nhìn trời xem máy bay với vẻ ngang tàng rất trẻ con không giấu đi đâu được.

          Cái hầm rộng, có thể chứa đến cả chục người, được làm theo kiểu chữ A. Ông Hy và hai anh em Huấn, Hải đã phải mất đến bốn năm ngày đào đắp. Phương hỏi thì được biết đó là do sáng kiến của ông Hy. Ông bảo, đã làm thì làm một thể, cứ cho nó to ra một tí. Phòng khi hàng xóm láng giềng có ai chạy đến trú nhờ, chẳng lẽ lại đuổi người ta đi à!

          Lại một loạt bom nữa làm rung chuyển cả căn hầm. Bà Hy hét lên đến lạc cả giọng:

          – Vinh! Vào hầm ngay không lại chết bây giờ! 

          Bên ngoài, trời vẫn nắng. Ánh nắng đọng lại ngoài cửa hầm, rọi vào mặt thằng bé mười hai tuổi. Từ trong chỗ tối nhìn ra, Phương thấy mặt nó gần như trắng bệch. Sợ rồi đấy, nhưng cu cậu vẫn làm ra vẻ thản nhiên nói như không:

          – Thì con vẫn ở trong hầm đây thôi. Mẹ để yên con xem nó đánh ở chỗ nào.

          Tiếng máy bay đột ngột gầm lên ở ngay trên đầu mọi người như xé toang cả bầu không khí. Tiếng pháo cao xạ, tiếng súng máy… quất đùng đùng. Mảnh đạn rơi xuống nắp hầm lộp bộp. Lại một loạt bom nữa. Căn hầm vốn rất vững chãi bây giờ cũng rung rinh, đất vụn rơi xuống rào rào. Bà Hy lại quát: 

          – Vinh! Đóng cửa hầm rồi vào đi chứ còn thò cổ ra đấy làm gì!

          Thằng Vinh thụt vội vào hầm. Nó bực bội và xấu hổ vì mẹ cứ coi nó như trẻ con, nhất là khi lại có cả chị Phương đang ở đây. Cánh cửa gỗ dày đã khép kín lại khiến trong hầm tối hẳn. Một chuỗi tiếng nổ chát chúa dội đến. Bà Hy run lên cùng với căn hầm. Mặt mũi thất thần, hai tay ôm chặt lấy đầu, bà lẩm bẩm cái gì không rõ cho đến khi tiếng bom đạn ngớt dần. 

          Bà Hy vừa vấn lại vành khăn trên đầu vừa thở lào phào nói với Thành: 

          – Tao lo cho bố mày quá… Bom đạn thế này chẳng biết thế nào.

          Im lặng một lúc, hình như Thành cũng đang nghĩ đến điều mẹ nói, nhưng lại cố làm ra vẻ thản nhiên:

          – Mẹ chỉ toàn lo nghĩ không đâu! Mẹ xem bao nhiêu người họ cũng làm như thầy con, nguy hiểm hơn thầy con thì sao?

          Bà mẹ lườm con gái, giọng hơi trách móc:

          – Vâng, tôi chỉ lo nghĩ không đâu. Cô thì lo cái quái gì. Cô biết đâu đến người đi làm vất vả một nắng hai sương nuôi các cô, suốt ngày mồ hôi mồ kê nhễ nhại, quần áo người ngợm bê bết dầu mỡ. Nắng nôi thế này, lại còn bom đạn…  

          Thành cãi lại bằng giọng ôn tồn:

          – Con biết chứ sao lại không. Nhưng bây giờ mẹ có lo cũng chẳng được cơ mà, chỉ thêm ốm vào người thôi. Mẹ xem như bác Tếnh với bao nhiêu người khác làm ở trên boong đấy. Nguy hiểm hơn cả thầy con mà có sao đâu. Thầy con làm máy ở dưới hầm tàu, được cả cái tàu che chở cho, còn an toàn hơn nhiều người khác ấy. Với lại, người ta làm ăn khôn khéo lắm chứ, mẹ tưởng…

          Phương hỏi xen vào:

          – Thế bác đi lâu chưa hở Thành?

          – Nửa tháng rồi chị ạ.

          Phương quay sang phía bà Hy, lựa lời:

          – Bác ạ, em Thành nó nói đúng đấy. Lo cũng chẳng được thì lo làm gì cho nó khổ. Bom đạn ném chắc gì đã trúng. Nó ném xuống mà trúng ngay thì cả thành phố này đã tan ra từ lâu rồi.

          Như không hề nghe thấy những câu nói của Thành và Phương, bà Hy vẫn im lặng. Lát sau bà mới thở dài, chép miệng:

          – Khổ, nóng bức thế này mà suốt ngày cứ phải ở dưới ấy như nằm trong lò nung thì còn gì là người.

          Bóng tối trong hầm đã loãng ra vì mắt người đã quen với nó. Qua cơn sợ hãi vừa rồi, thằng Vinh và thằng Hạnh bắt đầu cãi nhau. Hai đứa dỏng tai lên nghe ngóng, cố đoán xem tiếng nào là bom, tiếng nào là đạn. Thằng Hạnh láu táu kêu:

          – Đấy, đấy! Bom đấy! Sợ chưa?

          – Đếch phải! Bom gì mà lại nổ thế! Đạn đấy chứ!

          – Đúng bom rồi!

          – Đúng với cái mồm mày!

          Thằng Hạnh gân cổ lên không chịu thua anh nó:

          – Mồm anh ấy! Cứ ra vẻ lắm cơ!

          Thằng Vinh vẫn khinh khỉnh, buông ra câu nói nhát gừng:

          – Mồm mày thì có! Đã đếch biết thì cứ vểnh tai lên mà nghe lại còn tỏ vẻ!

          Bà Hy ngồi bên thằng Hạnh chỉ lặng im từ nãy đến giờ. Gương mặt bà đầy vẻ lo âu và sợ hãi, đôi mắt như mờ hẳn đi. Hình như bà vẫn bị ám ảnh vì những phỏng đoán về sự nguy hiểm đối với người chồng đang làm việc ở dưới tàu. Nghe hai đứa trẻ cãi nhau, đã sốt ruột lại thêm bực mình, bà quát khẽ:

          – Thôi im! Im hết đi xem nào!

          Vốn không phải là những đứa trẻ dễ bảo nên hai đứa vẫn tiếp tục coi như không có chuyện gì xảy ra; lời mẹ vừa nói như nói với ai chứ không phải là với chúng. Thằng Hạnh vẫn lầu bầu:

          – Có mình đếch biết ấy! Cứ làm như là giỏi lắm… Tối về hỏi anh Huấn xem có phải không?

          – Tao mà lại không biết à? – Thằng Vinh đay lại.

          – Chứ gì!

          Thằng Vinh chưa đáp vội. Nó còn im lặng lắng nghe một lát.

          – Đấy, bây giờ mới chính cống là bom đấy. Nghe rõ chưa? Còn đây là tên lửa này.

          – Đếch phải! Đạn cao xạ!

          – Đạn cao xạ gì mà lại hú oành lên như thế? Đồ ngu!

          – Đếch phải!

          Thằng Hạnh chỉ nói được có thế rồi kêu ối lên một tiếng. Một quả thụi bất ngờ của thằng anh xưa nay chuyên đánh ngầm làm nó lặng người đi, ôm cạnh sườn một lúc rồi mới òa lên khóc thành tiếng được.

          Bà Hy lại quát:

          – Đấy, tao đã bảo chúng mày rồi mà chúng mày có thèm coi tao ra cái gì đâu! Được rồi, chốc nữa báo yên, tao bảo cái Thành nó dọt cho mỗi đứa chúng mày một trận.

          Thành đang rì rầm nói chuyện với Phương thì bị cắt ngang bởi tiếng khóc của thằng Hạnh. Cô đập cho thằng Vinh một cái: 

          – Mày cũng hư lắm rồi đây này. Bảo không chịu nghe gì cả!

          Thằng Vinh định cãi lại như một phản ứng thường ngày của nó sau khi bị chị mắng. Nhưng thấy chị Phương ở đó nên nó đành im lặng. Lúc này, tiếng khóc của thằng Hạnh cũng chỉ còn thút thít; nó không thể làm toáng lên như mọi bận vì không thấy ai ủng hộ mình. Trong khi đó, Phương lại nghĩ sang chuyện khác.

          – Công nó đâu ấy Thành nhỉ?

          – Em em nó sang bên trường ôn thi. Thi hết cấp xong bây gờ xin vào học lớp tám lại phải thi nữa chị ạ. Vất vả thế đấy.

          – Thì bao giờ chẳng thế. Nó mới mười bốn mà học lớp tám thì cũng giỏi đấy chứ. 

          Thành lắc đầu:

          – Thằng ấy nó học cũng được nhưng hay trí trá lắm chị ạ. Chẳng biết sau này nó ra làm sao. Còn em thì có lẽ năm học tới đây phải nghỉ thôi. Về đi học nghề, giúp đỡ thêm vào với gia đình.

          – Em định học nghề gì?

          – Em cũng chưa biết. Nhưng nghề gì mà chẳng được, miễn là thêm vào với anh Huấn em. Rồi em chịu khó đi học bổ túc[2] vậy… – Thành khẽ trả lời bằng cái giọng buồn rầu. – Lẽ ra em phải thôi học từ ngày anh Hải em đi bộ đội ấy chứ. Nhưng anh Huấn cứ bắt em học tiếp cho xong lớp chín.

          Phương suy nghĩ đắn đo một lát: 

          – Sao em không đi học trung cấp sư phạm ấy. Học cũng nhanh mà lại được ở gần nhà… Hay là trung cấp y dược?

          – Em không thích. – Thành hơi rụt cổ, ra cái điều sợ hãi. – Chị không thấy người ta vẫn bảo “Chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm” à? Còn y dược thì… kinh lắm. 

          – Em đang học dở dang giữa cấp thế này mà bỏ thì phí quá. Cố thêm một năm nữa cho hết cấp ba thì vẫn hơn. Chị cũng thích học lắm nhưng bà Lụa bà ấy không đồng ý, lại lớn tướng rồi nên đành phải đi làm…

          Phương dừng lại giữa chừng. Bà Lụa là dì ghẻ của Phương. Hai chị em bó gối ngồi im lặng, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Làm gì? Đã bao nhiêu người băn khoăn tự hỏi mình như thế khi bước vào đời?

          … Tiếng súng ở bên ngoài đã tắt. Lệnh báo yên. Mọi người lục tục ra khỏi hầm, mắt nheo lại vì ánh nắng chói chang rực rỡ. Phương cúi xuống, giũ giũ mái tóc, phủi những hạt cát rơi xuống đầu, xuống áo. Lúc cô ngẩng lên, bất chợt nhận thấy thằng Vinh vừa nhìn trộm mình. Phương ý tứ quay đi nhưng cậu nhóc đã bắt gặp cái nhìn của cô rồi. A, cái thằng này ghê thật! Mới mười hai mười ba tuổi đầu. Phương thầm nghĩ.

          Những giọt mưa thi nhau gõ vào thùng, chậu… kêu lanh canh như đánh thức Phương dậy. Cơn mưa từ nửa đêm về sáng đến bây giờ vẫn chưa tạnh hẳn. Nước mưa thỉnh thoảng lại ào ào rơi xuống, lộp bộp trên mái nhà, cành cây và mặt đất khi có gió thổi qua. Phương vẫn nằm yên, hai tay ôm lấy gáy, nghe tiếng reo ù ù của hai cây phi lao ở góc sân. Cô im lặng tận hưởng những âm thanh của đất trời – những âm thanh riêng biệt chỉ những trận mưa mới có – trong bầu không khí dịu mát đầy hơi nước. 

          Mưa vẫn rơi đều đều, êm nhẹ. Từng giọt nước tí tách nhỏ vào những chiếc thùng, chiếc chậu mà bà Hy, theo lệ thường vẫn đem ra hứng nước. Có tiếng guốc lộp cộp trên nền nền nhà đất, tiếng thùng chậu va vào nhau, tiếng chân người huỳnh huỵch xa ra khỏi nhà. Rồi tiếng nước ào ào đổ vào chum vại. Có lẽ cái Thành đã dồn nước xong rồi.

          Con bé thật lạ. Có một lần, nhìn hai cây phi lao xanh tốt mọc bên hầm trú ẩn, Phương liền hỏi:

          – Ai trồng hai cái cây này thế?

          – Anh Huấn em đấy. Hồi còn đi học, có một hôm anh ấy đi lao động trồng cây. Trồng xong, thấy sót lại hai cây bị đứt rễ, anh ấy nghĩ thế nào lại đem về trồng ở nhà thử xem nó có sống không. Em cứ tưởng nó chết cơ. Thế mà nó lại sống, bây giờ đã cao thế này…

          – Hai cây phi lao đẹp quá. Kể anh ấy cũng mát tay đấy chứ!

          – Vâng. Cũng phải đến ba bốn năm nay rồi còn gì. Nhưng mà… chẳng biết chị thế nào, chứ em thấy hai cái cây này nó có vẻ buồn buồn thế nào ấy. Chị cứ để ý mà xem, từ xa nhìn lại, nó gầy quá, từng cành lá nhọn xơ xác cả ra. 

          Phương bật cười:

          – Mày… đúng là dở hơi! Nó buồn buồn thế nào ấy. Tao thì tao thấy cây nào cũng thế thôi, chẳng biết buồn mà cũng không vui gì hết. Cứ làm như nó là người không bằng.

          Trong giọng nói của Thành có cái gì đó như một lời trách móc: 

          – Sao chị lại cười? Em nói thật đấy. Chị có biết không, những cây này chỉ trồng ở ven biển để tránh gió cát xâm thực vào đồng ruộng hoặc trồng trên núi hay bên đường thôi. Còn ở nghĩa trang, người ta trồng để tăng thêm vẻ trang nghiêm, tĩnh mịch… 

          Phương không nói gì nữa. Câu chuyện của hai chị em đến đó xoay sang hướng khác. Có điều, Phương không hiểu tại sao Thành lại nghĩ như thế về hai cây phi lao. Con bé hay hờn dỗi, nhiều khi chỉ vì những điều rất bình thường, không đâu vào đâu cả. Vui đấy nhưng cũng buồn ngay, chẳng biết thế nào.

          … Bây giờ, thỉnh thoảng những cây phi lao ấy lại reo lên mỗi khi có gió. Ở những kẽ lá và đầu cành, nước mưa đọng giọt long lanh như ngọc. Thân cây nâu sẫm, sần sùi, chìa ra những cành mềm mại, bóng loáng và ròng ròng những nước. Thành đã trở vào trong nhà với những bước chân nhè nhẹ. Phương từ từ nhắm mắt lại, bước vào giấc ngủ mơ màng. Tiếng mưa rơi, tiếng mấy mẹ con bà Hy nói chuyện với nhau ở nhà bên, tiếng va chạm của những đồ vật… xa dần rồi biến mất.

          Phương đến một nơi nào đó hoàn toàn xa lạ. Trước mắt cô là những đồi núi điệp trùng. Không hiểu thứ hoa gì nở trắng những sườn núi cánh rừng đang chìm trong sương mù và mưa bụi. À, hoa ban. Thứ hoa đặc trưng của miền Tây Bắc mà từ hồi còn đi học Phương đã được biết đến qua sách vở. Những bông hoa mỏng manh, trắng muốt xòe ra năm cánh không đều nhau ấy rơi, lơ lửng xoay tròn rồi đậu xuống mặt đất. Sắc hoa nổi bật giữa màu xanh cây cỏ hệt như những bông hoa tuyết.

          Bên cạnh Phương là Huấn. Hai người cầm tay nhau len lỏi đi giữa rừng đào. Những cây đào mập khỏe, gân guốc đang trổ ra muôn vàn bông hoa tươi thắm. Những cánh hoa đầy đặn xinh xinh hơi thẫm lại bởi những giọt mưa xuân đang rắc một lớp bụi mờ lên cảnh vật. Phương mỉm cười, nắm chặt tay Huấn, đi sâu mãi vào giữa rừng đào, choáng ngợp trước thiên nhiên hùng vĩ. Thỉnh thoảng hai người lại chạm phải một cành hoa khiến những bông đã tàn rụng xuống và những giọt nước đọng trên cành chui tọt vào cổ áo, lạnh rùng mình. Hai người cười khúc khích nhìn nhau. Hai khuôn mặt trẻ trung đều đỏ lựng.

          Phương tỉnh dậy hẳn. Mưa đã tạnh rồi. Ánh nắng vàng tươi lấp lánh viền khung cửa sổ. Đâu đây có tiếng kêu chiếp chiếp của mấy chú gà con và tiêng cục cục liên hồi của gà mẹ. Mấy con chim sẻ lắm lời đang tranh nhau líu ríu nói điều gì đó trên mái rạ. Những cành phi lao chưa ráo nước đang rung rinh trong nắng và những ngọn gió mềm mại thổi về.

          Phương vẫn nằm yên không muốn dậy vì chẳng có việc gì cần phải làm vào lúc này. Hôm nay là ngày cô đổi ca, mãi đến chín giờ tối mới phải đi, để mười giờ vào ca đêm. Cô cứ thế nằm im lặng, vẩn vơ suy nghĩ. Không hiểu tại sao mình lại mơ lạ lùng thế nhỉ. Nào có bao giờ mình nghĩ đến những chuyện như thế đâu! Phương mỉm cười tự trách mình. Vớ vẩn quá đi mất. Ừ, mà nếu “hắn ấy” biết thì sao? Ngượng chết. Nhưng Huấn chẳng bao giờ biết được điều ấy cả.

          Thực ra Phương rất có cảm tình với Huấn. Cô mến anh như một lẽ thường tình, có lẽ cũng giống như những cô gái khác cùng lứa tuổi mến một người con trai nào đó. Bởi vì rất có thể ngay từ những phút tiếp xúc đầu tiên người ta đã cảm thấy chàng trai kia có cái gì đó hòa hợp với mình. Nhưng Phương mến Huấn không phải vì lối ăn nói có duyên hay vẻ nhanh nhẹn hoạt bát, trưng diện như những thanh niên khác. Cô mến anh vì anh có một cái gì đó tỏ ra rất khác người: không sôi nổi, không vồn vã, trái lại còn hơi trầm lặng. Có lẽ điều đó thể hiện sự chín chắn của một người biết tự chủ, giấu kín những suy nghĩ, tình cảm của mình.

          Về mặt ngoại hình, Huấn thật giống mẹ. Cũng đôi mắt, cái mũi, cái miệng ấy, chỉ khác ở cái trán dô bướng bỉnh và khuôn mặt trẻ. Đôi mắt của anh lúc nào cũng như chứa đựng những gì rất xa xôi mà Phương không thể nào biết được. Nhìn vào đôi mắt ấy, Phương có cảm giác như nó được tạo nên bởi chính những gì đang hình thành trong đầu anh vậy. Đôi mắt luôn luôn nhìn xa, hơi diệu vợi dường như không hợp với khuôn mặt của anh. Thêm vào đó là một đôi môi hơi mỏng và cái cằm đầy nghị lực. Và ở những người như Huấn, đoán tuổi là một việc hơi khó. Phương không biết anh bao nhiêu nếu như Thành không nói anh mới tròn hai mươi mốt tuổi. Cộng thêm cả cái tuổi ta vào thì cũng mới hăm hai.

          Huấn có vẻ như một con người khắc khổ. Vẻ khắc khổ của anh toát ra từ khuôn mặt hiếm khi sáng lên vui vẻ và cái miệng ít cười, những bộ quần áo đã bạc màu, hơi rách vá. Những người trong cái xóm nhỏ này nhận xét về anh theo chủ quan của họ và thế là Huấn biến thành một người có rất nhiều khuôn mặt. Đối với bác Ba làm nghề đạp xích lô, anh là một kẻ không bao giờ lang thang ngoài phố – vì công việc của bác là suốt ngày đi nhưng chưa một lần bắt gặp anh trên đường. Với những bà chanh chua hay ngồi lê mách lẻo và cũng vì thế mà hay sinh ra cãi chửi nhau thì anh là một người ba phải. Bất cứ lần nào cũng vậy, nếu thấy trong gia đình mình có ai dính vào chuyện đôi co là anh chỉ tìm cách can ngăn và kéo về bằng được, không để xảy ra to chuyện. Còn đối với đám thanh niên cùng lứa tuổi trong xóm, Huấn lại là người hoàn toàn khác: đầu tiên là dế dẩm[3] và khinh người. Sau đó là một kẻ kiêu căng tự phụ, lúc nào cũng ra vẻ con nhà trí thức. Song nói chung, bà con trong xóm đều quý mến anh vì anh không có vẻ càn quấy, cao bồi. Và cánh thanh niên cũng chẳng ghét anh. Thỉnh thoảng lại có người còn tìm đến Huấn, nhờ chỉ vẽ một điều gì đó hay nhờ làm hộ lá đơn xin việc làm chẳng hạn.

          Ngay từ lần đầu tiên gặp gỡ, Phương đã lấy làm ngạc nhiên không tin là Huấn lại làm thợ rèn. Cái công việc nặng nề, suốt ngày đứng bên cạnh lò than đỏ rực, quai những chiếc búa to tổ bố, mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Tại sao với thân hình mảnh khảnh và nước da trắng xanh như cớm nắng, Huấn lại có thể làm một nghề trái ngược với mình đến thế? Chỉ mãi sau này Phương mới biết, sau khi học hết lớp mười, anh đã xin đi học trung cấp cơ điện. Ra trường, đi làm được một thời gian rồi anh mới chuyển sang xí nghiệp khác làm thợ rèn.

          Chiều chiều, khi những tia nắng cuối cùng đã gần tắt hẳn hoặc chỉ còn rơi rớt lại trên những ngọn cây, mái nhà, khi cái xóm nhỏ này hơi ồn ào lên một chút để chuẩn bị bước vào đêm thì nhiều người mới lục tục trở về sau một ngày làm việc. Cùng lúc ấy, Huấn đưa những bước chân mỏi mệt về nhà. Đôi mắt hơi thẫn thờ, môi như mím lại, anh không quay ngang, cũng không chào hỏi ai. Con người anh lúc đó trở nên xa lạ và hơi bí hiểm. 

          Bao giờ cũng vậy, sau khi thay quần áo ngoài, Huấn ngồi im lặng nghỉ ngơi một lát. Sau đó, anh mới đi rửa măt mũi tay chân rồi chậm rãi ngồi xuống bên mâm cơm. Ăn xong, anh ngồi đọc tờ báo, quyển sách hoặc hóng mát, trong khi vẫn phải luôn tay đập những con muỗi đang bám vào mình. Khi các em đã học bài xong, buông màn đi ngủ thì Huấn mới ngồi vào bàn viết. Nhưng cũng nhiều hôm anh bỏ cái lệ ấy vì mệt mỏi hoặc không có hứng. Và ngày ngày Huấn vẫn cứ đều đặn bốn lượt đi về[4] mỗi lượt hơn ba cây số.

          Từ lâu Phương đã quen với dáng đi xiêu vẹo hơi chúi đầu về đằng trước và mái tóc bờm xờm rủ xuống trán của anh. Nhưng chuyện trò, gần gũi thì chưa có dịp. Phần thì do cô cũng phải đi làm, lại theo ca theo kíp. Phần cô thấy anh hơi xa cách thế nào…

          Cũng có những hôm Huấn trở về với đôi mắt hơi sáng lên một chút và dáng đi bớt nặng nề hơn. Những lúc ấy trong đôi mắt anh như đọng lại hai giọt nắng chiều. Huấn nhìn xung quanh với vẻ trìu mến và khuôn mặt cũng bớt đi vẻ buồn bã hằng ngày. Anh mỉm cười với bọn trẻ con và các em anh, vui vẻ đáp lại từng câu hỏi giữa vòng vây của chúng.

          … Phương giật mình nhìn lên chiếc đồng hồ báo thức để trên bàn. Muộn quá rồi! Cô vùng dậy thu dọn giường chiếu và đồ đạc trong nhà. Ánh nắng cuối chiều từ bên ngoài đã rọi vào, chảy tràn trên mặt đất. 

          Ông Hy đã về. 

          Đấy là một người cao lớn vạm vỡ, khoảng năm tư năm nhăm tuổi. Ông có nước da đen sạm của một người dãi dầu nắng gió nhiều và dáng đi hơi chuệnh choạng, một thứ dấu ấn của những người thủy thủ. Dưới mái tóc hoa râm là một khuôn mặt vuông vắn, sần sùi những nốt rỗ hoa và mụn trứng cá. Trán ông hơi thấp. Gò má nhô cao mặc dù hai má vẫn đầy, đôi mắt tinh nhanh ẩn dưới đôi lông mày rậm… tóm lại khuôn mặt ông có những nét không được hài hòa, với một khoằm mũi hơi thô, đỏ nhừ vì nát rượu. 

          Về mặt hình thể, ông Hy và Huấn như hai mảng màu tương phản đặt cạnh nhau trong một bức tranh. Còn tính nết thì hai cha con xung khắc với nhau như nước với lửa. Một người nóng nảy chát chúa, nhiều lúc lắm điều như một mụ đàn bà ngoa ngoắt nhất, một người lại ít nói, hiền lành. Thật khó có thể pha trộn hai cha con thành một cái gì thuần hợp. 

          Ông Hy đã về. Đầu tiên là thằng Hạnh và thằng Vinh reo hò ầm ĩ, chạy ùa ra đón – chúng còn đang được nghỉ hè. Rồi sau đó đến lượt cái Thành dè dặt hơn, biểu lộ tình cảm bằng câu: “Thầy đã về!”. Cuối cùng đến lượt bà Hy hỏi:

          – Ông đã về đấy à? Gớm, mấy hôm nọ nó đánh ở đâu mà hãi thế. Mảnh đạn cao xạ rơi xuống cả nóc hầm. Tôi sợ sợ là… Chẳng biết ông thế nào.

          Cũng như những lần trước, ông Hy vắn tắt kể lại chuyến đi của mình cho vợ con nghe. Hai đứa trẻ tranh nhau quà và cái Thành không quên dặn các em nhớ để phần anh Huấn và anh Công. Rồi sau đó, trong lúc ông nằm thẳng cẳng trên giường ngáy khò khò thì bà Hy và cái Thành lúi húi làm cơm dưới bếp.

          Gần trưa, khi mọi người đang sắp sửa mâm bát thì thằng Công từ bên Kiến An về. Đấy là nơi mấy anh em nó sơ tán, ở ngay nhà ông chú ruột tên là Hiên. Cái nhà rõ to, lọt thỏm giữa một khu vườn rộng đến mấy sào đất lại có cả ao mà ông chỉ có nhõn một đứa con gái mới lên chín tuổi. Anh em thằng Công được gửi về đấy, sướng như vua. Vừa thoát khỏi sự đe nẹt của bố mẹ và ông anh khó tính, lại vừa tha hồ phá phách. Bà Hy và cái Thành tuần một hai lần sang tiếp tế gạo nước, tiền nong còn thì nhờ cậy hết vào ông chú hào phóng và dễ tính.

          Mới mười bốn tuổi mà thằng Công đã cao gần bằng anh Huấn, nhưng lại có phần béo khỏe hơn với nước da ngăm ngăm và khuôn mặt giống bố như tạc. Vừa mới đến đầu nhà, đoán biết là bố đã về, nó liền quẳng vội điếu thuốc đang hút dở xuống đất. Nó sợ ông Hy bắt gặp thì sẽ bị ăn đòn.

          Nhưng thật không may cho thằng Công một tí nào vì mặc dù đã cảnh giác cao đến thế, nó vẫn bị tai họa giáng xuống đầu một cách bất ngờ. Chẳng biết ông Hy dậy từ lúc nào và nghe thằng Hạnh tố cáo bao giờ mà ngay khi thằng Công vừa xuống dưới nhà thì ông đã quát bằng cái giọng vang rền như sấm:

          – Thằng Công đâu rồi? Lên đây tao bảo mau!

          Ắng đi vài giây rôi thằng Công mới cố tỏ ra bình tĩnh:

          – Thầy bảo con cái gì cơ ạ?

          – Được rồi, mày lên đây, lên đây tao bảo. Thằng Hạnh đâu, mày tìm cho tao cái roi mây ra đây!

          Không ngờ những lời mình mách lẻo lại dẫn đến hậu quả như thế, thằng Hạnh lấm lét đứng dậy, không biết làm gì. Nhất là lúc bắt gặp cái nhìn trách móc đầy đe dọa của thằng anh, nó lại càng sợ. Ông Hy gầm lên:

          – Mau!

          – Vâng ạ, con tìm đây. – Thằng Hạnh đáp rồi lập cập chui vào gầm giường lục lọi. Không thấy. Nó vội vàng xuống bếp tìm một thanh củi đem lên để trên phản rồi chuồn mất.

          Như một vị quan tòa nắm trong tay quyền lực tối cao, ông Hy chậm rãi, rẽ rành từng tiếng một:

          – Cái liễn ấy tao mua từ ngoài Móng Cái đem về đã gần một năm giời nay, giữ nó như giữ con ngươi mắt thì không sao. Thế mà sểnh ra tao đi vắng mới có mấy hôm mà mày ở nhà đã đem đập vỡ ngay lập tức. Tao hỏi mày, mày có làm được ra một xu nào không hay là mày chỉ toàn phá hoại của tao thôi?

          Thằng Công lí nhí trong cổ họng:

          – Hôm ấy con rửa xong rồi đem lên nhà định cất đi. Chẳng may bị tuột tay… nó rơi xuống mới vỡ. Chứ con có đập ra đâu!

          Ông Hy rít lên qua kẽ răng:

          – Ừ, chẳng may. Chẳng may! Roi mây đâu, Hạnh?

          Giá cứ yên chí mà im lặng thì có lẽ không sao, nhưng nghe tiếng ông Hy quát đột ngột, sợ quá, thằng Hạnh đang ở dưới bếp liền vội nói vọng lên:

          – Con tìm mãi mà không thấy! Đâu mất rồi ấy.

          Ngay lập tức những câu chửi rủa tục tằn được dịp tuôn ra ầm ĩ:

          – Đứa nào vứt cái roi của ông đi đâu? Hở? Mẹ cha tiên nhân mục vị thần vì thằng bố chúng mày thu dọn lùng quanh rồi vứt đi của ông! Ông đã cẩn thận cất mấy cái roi ấy trên nóc tủ cơ mà. Đứa nào, đứa nào vứt roi của ông đi?

          Bà Hy đã bỏ dở việc bếp núc, tất tả chạy lên tìm cách can ngăn chồng để tránh cho con khỏi bị trận đòn ác nghiệt:

          – Thôi ông ạ, đánh nó làm gì. Ai mà chẳng có lúc nhỡ tay. Cũng tại tôi lấy cái liễn ra để phần cơm thằng Huấn vì hôm ấy nó đi làm về muộn… Bảo ban nó để bận sau nó làm ăn cẩn thận hơn thôi. Mày nghe thấy chưa hở Công? Tao xin cho mày lần này… 

          Ông Hy lại càng gầm lên dữ dội:

          – Hừ, ai mà chẳng có lúc nhỡ tay! Tao còn chưa hỏi đến tội đứa nào đem cái liễn của tao ra đựng. Khổ thân tao! Cái liễn quả bí của tao đẹp như thế chứ có phải thường đâu! Thằng Công! Nằm lên giường mau!

           Vừa nói, ông Hy vừa bưng cái mâm đầy bát đĩa đang nằm ềnh trên phản một cách rất vô duyên, định vứt ra sân. Nhưng may mắn làm sao, ông còn nghĩ lại và hậm hực dằn mạnh nó xuống cái giường bên cạnh, khiến cho nước mắm ớt từ trong bát bắn ra tung tóe. Trong khi đó, thằng Công đã sợ run, nằm sấp lên giường, nới thắt lưng và kéo sẵn cái quần dài xuống dưới mông chờ đợi.

           Ở bên này, Phương đã nghe và biết hết chuyện xảy ra. Không cầm lòng được trước cực hình mà một đứa trẻ sắp phải chịu, cô vội bỏ xuống bếp ngồi. Cô vừa quay lưng thì thanh củi tạ đã vun vút đập xuống trong tiếng la hét man rợ của người cha và tiếng khóc thét lên của đứa con.

          Trông thấy Thành đang ngồi co dúm lại vì lo âu và sợ hãi, Phương vội bảo:

          – Mày không lên xem thế nào, cụ ấy đang đánh thằng Công túi bụi kia kìa.

          Thành lắc đầu bất lực:

          – Em chịu thôi! Lên bây giờ cụ lại đánh luôn cả em nữa ấy. Bao nhiêu là lần đã như thế rồi. Mà nào có gì đâu. Nó làm vỡ cái này thì mua cái khác, việc gì phải thế!

          – Khổ thân thằng ấy! Lớn tướng rồi mà vẫn bị đòn.

          – Chỉ tại cái thằng Hạnh này hơi một tí lại hớt lẻo, không thì làm sao nên nỗi. – Thành giúi mạnh một cái vào đầu đứa em trai út. 

          Tiếng kêu thất thanh của thằng Công vọng xuống dưới bếp, lẫn trong tiếng hét lên của bà mẹ. Thành quẳng vội thanh củi vào bếp lửa đang cháy rồi cuống cuồng chạy lên nhà:

          – Không khéo thầy em đánh nó chết mất!

          Phương rầu rĩ ngắm nhìn ngọn lửa đang bập bùng liếm vào những thanh củi vừa được đẩy vào trong bếp. Trước mắt cô như hiện ra hình ảnh của người cha nhu nhược và bà dì ghẻ. Trước đây, cuộc sống của Phương cay đắng nào có kém gì Thành, có khi còn tệ hơn. Nhưng Thành, nếu có thiếu đi sự thương yêu của người cha – mặc dù người cha ấy vẫn còn – thì đã được bù đắp lại bằng tình thương của mẹ. Còn Phương thì không. Cha cô suốt ngày chỉ biết đi hết xã này đến xã kia rồi lại lặn lội ngoài bờ bãi và bao nhiêu tình cảm của ông dường như đều dồn hết cho người vợ kế cùng với lũ con của bà này. 

          Từ nhỏ, Phương đã thầm mong ước có được tình thương của mẹ. Cái tình cảm thiêng liêng rất bản năng của con người mà đứa trẻ nào cũng rất cần. Nhưng số phận không cho cô điều đó. Phương không biết tình cảm ấy là như thế nào và cũng chẳng hình dung ra được. Nhưng đã bao nhiêu lần cô phải thầm ghen tị với lũ con riêng của bà Lụa khi thấy chúng được yêu thương, chăm bẵm, vỗ về, thấy chúng được sà vào lòng bà gọi mẹ, lại còn làm nũng và giận dỗi với bà, được bà chải tóc và bắt chấy. Chính vì thế Phương càng khao khát tình cảm mẹ con như mọi sinh vật cần ánh sáng và không khí. Cô ghê sợ cuộc sống trong gia đình mình, ghê sợ sự giả dối và tàn ác của dì ghẻ đối với cô. Phương muốn tìm một lối thoát càng sớm càng tốt. Nhưng tìm ở đâu? Thời gian luôn chậm chạp mà cô còn nhỏ quá…

          Ngay từ khi mới đến xóm này, Phương đã cảm thấy quý mến và kính trọng bà Hy. Không phải chỉ vì cô ở chung với gia đình bà mà cô nhận ra rằng bà có cái gì đó thật gần gũi với mình. Phương thấy bà như hiện thân của mẹ cô, mặc dù cái tuổi lên bốn thời xa xưa của cô chưa đủ khả năng ghi nhớ được hình ảnh mẹ. Bà cũng không để lại được một tấm ảnh nào. Vậy mà Phương vẫn tin rằng bà Hy rất giống mẹ mình; có lẽ mẹ cũng có dáng đi tất bật như thế, khuôn mặt dịu hiền mang cả những nét nhẫn nại và chịu đựng, đôi mắt sâu và buồn như thế… 

          Bà Hy, người nhỏ bé gầy gò, già hơn tuổi năm mươi của mình nhiều. Gánh nặng chồng con và những công việc gia đình khiến cho bà có vẻ vất vả ngay từ dáng đi với đôi chân hơi vấp váp. Gương mặt khắc khổ của bà chỉ sáng lên đôi chút và những nếp nhăn chỉ dãn ra khi có điều gì đó thật vui. Những lúc ấy, nụ cười của bà hiền dịu biết bao. Bà cười, bà vui bởi những niềm vui hết sức giản đơn. Ấy là việc bà trồng thêm được một luống rau, đôi lợn bà mới nuôi hay ăn chóng lớn hoặc những khi gia đình êm ấm thuận hòa. Và nhất lả lúc cái Thành cất giọng trong trẻo đọc lá thư của thằng Hải từ một nơi nào đó mới gửi về, báo tin nó vẫn khỏe và công tác tốt.

          Bình thường bà Hy là một người ít nói và đôi khi cũng cáu gắt với các con. Nhưng đôi khi bà vẫn kể chuyện ngày xưa, khiến cả nhà phải bật cười. Phương chợt nhận ra, bà cũng có nhu cầu được trao đổi chuyện trò. Và thú vui duy nhất của bà có lẽ là ăn trầu, ngoài ra không còn gì khác. Có miếng ngon nào bà cũng nhường hết cho chồng và các con. Tuy vậy, dường như không lúc nào bà ngơi tay làm việc. Lúc thì cho lợn ăn hoặc tưới rau, lúc lại cuốc đất, quét sân, nấu cơm hay khâu vá. Phương không biết làm sao bà lại có một sức lực dẻo dai đến thế. 

          Bà Hy còn giữ lại được vài tấm ảnh thời con gái của mình. Xem những tấm ảnh ấy, Phương có cảm giác cứ như là xem ảnh của một người khác vì cô không tưởng tượng được trước đây bà đã từng có vẻ ưa nhìn đến thế và nhiều người ngấp nghé. Vậy mà cô gái vùng Kinh Bắc lại từ chối hết cả những chỗ môn đăng hộ đối để cuối cùng, làm vợ của một gã đàn ông thô lỗ cục cằn. Con người ta có duyên số thật hay sao? 

          Yêu mến và kính trọng bà Hy bao nhiêu, Phương lại càng ghê sợ và ác cảm với ông Hy bấy nhiêu. Thậm chí là ghét cay ghét đắng. Cô không thể tưởng tượng được rằng trên đời này lại có một người đàn ông như thế. Một người lắm điều nhiều lời, ngoa ngoắt hơn cả đàn bà, với đủ những thói hư tật xấu, lại còn rượu chè be bét và nóng như lửa đốt.  

          Lần đầu tiên thấy ông Hy đánh thằng Vinh, Phương dại dột chen vào ngăn cản, tìm cách giữ tay ông lại. Bất ngờ, ông ta trợn mắt, chửi cô một câu rất tục, đẩy cô ngã chúi ra cửa rồi lại quất roi như điên như dại khắp người thằng bé. Hình như khi đã phải dùng đến roi vọt là người ta đã tỏ ra bất lực và kẻ bất lực rất dễ trở nên điên khùng khi bị người khác can ngăn. Lúc đó họ chỉ hành động như một người không còn lí trí, không biết đúng sai gì nữa.

          Phương được biết, trong một chuyến tàu chở những cuộn dây mây lớn, ông Hy đã cắt lấy một đoạn dài, to gần bằng ngón tay cái. Ông đem về, lẳng lặng để trên gác bếp. Để làm gì thì không ai biết nếu như sau đó ông không bỏ ra cả tiếng đồng hồ gọt vót nhẵn nhụi, chia thành ba đoạn làm ba cái roi mây nâu bóng. Chao ôi, một người cha trong gia đình! Chính vì ba cái roi ấy mà không biết bao nhiêu lần thằng Công, thằng Vinh, thằng Hạnh bị tả tơi quần áo, lằn ngang lằn dọc khắp người và hai bên mông đít, tay chân sưng vù, tứa máu. Căm thù mấy cái roi ấy tột độ, Huấn đã đem chặt nát chúng ra, quẳng vào bếp chứ nào phải “thu dọn lùng quanh” như ông Hy nói. Nhưng ngay cả khi không có roi mây, thì ông đã sẵn những thanh củi tạ, đòn gánh hoặc chiếc móc thùng gánh nước hay bất cứ thứ gì mà ông tiện tay vớ được trong cơn thịnh nộ để biến chúng thành công cụ chuyên chính với đàn con đông đúc.

          Ai biết được một người như ông Hy lại có thể sống theo kiểu ấy. Nhìn dáng dấp bên ngoài, ông ta cũng không đến nỗi nào ngoài cái giọng oang oang của người quen ăn sóng nói gió. Đôi khi ông còn tỏ ra vui vẻ và xởi lởi, biết quan tâm đến vợ con. Tiếc, là những giờ phút ấy thật hiếm hoi, chỉ tựa như những đám mây nhỏ tạo nên bóng râm trong chốc lát giữa trưa mùa hạ. Ngay sau khi cười cười nói nói chừng dăm phút, ông ta đã có thể đập phá hết đồ đạc trong nhà, hất tung cả mâm cơm đang ăn dở ra sân hoặc chửi bới ầm ĩ vì một lí do nào đó.

          Có thể, do ít học và những năm sống dưới chế độ cũ đã làm cho ông Hy như vậy chăng? Hay đây là bản tính con người? Phương chịu, nhưng cô lấy làm ngạc nhiên khi thấy ông thường hay vỗ ngực tự hào về danh hiệu đảng viên hoặc khoe khoang chức vụ tổ trưởng tổ điện máy gồm có bốn người. Và câu nói cửa miệng vào những lúc ông nổi hứng lên: “Chẳng gì mình cũng là cái anh cán bộ”. Chẳng bù cho những khi rượu vào lời ra, đánh đập vợ con, ông trời cũng bé. Đúng là đôi khi ông tỏ ra khá biết điều và hành xử như một người tử tế. Song nhiều lúc lại cố chấp hoặc quá nhún nhường không phải lối nên bị người khác coi thường. Cũng thật khó mà tưởng tượng được rằng đã có lần điên lên, ông vác ngay cả chiếc ghế đẩu phạng vào đầu thuyền trưởng, người rõ ràng là “cán bộ” hơn ông nhiều. Mà tất cả cũng chỉ vì thuyền trưởng dám nhắc nhở ông đừng uống rượu quá nhiều, nhỡ chẳng may ngã xuống sông. Rồi lần khác, ông còn dọa đốt nhà, may mà có người ngăn lại được.

          Phải chăng cuộc sống là một cái gì đó đầy mâu thuẫn cho nên mối ác cảm của Phương đối với ông Hy không ngừng tăng lên, trong khi những tình cảm tốt đẹp của cô đối với gia đình ông không hề vì thế mà giảm sút. Trái lại, nó càng thêm gần gũi thân tình. Bà Hy đã gợi lên trong lòng Phương một cảm nhận sâu sắc về tình mẫu tử, khiến cho khái niệm về người mẹ của cô trở nên cụ thể hơn. Nó cao hơn, rộng hơn những điều trước đây cô vẫn thường suy nghĩ.  

          Nếu không có một người chồng vũ phu và nát rượu, nếu những đứa trẻ kia ngoan ngoãn hơn thì bà Hy sung sướng biết bao nhiêu. Chắc chắn những nếp nhăn trên khuôn mặt bà sẽ đỡ hằn sâu hơn, ánh mắt tủi buồn của cả cuộc đời bà sẽ sáng lên một chút. Bà sẽ hay cười hay nói hơn và sẽ là một người hạnh phúc. Niềm hạnh phúc ấy của bà tuy nhỏ bé thôi nhưng quan trọng biết chừng nào… 

 

           Cuộc trừng phạt, cuối cùng đã chấm dứt. Chỉ còn tiếng than vãn đều đều mà thê thảm của bà Hy cùng tiếng nấc lên ấm ức của một cậu bé vừa mới bị đòn chen lẫn tiếng lách cách của mâm bát đang dọn ra. Người ta cũng phải ăn cơm chứ! Phương nghe mớ âm thanh pha tạp ấy mà lòng buồn vô hạn.

           Ông Hy nói to: 

           – Thằng Hạnh đâu, cầm chai rượu ra đây. Hôm nay có thức nhắm, tao phải làm một tí mới được.

           Thực ra đâu phải hôm nay có thức nhắm ông mới làm một tí. Mà mỗi cái tí ấy của ông ít ra cũng phải đầy một chén to. Bà Hy sẽ sàng:

           – Ông uống in ít thôi không lại say. Còn đi làm đi lụng cơ mà.

           – Ơ cái bà này! Tôi đã được hớp nào đâu mà say với chẳng…

           – Ấy là tôi nói trước như thế. Bao nhiêu lần mềm môi quá chén đến nỗi nôn ọe cả ra nhà đấy.

           Ông Hy khà một tiếng sau ngụm rượu:

           – Đấy, chúng mày ăn đi! Cá này là do bố chúng mày thức suốt đêm qua câu được đấy. Cứ ăn đi cho thỏa thích. Hết thôi. Bữa sau không có thì lại ăn rau mắm vậy.

           Không có tiếng trả lời của bất kì ai, mà thay vào đó là tiếng bát đũa kêu lách cách, tiếng hít hà, húp chan xì xụp. Nhưng đúng lúc tưởng chừng vui vẻ ấy lại bùng lên một cơn bão mới. Ông Hy vẫn khề khà, gắp miếng ngon nhất bỏ vào bát vợ: 

           – Tôi cho riêng bà cái này. Bà ăn đi. Thằng Vinh sao không ngồi xếp bằng hẳn xuống cho nó đàng hoàng mà lại chân co chân duỗi thế kia? Mày sợ bẩn quần à?

           Thằng Hạnh lại láu ta láu táu:

           – Ở nhà anh ấy toàn đi trèo cây với đá bóng thôi thầy ạ. Rách cả cái quần mới rồi. Cái quần kaki màu xanh ấy… 

           Thành lườm em một cái, còn thằng Vinh thì nhìn đứa em trai, nửa van xin nửa đe dọa. Nhưng muộn mất rồi, nó vội cãi:

           – Đâu nào! Chỉ được cái bộ nói điêu. Quần đã cũ rồi tao mới mặc đi lao động xong nó bị rách ra đấy chứ.

           – Ờ, thằng này giỏi. Mày thì cứ là dao kề tận cổ vẫn già mồm cãi! Được rồi, ăn đi, ăn xong rồi ông nói chuyện với mày.

           Thằng Hạnh vẫn lau chau:

           – Hôm nọ anh ấy còn đánh nhau với thằng con nhà Thạch để nó đến tận đây chửi đấy thầy ạ.

           Rượu đã ngà ngà, ông Hy không nói gì vội vì còn để ý đến món cá rán rất ngon. Nhưng chính sự chú ý này lại dẫn đến một chuyện khác.

          – Đứa nào làm vỡ hết cả men ở cái bát sắt này đây? 

          Cái bát sắt to tráng men đựng riêu cá, nằm ở giữa mâm. Thành đang bực mình từ nãy đến đến giờ với thằng Hạnh, nhưng vẫn đành phải lên tiếng trả lời thay cho nó:

          – Con không biết ạ.

          – Ờ, thế mày thì biết chứ Hạnh?

          – Anh Vinh anh ấy làm vỡ chứ không phải con, – Thằng Hạnh run lên trước một trận đòn oan có thể xảy ra với nó.

          Ông Hy vằn mắt lên nhìn kẻ tội đồ:

          – Mày làm ăn thế à? Mày có bỏ tiền ra mua được cái gì ở nhà này không mà mày phá hoại của ông? Tại sao quần rách? Tao hỏi, tại sao mày lại đánh nhau? Mày nói ngay xem! Từ khi đi học đến giờ mày đã bao nhiêu lần đem những chuyện không hay về cái nhà này rồi? Nói!

          Bài ca sư phạm ấy vang lên mạnh mẽ làm cho thằng Vinh tối tăm mặt mũi, nép vào bên chị nó. Ông Hy cầm cái đĩa đựng đầy xương cá dứ dứ trước mặt con, đe dọa. Bà Hy cố gắng can ngăn một cách nhẹ nhàng:

          – Thôi, ông làm gì mà nóng thế. Bảo ban chúng nó thiếu gì lúc. Mà nói nho nhỏ thôi, to tiếng nào có lợi gì.

          Đôi mắt đỏ vằn lên những tia máu, ông Hy vẫn dứ dứ cái đĩa trước đứa con đang sợ hãi: 

          – Ông đã bảo mày bao nhiêu lần rồi, tại sao mày không nghe? Hả?

          Cái đĩa đập trúng ngay đầu thằng Vinh, làm xương cá rơi tung tóe. Thằng bé thét lên một tiếng, ôm đầu vọt ra ngoài. Cái đĩa bay vèo theo, sượt qua vai nó. Rơi đúng vào một tảng đá vẫn làm hòn kê chẻ củi, chiếc đĩa vỡ tan ra từng mảnh. Thẳng Hạnh, có lẽ là sợ bị vạ lây nên cũng vội lủi ra ngoài.

          Bà Hy đứng phắt dậy, trừng mắt nhìn chồng với sự căm phẫn bừng lên cao độ:

          – Ông làm cái gì thế này? Quăng hết cả bát đũa đi! Đấy, quăng hết đi! Người ta thì trong ấm ngoài êm, đây thì năm ngày ba trận, hết chuyện này đến chuyện khác. Nào bảo mười tám đôi mươi gì đã đành. Mà mười tám đôi mươi cũng không đến nỗi thế. Khổ chưa hở giời!

          Cái chén trong tay ông Hy bị dằn mạnh xuống mâm khiến rượu sánh cả ra ngoài:

          – Thôi im đi! Đừng nói nữa. Bà bây giờ cũng “to” lắm rồi!

          Cơn tức nước vỡ bờ của người phụ nữ suốt đời nhẫn nhục chỉ kéo dài được đến thế. Bà Hy nhìn chồng với đôi mắt đã ầng ậng nước:

          – Tôi nói thế không đúng à? Ông thử xem nóng nảy thì được cái gì? Phải làm thế nào cho nhà cửa yên ổn chứ. Nếu sớm sủa ra thì cũng đã có cháu gọi bằng ông bằng bà cả rồi. Ra đường người ta vẫn chào bằng bác… Phải để cho người ta trông vào chứ. Không sợ cô Phương bên này cô ấy cười cho à? 

           Lão già trợn mắt hét lên:

           – Mặc mẹ nó! Ông đéo sợ đứa nào cười hết! Mày định dạy khôn ông đấy à? Con khỉ già này bây giờ cũng ghê lắm rồi. Yên cái gì?

           Đôi môi cong lên, răng nghiến lại, mắt long sòng sọc, lão già định chửi nữa nhưng bắt gặp cái nhìn phẫn nộ bùng lên trong mắt vợ, lão hơi chợn, đành dừng lại. Không biết làm gì hơn, ông ta ngửa cổ ực hết chén rượu rồi tiện thể lấy tay quệt ngang mồm. Tất cả bỗng lặng im một lúc.

           Huấn đã đi làm về. Nhìn mâm cơm đổ vãi tung tóe và vẻ mặt của mấy người trong nhà, anh hiểu ngay sự tình nhưng không hé răng nói một lời nào mà chỉ sa sầm mặt xuống. Và cũng phải đến lúc này bà Hy mới lên tiếng được:

           – Tôi làm gì mà ông chửi tôi? Ông tưởng thế là hay lắm à? Nhìn kia kìa! Ông đã thấy chưa?!

          Lũ trẻ con mất dạy thấy chỗ nào to tiếng là bâu lại như ruồi đang đứng lố nhố ngoài sân, lơ láo nhìn vào qua cánh cửa mở toang hoang. Nhưng khi thấy ông Hy chống tay đứng dậy, định đi ra xua đuổi thì chúng đã cắm đầu chạy mất.

          Huấn lặng lẽ giúp Thành một tay thu dọn mâm bát, quét gọn những hạt cơm và  xương cá rơi vãi lung tung mà không hề ngẩng lên nhìn bố. Còn ông Hy thì lặng im nhìn anh chòng chọc như một người xa lạ.

          – Mẹ có ăn cơm nữa không, đưa bát con xới. Thành ra gọi chúng nó về ăn cơm, em. Đi đi. – Huấn vẫn không nhìn ông bố.

          Thành vâng một tiếng rồi ra ngoài. Bà Hy não nuột lắc đầu:

          – Thôi, tao chẳng ăn nữa đâu. Không nuốt được.

          – Không nuốt được thì chết đi! Sống làm gì! – Lão già quá quắt lại văng ra một câu độc địa.  

          Bà Hy trừng mắt, giọng run lên bần bật:

          – Thôi im đi, đừng ngoác cái mồm ra nữa! Tưởng thế là hay lắm đấy à? Già rồi còn không biết thế nào là phải trái.

          Bà Hy nói đến đấy thì ngừng lại. Huấn ngồi xuống phía đối diện ông bố với đôi mắt như bốc lửa:

          – Thầy làm gì thế? Thầy không sợ người ta cười cho à?

          – Đứa nào cười cũng mặc kệ mẹ nó! Ông đéo sợ đứa nào hết. Mày… mày cứ giờ hồn không thì cũng bỏ mẹ mày với ông!

          Huấn cố ghìm mình lại nhưng giọng nói của anh như trôi qua dòng nước mắt cay sè:

          – Con có nói thầy phải sợ ai đâu! Nhưng thầy nóng giận để làm gì? Thầy cứ nhẹ nhàng thử một tí xem có được không, việc gì mà phải làm om sòm lên chứ. Mà thầy lại là đảng viên, còn bà con xóm phố nhìn vào…

          Như bị điểm đúng huyệt, ông Hy im lặng và cơm, nhưng rõ ra là không còn cảm thấy ngon lành gì nữa mà chỉ ăn cho xong bữa. Hình như ông ta đã hết mọi lí do để chửi bới rồi. Bà Hy cũng đã đứng lên để bố con Huấn ngồi ở đó. Thành trở vào nói với Huấn, lúc này đang tỏ vẻ chán chường:

          – Chúng nó không ăn nữa đâu anh ạ. Chạy hết cả rồi.

          Cô bé liếc mắt sang phía ông bố đúng lúc lão đang lừ lừ nhìn. Cô vội cúi xuống, bưng đỡ cái nồi và ít bát đĩa bên cạnh mâm. Ông Hy đứng dậy lấy cái tăm, tiện tay với lọ chè, dốc dốc vào cái ấm chuyên để trên bàn, buông thõng: 

          – Con kia, một rưỡi nhớ gọi tao dậy. Mày mà quên thì ông bảo mày!  

          – Vâng!

          Thành xịu mặt, đi xuống bếp.

***

          Đêm nay trăng sáng và gió mát. Lũ trẻ trong xóm lại rủ nhau chơi những trò quen thuộc. Bọn con trai thì chơi mèo đuổi chuột, chấm muối ăn me rồi lại bắt gián điệp. Đám con gái chơi chuyền, trồng nụ, trồng hoa, ô ăn quan. Nhưng bực nhất là trò gì cũng bị mấy đứa con trai phá đám, không làm sao mà yên được.

          Nhưng rồi mãi rồi cũng phải chán, bọn con trai chuyển sang trêu chọc mấy đứa con gái đang tập múa hát ở sân nhà bà Kiểm, một bà cụ lắm điều. Tiếng cãi chửi nhau vang lên í ỏm một lúc lâu. Kết quả, như vẫn thường thấy là bọn con trai phải chịu thua trước mấy đứa con gái đanh đá chua ngoa có hạng, đành lủi thủi kéo về. Chợt một đứa nào đó nói:

          – Đi nghe anh Huấn kể chuyện đi chúng mày ơi!

          – Ờ, đi đi!  

          – Đúng rồi! – Cả lũ nhao nhao tán thưởng. Lương gầy, thủ lĩnh đám trẻ con trong xóm cũng đồng ý. Thế là bọn chúng rồng rắn kéo đến nhà bà Hy.

          – Đứa nào đấy?

          Bà Hy ngạc nhiên khi thấy một mái đầu bù xù hiện ra ngoài cửa sổ. Thằng bé trả lời lễ phép, khác hẳn với thường ngày:

          – Cháu. Cháu hỏi anh Huấn ạ.

          – Về đi ngủ thôi. Muộn lắm rồi, – Bà Hy đã đoán được bọn này muốn gặp Huấn làm gì.

          Huấn mỉm cười lặng lẽ, bỏ bút xuống, gấp quyển sổ lại rồi đi ra. Lũ trẻ con reo lên ầm ĩ, đứa cầm tay, đứa túm áo, kéo anh lại một góc sân quen thuộc.

          – Kể chuyện đi anh Huấn! 

          – Từ từ đã nào. Chúng mày làm gì mà vội thế!

          Huấn gỡ tay mấy đứa đang túm chặt lấy anh, bảo một đứa lấy manh chiếu rách rải ra rồi ngồi xuống. Cả lũ lục tục ngồi theo, không cần ai nhắc nhở.

          – Nào, kể chuyện gì bây giờ?

          – Chuyện gì cũng được!

          Lũ trẻ con nhao nhao đáp. Những đôi mắt tinh ranh láu lỉnh sáng lên chờ đợi. Không đứa nào bảo đứa nào, cả bọn đã ngồi quây quần lại, im phăng phắc.

          Huấn suy nghĩ một lát, thử tìm trong trí nhớ một câu chuyện có thể hấp dẫn được lũ trẻ này. Rồi anh nói bằng một giọng nhẹ nhàng: 

          – Được. Hôm nay tao kể cho chúng mày nghe chuyện Con sáo biết nói[5] nhé!

          – Chuyện gì hở chú? – Một đứa bé nhất bọn chưa nghe rõ vội láu táu hỏi lại.

          – Con sáo biết nói.

          Một đứa nhắc lại cái tên truyện hơi lạ. Huấn bảo bọn trẻ con im lặng ngồi gần lại. Anh cất giọng đều đều kể. 

          … Sau một trận đánh đồn. Chú bé liên lạc tên là Đuốc đứng ở gốc cây xem các anh chị dân công đang thu dọn chiến lợi phẩm và phá bốt. Bỗng chân chú bé nhói lên. Thì ra em đang đứng ở tổ kiến lửa mà không biết. Đuốc vội bước sang một bên, gãi bàn chân rát như phải bỏng và nhìn thấy đàn kiến đang xúm vào khiêng xác một con chim gì đó. Đuốc nhặt một cái que, thử khều xem. Thì ra đó là một con sáo nhỏ, chẳng may bị đạn bắn xuyên từ cánh ra sau lưng. Lông nó tả tơi, xơ xác, ướt đầm. Chắc đây là con sáo mẹ vừa đi kiếm mồi về, thì rơi vào trận đánh giữa đôi bên. Bị trúng một viên đạn lạc, nó chết, mỏ vẫn còn ngậm một con châu chấu.

          Đuốc ngước mắt nhìn lên ngọn cây đa và bây giờ cậu mới nghe thấy hình như có tiếng chim non kêu líp nhíp ở trên đó. Vốn trèo cây rất giỏi, em vội vàng tháo dép rồi thoăn thoát leo lên… Đây rồi. Trong ánh lửa chập chờn bốc lên từ đồn địch, chú bé nhìn thấy cái tổ chim bé tí được làm bằng những cọng rơm và một con sáo non còn chưa mọc lông, mắt nhắm nghiền nhưng vẫn há miệng chờ mồi. Không suy nghĩ gì hết, Đuốc nhẹ nhàng cầm lấy con sáo mồ côi ấy bỏ vào túi áo của em rồi từ từ trèo xuống.

          Lũ trẻ con im lặng, há hốc miệng theo dõi chú bé liên lạc Đuốc trong câu chuyện. Mặt trăng tròn xoe lơ lửng trên ngọn phi lao. Những đứa trẻ con quần áo lôi thôi, chân đất ấy đang bị câu chuyện hút vào. Trước mắt chúng như hiện ra chú bé liên lạc tên là Đuốc và con chim non bé bỏng.

          Gió miên man vuốt ve những mái đầu khét nắng và trăng long lanh trong từng đôi mắt trẻ thơ. Những chiếc quần đùi áo vá lem nhem vết mực giây vào, chua lợm mùi mồ hôi và những thân hình đen đủi khẳng khiu đầy cáu ghét trong ánh trăng bỗng đẹp hẳn lên. Những tâm hồn trong trắng ấy đang uống từng dòng cảm xúc tươi mát, mới mẻ mà chúng tìm thấy trong câu chuyện.

          … Đuốc đem con sáo ấy về nuôi. Hằng ngày, chú đi bắt cào cào châu chấu và dành cả những quả chuối ngon lành cho sáo. Được chăm chút cẩn thận từng li từng tí, con sáo lớn lên trông thấy, rất dạn người và suốt ngày quấn quýt bên Đuốc. Chú bé mồ côi và con chim mồ côi ấy rất hợp với nhau… 

          Giọng Huấn đều đều trải ra truyện ngắn mà anh đã đọc trên báo Văn nghệ mà anh gần đây. Những hình ảnh trong truyện cũng làm cho chính anh xúc động. Huấn không biết là lúc này, cả Phương và Thành cũng đang chăm chú theo dõi câu chuyện. Hai chị em ngồi khuất trong bóng tối ở đầu nhà. Phương không hiểu vì sao những đứa trẻ ương bướng khó bảo kia lại có những lúc hiền lành ngoan ngoãn thế. Chúng say sưa nghe kể chuyện, ngồi im phăng phắc cả một lượt. Có lẽ vì vậy mà giọng nói nhỏ nhẹ của Huấn trở nên rõ ràng hơn: 

         … Đuốc tìm cách dạy con sáo ấy nói. Đầu tiên là những từ quen thuộc, như “bà”, “ông”. Rồi đến những từ gần gũi, thiết thực hơn. Con sáo thông minh ra phết. Nó tiếp thu rất nhanh và nhớ rất lâu. Đuốc dạy nó những câu đơn giản rồi đến những câu phức tạp. Từ “Đuốc ơi!” đến “Nhà có khách!”, rồi “Chào bác ạ!”. Một thời gian sau con sáo đã biết gọi “Đuốc ơi! Nhà có khách!”. Nhưng đặc biệt nhất là câu “Đuốc ơi! Có Tây!” báo động cho mọi người biết mỗi khi có địch.

 

          Phải công nhận là Huấn kể chuyện rất có duyên. – Phương thầm nghĩ. Anh không hoa chân múa tay, cũng không nói to, mà hấp dẫn người nghe bằng giọng nói rất bình thường. Anh khơi gợi sự chú ý của người nghe – lũ trẻ hiếu kì kia – bằng những tình tiết sinh động của câu chuyện và cả những câu chữ hơi văn hoa bóng bẩy.

          – Này Thành. 

          – Cái gì hở chị? 

          – Em đã nghe chuyện này bao giờ chưa?

          – Chưa chị ạ.

          – Hay quá nhỉ.

          – Vâng. Mọi khi anh em chỉ toàn kể chuyện thần thoại với chuyện dân gian hay cổ tích thôi. Hôm nay mới thấy anh ấy kể chuyện như thế này…

          Hai chị em khẽ trao đổi với nhau. Không biết nguyên văn truyện như thế nào, nhưng rõ ràng là nó rất lôi cuốn qua lời Huấn. Hai cô gái lại im lặng nghe kể tiếp.

          … Chú bé ấy hi sinh vì vết thương quá nặng. Anh Long, anh kết nghĩa của Đuốc lục tìm trong đám đồ đạc ít ỏi của chú bé thấy một quyển sổ tay đã cũ. Run run vì xúc động, anh vội mở ra xem. Đấy là quyển sổ Đuốc dùng để chép thơ và bài hát cùng những bài học mà các anh trong đơn vị đã dạy em.

          Từ sau hôm Đuốc mất, con sáo không bay về nữa. Nhưng vào những đêm tối trời, thỉnh thoảng người ta lại nghe thấy những tiếng kêu não nề của nó từ ngoài mộ Đuốc vọng về: “Đuốc ơi! Có Tây! Đuốc ơi, có Tây”!…

          Một ông già làm nghề chạm đá, nổi tiếng khắp vùng về tài năng và sự khéo tay đã bỏ ra rất nhiều thời gian đi tìm một phiến đá thật đẹp về, làm một cái khánh. Ông cẩn thận khắc lên mặt khánh những câu thơ mà khi còn sống, chú bé liên lạc dũng cảm ấy rất thích. Rồi ông treo cái khánh ngay trên cành cây đầu mộ Đuốc. Những câu thơ ấy tựa như lời tâm sự, lời nhắn nhủ của chính người nằm dưới mộ:

                        Là chiến sĩ, không bao giờ tôi chết

                        Chỉ ngủ một giấc thôi

                        Như cây mùa đông rụng lá

                        Mùa xuân lại đâm chồi

                        Hỡi người đời sau!

                        Nếu quân thù trở lại

                        Hãy vỗ khánh này để đánh thức tôi!

          Còn con sáo, thật lạ lùng, thỉnh thoảng nó lại bay về, lượn vòng trên mộ Đuốc rồi đậu xuống gọi “Đuốc ơi!”. Tiếng gọi ấy như nhắc nhở mọi người đừng bao giờ quên chuyện cũ, khi chưa sạch bóng quân thù trên Tổ quốc thân yêu…

           Huấn dừng lại khá lâu rồi mới buông một tiếng: Hết! Lũ trẻ con à lên xuýt xoa vì kết thúc đột ngột của câu chuyện.

           – Hay quá! Hết rồi hở anh Huấn?

           – Tiếc quá nhỉ! Thế mà lại hết mất rồi. 

           – Nhân vật chính mà chết là hết chuyện. Bao giờ cũng thế. Chúng mày không biết à? – Huấn cười hóm hỉnh.

          Bọn trẻ lại ồ lên một tiếng trước sự thật đơn giản ấy. Bỗng chốc chúng có vẻ nghiêm nghị và như lớn hơn lên một chút vì chú bé liên lạc Đuốc. Tất cả tản mát ra về, sau khi đã bắt anh Huấn phải hứa tối mai sẽ kể cho chúng nghe một câu chuyện khác.

          – Được. Tao sẽ kể. Nhưng chúng mày phải thật ngoan cơ, – Huấn nói. – Không được đánh cãi chửi nhau đâu đấy! Nếu không thì đừng có hòng! Nhớ chưa? 

          – Nhớ rồi! – Thằng Long khẽ lầu bầu với Huấn.

          Những đôi chân đất đã chia nhau về các ngả. Phương và Thành vẫn ngồi yên chỗ cũ. Thành không biết Phương vừa nhận thấy một nét mới trong con người Huấn. Quả thật, cô chưa được nghe ai kể chuyện hay như thế bao giờ. 

          Thấy con trai bước vào nhà, bà Hy có vẻ không bằng lòng, nói như trách móc:

          – Bằng từng ấy rồi còn đi chơi với bọn trẻ con nữa. Giá mày cứ đi ngủ sớm cho nó khỏe người có hơn không?

          Huấn rót nước ra uống xong rồi mới hỏi lại, vẻ cười cười:

          – Thế thì sao hở mẹ? Chơi với trẻ con nhiều khi cũng tốt chứ. Đấy mẹ xem, có việc gì đâu nào?

          Bà mẹ lầu bầu cái gì không rõ. Còn Huấn, trong lòng anh chỉ thấy vui vui.

          Đêm nay, gió mát và trăng sáng…

          Mười ngày nghỉ phép về quê thăm bố và các em đã để lại cho Phương cảm giác không buồn mà cũng chẳng vui một chút nào. Suốt ngày, cô chỉ thơ thẩn trong nhà, làm những việc linh tinh, thỉnh thoảng mới đi thăm mấy đứa bạn cũ cùng trường hoặc cùng xóm. Khó chịu bởi con mắt soi mói của bà Lụa. “Nó vẫn thế, nhưng có lẽ hơi béo và đẹp ra”. Người dì ghẻ nhận xét một cách chẳng vui vẻ gì. Thậm chí còn hậm hực vì không thể quát nạt, hành hạ Phương được nữa. Cô đã cao lớn nhường kia, lại đi làm, kiếm được tiền. Về nghỉ phép, có quà cho cả bà và mấy đứa em.

          Những đứa em khác mẹ của Phương, sau một thời gian không gặp, cũng lớn vổng lên và tỏ ra quý mến cô hơn. Song đâu phải một sớm một chiều Phương đã có thể quên đi những cảm giác nặng nề suốt mười mấy năm chung sống. Những đứa trẻ ấy ngày xưa từng là gánh nặng, thậm chí chỉ đem lại tai họa cho cô bởi cách dạy dỗ của bà mẹ chúng.  

          Không đến nỗi mong cho sớm hết phép, nhưng dù sao Phương cũng cảm thấy nhẹ cả người khi được xách túi trở lại nơi cô đang sống và làm việc. Cô nhớ cái tổ phay bào của mình với những cỗ máy xếp hàng thẳng tắp, rào rào chạy suốt ngày, nhả phoi liên tục. Cô nhớ mùi dầu luyn thường được tra vào ổ trục, hộp số, nhớ những chiếc mâm cặp xoay tròn và những tay vặn mạ kền trên máy. Cô nhớ những con Ngọc, con Hà, con Liên cùng tổ, bạn thân của cô. Và cô nhớ cả cái xóm nhỏ toàn những nhà gianh vách đất chẳng khác gì quê, nhớ cả bà Hy, cái Thành và Huấn, một chàng trai có cái gì đó hơi bí ẩn và khó hiểu. 

          Phương thử vẽ ra trong óc những hình ảnh khi cô gặp lại bà Hy và cái Thành. Có lẽ hai mẹ con bác ấy đang lúi húi ở ngoài vườn hay khâu vá gì đó cũng nên. Nhưng khi về đến nơi, cô lại thấy Thành đang ngồi giặt quần áo bên vại nước. Và cũng thật bất ngờ, vừa nom thấy cô, Thành đã báo tin anh Huấn bị ốm nặng phải đi nằm bệnh viện. Phương sững sờ hỏi lại:

          – Ơ thế à? Anh ấy bị làm sao? Nằm viện đã lâu chưa? 

          – Ba bốn hôm nay rồi chị ạ. Người ta bảo anh em bị viêm não Nhật Bản. 

          – Chết thật, nguy hiểm thế! – Phương nói luôn, mặc dù cô không biết rõ về căn bệnh. – Nhưng chị tưởng bệnh ấy chỉ trẻ con mới mắc thôi chứ…

          Thành đưa tay vuốt lại mái tóc rồi kể lể:

          – Em cũng không biết. Nhưng chiều hôm ấy anh em vẫn đi làm. Tối đến anh ấy chỉ ăn một bát cơm rồi cứ kêu bị nhức đầu. Uống thuốc cảm cũng không khỏi, anh ấy lên cơn sốt suốt đêm, kéo dài mãi đến sáng. Em sợ quá. Gọi anh ấy cũng không thưa, cổ thì cứng đờ ra. Em hoảng quá, khóc ầm lên tưởng anh ấy chết. Sau thằng Công nó gọi bác Ba đến, khiêng anh ấy lên xích lô chở đi bệnh viện.

          – Thế cụ đâu?

          – Mẹ em đi Bắc Ninh bốc mộ cho bác em chưa về. Cụ vừa đi hôm trước thì hôm sau anh Huấn ốm.

          – Chết thật! Thế không ai trông nom anh ấy à? Mày đang làm gì thế? Ai lại để người ốm nặng nằm một mình bao giờ! 

          – Thằng Công nó đang trông anh ấy. Em vừa mới ở bệnh viện về, đang giặt cho anh ấy bộ quần áo. Xong em với chị lên chỗ anh ấy đi… Sợ cái thằng Công nó lại nhót đi chơi mất.

           Phương xem đồng hồ, ngần ngừ một lát rồi mới bảo:

           – Chị phải đi làm bây giờ… Nhỡ xe đâm ra về muộn, mà sắp đến giờ phải thay ca rồi. Thế anh ấy đỡ được tí nào chưa?

          – Cũng… đỡ rồi ạ. Khiếp, mấy hôm ấy em sợ sợ là… Chị lại đi vắng nữa. Anh ấy mê man bất tỉnh, ỉa đái cả ra quần.

          Phương hơi đỏ mặt trước câu nói ấy của Thành.

          – Thế bao giờ mẹ em mới về?

          – Chỉ tối nay hoặc sáng mai thôi chị ạ.

          – Nếu thế thì để sáng mai, cả ba người lên thăm một thể. Thông cảm cho chị nhé! Sắp đến giờ thay ca rồi đây này.

          – Sao chị lại nói thế. Chị còn phải đi làm chứ có rỗi đâu mà…

          Thành cúi xuống vò nốt cái áo. Phương bước vào nhà và bỗng thấy lo cho Huấn. Chẳng biết anh có ăn uống được gì không? Anh gầy gò như thế… Tự nhiên cô cảm thấy hơi nóng ruột.

          Đúng như Thành nói, chiều hôm ấy bà Hy về. Vừa nghe tin Huấn ốm, chưa kịp lau  mồ hôi, bà đã vội túm áo Thành bắt cô dẫn ngay lên bệnh viện, mặc dù cô bé vừa ở đấy về. Nỗi lo âu sợ hãi hiện rõ trên mặt của bà. Hết ra lại vào, hết vào lại ra, bà luôn miệng kêu khổ và thở dài không ngớt. Bà hỏi đúng một câu đã nhắc đi nhắc lại đến mấy lần:

          – Thế nó làm sao hở mày?

          – Anh ấy bị viêm não. Nhưng người ta bảo không sao đâu mẹ ạ.

          Bà Hy lăc đầu, tỏ ý không tin tưởng:

          – Hừ, không sao. Không sao mà lại phải nằm bệnh viện đến hàng tuần lễ à! Tao còn lạ gì mấy cái ông bác sĩ. Có khi con nhà người ta chết ngoéo từ bao giờ rồi vẫn còn cố động viên gia đình là cứ yên tâm thế nào cũng khỏi… Thế mày đã tận mắt nhìn thấy nó chưa? 

          – Thì con ngày nào chẳng vào trong ấy cả sáng lẫn chiều. Mẹ đừng có lo nghĩ vớ vẩn, anh ấy chết làm sao được. Đỡ nhiều rồi. Con vừa mới vào thăm về mà.

          Bà mẹ lườm cô con gái vô tư rồi khẽ chửi:

          – Tiên sư nhà mày! Chỉ được cái hết khôn dồn ra dại. Tao đẻ ra nó mà tao không lo thì ai lo?

          – Thì… con đã nói rồi. Con ngày nào chẳng vào trong ấy… Chẳng lẽ mẹ lại sợ con nói dối à?

          Chừng như không thể chờ lâu hơn được nữa, bà Hy lại giục:

          – Thôi, nhanh nhanh lên rồi còn dẫn tao đi xem thế nào chứ!

          – Vâng, con xong rồi đây.

          Thành tất tả xách cặp lồng cháo vừa mới nấu xong, cùng với bà Hy đi ra ngõ. Dọc đường, bà mẹ năm mươi ấy bị vấp đến mấy lần vì bước vội. Gặp Huấn rồi, bà mới yên tâm được phần nào. Nhưng nỗi lo người mẹ chẳng dịu đi vì theo bà, bệnh của Huấn là rất nặng. Thế mà anh chẳng ăn uống được gì ngoài mấy thìa sữa mỗi ngày.

          Sáng hôm sau, Phương lẳng lặng xách làn đi chợ sớm. Cô chọn mãi mới mua được nải chuối ngon vừa theo ý mình, tuy hơi đắt. Cô đem về, cắt rời từng quả cho vào túi xách cùng với hộp sữa tiêu chuẩn bồi dưỡng ca đêm. Rồi cô gọi với sang bên kia tấm liếp:

          – Thành ơi! Có đi lên bệnh viện không?

          – Có! Em sang ngay đây. Chị chờ em một tí.

          Phương lấy lược chải lại đầu. Không biết anh ấy nghĩ gì về mình nhỉ, nhất là khi tự nhiên mình lại đến thăm… Phương nhìn vào trong gương, mỉm cười với gương mặt tươi tắn của mình. Mái tóc đen dài, đôi má ửng hồng và cái miệng cười tươi làm cho cô không khỏi vừa ý với mình.

          Cái anh chàng ấy thật là khó hiểu. Suốt ngày cứ lầm lầm lì lì, tính nết như ông cụ non ấy. Phương không biết tại sao nhưng nhiều lúc cô cảm thấy thương thương Huấn. Tình thương ấy của cô có lẽ bắt nguồn từ những buổi tối nhìn thấy anh đang ngồi viết, những khi anh buồn bã, bất lực can ngăn ông bố hoặc những lúc anh đi làm về, cái bóng dài lảo đảo đổ trên con đường lát những tấm bê tông dẫn vào trong xóm. Nhìn dáng đi mệt mỏi, hai cánh tay thõng xuống và vẻ mặt đờ đẫn của anh, nhiều lúc Phương cũng muốn hỏi thăm nhưng anh cứ tỏ ra xa cách làm sao ấy.

          Bây giờ Huấn đang ốm. Nằm trong bệnh viện có lẽ anh đang buồn và mong đợi người nhà. Anh có biết mình sắp đến thăm không nhỉ? Ồ, sao mà mình lẩn thẩn quá thế này! Phương thầm nghĩ.

          Bà Hy và Thành đã sang. Cả ba người cùng đến bệnh viện. Cô y tá nhìn mấy người vừa rón rén bước vào phòng, khẽ dặn:

          – Bác với chị này nói ít thôi nhé. Anh ấy đang mệt lắm đấy. Mà nói nho nhỏ thôi kẻo ảnh hưởng đến người khác.

          Huấn nhận ngay ra mẹ và em gái đến thăm nhưng anh vẫn nằm im vì cái cổ cứng đờ. Thành ngồi ghé xuống bên giường, nói nhỏ:

          – Chị Phương đến thăm anh đây này.

          Huấn khẽ chớp mắt. Anh định gật đầu nhưng không được. Phương nhìn anh ái ngại. Thân hình anh đã gầy lại càng gầy thêm trong bộ áo quần bệnh viện. Khuôn mặt trắng bệch như lẫn với màu khăn trải giường, đôi mắt trũng sâu. Mái tóc anh lật ra phía sau để lộ vầng trán cao chứa đựng nhiều suy nghĩ. Những hạt gầu từ mái tóc ấy rơi xuống, lấm tấm trên nền gối.

          Bà Hy đem ca sữa và chiếc cùi dìa lại chỗ Huấn.

          – Con ăn sữa nhé!

          Đôi mắt người bệnh ấy chớp một cái. Bà mẹ run run đưa thìa sữa lên miệng con trai, cái miệng không mở to ra được. Thinh thoảng sữa lại trào ra ngoài đôi môi nhợt nhạt làm bà phải vội lau đi.

          Thành chăm chú nhìn Huấn ăn. Cô bé có vẻ đỡ lo hơn vì Huấn đã qua được những ngày mê man bất tỉnh lại có bà mẹ quán xuyến mọi công việc thay cô. Mẹ chẳng biết được mấy hôm trước anh thế nào đâu. Thành không nói và như vậy có lẽ lại tốt hơn, vì sẽ tránh được cho mẹ những lo âu phiền phức. Tuổi mười sáu của cô gái con nhà nghèo có lẽ sớm khôn hơn cái tuổi ấy của những con nhà khác.

          Bà Hy nhìn con mà như đứt từng khúc ruột. Trong mắt bà, Huấn không còn là một thanh niên đang độ trưởng thành nữa mà đã trở lại là một thằng bé con hai mươi mốt năm về trước. Đứa bé ấy đang bị ốm nặng; thần chết luôn rình rập bên cạnh nó, chỉ chực lôi tuột nó khỏi tay bà. Cái bệnh thật nguy hiểm. Nó làm con bà thay đổi hoàn toàn đến nỗi bây giờ còn sống được là nhờ vào thuốc men, ít sữa và nước cam. Vậy mà nó cũng chỉ có thể hơi hé miệng để đón nhận từng thìa nhỏ.

          Phương chỉ biết nhìn Huấn đầy thương cảm. Cô ngạc nhiên khi nghe Thành nói chứng bệnh hiểm nghèo của anh là do một loài muỗi gây ra. Làm sao có thể tin được những con muỗi bé tí kia lại là vật trung gian truyền bệnh chết người? Nhưng đó là sự thật. Nhiều thứ bệnh có thể lây lan khắp mọi nơi cũng là do muỗi.

          Phương nhìn xung quanh. Ở các giường khác có lẽ không ai bị nặng như Huấn cả. Kẻ nằm người ngồi, họ đang đọc sách hoặc nói chuyện với nhau. Có người còn nhìn cô chằm chằm, ý chừng họ đoán cô là người yêu của Huấn. Phương hơi đỏ mặt quay đi khi ánh mắt cô chạm phải cái nhìn của họ. 

           Bất chợt Phương nhận thấy trên mặt những chiếc tủ con của các bệnh nhân khác đầy ắp những đường sữa, cam chuối… Còn chiếc tủ nơi đấu giường Huấn nằm thì chẳng có gì. Cô vội mở túi xách lấy chuối và hộp sữa để lên trên đó. Cũng định nói với Huấn một đôi câu mà không được. Vì Phương biết nói gì bây giờ?

           Huấn khẽ gạt tay bà Hy, ra hiệu không muốn ăn nữa. Chiếc ca nhỏ bằng sắt tráng men mới chỉ vợi đi một ít. Bà Hy nhẹ nhàng lau miệng cho con rồi đứng dậy, đặt ca sữa lên nóc chiếc tủ con. Thấy Phương đang nhìn mình ái ngại, gương mặt Huấn bỗng đỏ lên. Đôi mắt đang mờ tối của anh hơi lóe lên những tia kì lạ. Có thể anh hơi xấu hổ vì mình buộc phải nằm ở đây mà cũng có thể vì anh không vừa ý một điều gì đó.  

           Cô y tá trẻ hồi nãy đã quay trở lại, bưng một khay thuốc tiêm và thuốc uống. Cô ngồi xuống bên Huấn, hỏi:  

           – Anh có cần gì không?

           Đôi môi của người bệnh hơi mấp máy. Cô y tá cúi xuống nghe rồi lại gần bà Hy, nói dịu dàng:

           – Bác vào thăm anh ấy đã lâu rồi. Bây giờ để anh ấy nghỉ thôi bác ạ, cháu sắp sửa tiêm cho anh ấy đây. Có gì chiều bác lại đến, nhé! – Cô quay sang phía Phương và Thành. – Cả chị với bạn này nữa.

           Bà Hy nhìn con một lúc rồi mới bảo: 

           – Thôi con ở đây nhé. Chiều mẹ lại đến.

           Thành chào Huấn rồi đi ra. Phương lúng túng mãi mới nói được:

           – Anh Huấn nằm nghỉ nhé.

           Phương chào cô y tá và những người ở trong phòng rồi đuổi theo mẹ con bà Hy. Ở ngoài hành lang, cô bắt gặp bà đang lấy khăn tay lau nước mắt. Thành hơi gắt với bà:  

          – Mẹ… buồn cười thật! Có gì đâu mà phải khóc!

          Bà Hy không nói mà chỉ khẽ lắc lắc đầu. Một cậu bé chừng bốn năm tuổi đi tới. Khuôn mặt nó tròn trĩnh rất xinh, mái tóc hơi vàng, mềm mại như tơ nuột. Phương mỉm cười với nó. Đến gần bà Hy, nó dừng lại. Đôi mắt tròn xoe đen láy của nó ngước lên đầy vẻ ngạc nhiên:

          – Bà ơi, ai bắt nạt bà thế? Sao bà lại khóc?

          Dù đang lúc không vui nhưng cả Thành và Phương đều phải bật cười vì câu hỏi ngây thơ ấy.

           Gần một tuần sau, Huấn ra viện. Sức khỏe của anh đã hồi phục được phần nào. Nhưng khuôn mặt vẫn xanh xao hốc hác. Nó như nói với những người xung quanh là anh vừa ốm dậy. 

           Sau trận ốm Huấn có vẻ tươi tỉnh hơn trước. Đôi mắt anh như sáng lên, phần nào xua đi vẻ u buồn. Có lúc Huấn lại còn khe khẽ hát một bài gì đó. Anh được nghỉ thêm mười ngày nữa. Vì thế Huấn trở thành kẻ vô công rồi nghề, suốt ngày chỉ có ăn uống và nghỉ ngơi. Nhưng anh không ngủ được nhiều. Đêm nào Huấn cũng trằn trọc hàng tiêng đồng hồ cho đến khi mệt quá mới thiếp đi dược một lúc. Còn ban ngày, anh cố gắng đi lại loanh quanh trong nhà, ra ngõ hay đọc sách.

          Cái Thành đã thôi học, nộp đơn xin học nghề ở một xí nghiệp cơ khí. Đám thằng Công, Vinh, Hạnh phải sang bên chú Hiên ở Kiến An để chuẩn bị vào năm học mới. Gian nhà nhỏ trở nên vắng vẻ và im ắng. Những ngọn gió đầu thu tha hồ ùa vào nhà khiến cho những bức tranh, tờ lịch trên tường kêu loạt soạt.

          Phương và Thành đang nấu cơm ở dưới bếp. Hai chị em vừa đẩy củi vào cho lửa cháy to hơn vừa rì rầm trò chuyện. Phương rủ Thành tối nay đi xem chiếu phim ở rạp Công nhân rồi bỗng nói:

          – Này, tao thấy hình như anh Huấn béo ra thì phải. 

          Thành ngạc nhiên:

          – Chị nhìn thế nào thế? Em thấy anh ấy vẫn thế mà.

          – Rõ ràng là béo ra… 

          – Đâu! Chị… đúng là mắt gà mờ rồi! 

          – Thế còn mày thì sao? Gầy lắm nhỉ? 

          – Em ấy à? Em gầy lắm. Gầy như con cun cút ấy.

          Thành khúc khích cười. Phương nhìn cô bé, đầy trìu mến. Mái tóc dài của nó lấm tấm những hạt bụi tro vừa rơi xuống. Lửa nóng làm cho đôi má cô bé đã hồng lại càng chín hồng thêm. Đôi mắt chứa đựng cả ngọn lửa chập chờn trông thật dễ thương và mơ mộng.

           Thấy Phương đang nhìn mình, Thành hỏi:

           – Chị nhìn gì em thế?

           – Tóc mày bẩn hết rồi, đầy những tro và than đây này.

           – Thế hở chị? – Thành vội kéo mái tóc về đằng trước, lấy tay phủi phủi.

           Phương buột miệng:

           – Mày hồi này có da có thịt đấy, trông xinh ghê.

           – Ứ, chị thật là… – Thành có vẻ hơi xấu hổ. – À, chị Phương này… – Cô bé bỗng ngập ngừng.

           – Gì thế? – Phương hơi ngạc nhiên.

           – Em… định hỏi chị cái này.        

           – Nói đi.

           – …

           Thành bỗng cười khúc khích với chính mình. Và như để che giấu điều khó nói, cô bé nghiêng vào phía trong, áp má xuống bên đầu gối.

           – Nhưng mà… chị không được mắng em cơ!

           Thành lại cười với vẻ ngượng ngùng. Đôi vai tròn và mái tóc của cô cứ rung lên nhè nhẹ. Phương lấy làm lạ, không hiểu tại sao nhưng cũng bật cười theo.

           – Quỷ quái ở đâu ấy! Hỏi gì thì hỏi đi xem nào. Sốt cả ruột! 

           Thành cố mím môi lại ra vẻ nghiêm trang:

           – Nhưng mà chị không được mắng em cơ!

           – Ừ, không mắng. Thử nói đi xem nào.

           Thành ngương nghịu, mặt mũi càng đỏ gay đỏ gắt. Giọng cô bé trở nên vội vã, thì thầm:

          – Em hỏi thật chị nhé, chị… có đồng ý làm chị dâu của em không?

          Phương hơi giật mình trước câu hỏi ấy. Trái tim cô như bỗng nhảy thót lên. Trong khi Phương còn chưa biết trả lời thế nào thi Thành đã quàng tay ôm lấy cô Phương, thủ thỉ:

          – Thế nào chị? Em hỏi thật đấy. Mẹ em cũng thích chị lắm. Cụ vẫn bảo là chỉ mong sau này có được đứa con dâu như chị.

          Phương khẽ trút ra một hơi thở thật dài và lại mỉm cười:

           – Quỷ quái ở đâu ạ! Thế mà cứ ngập ngà ngập ngừng mãi. Nhưng mà… lấy ai nào? Mày có hai anh trai cơ mà!

          Bàn tay của Thành cầm que củi đang cháy dở cứ vạch mãi những đường chằng chịt xuống hòn gạch ở cửa bếp.

          – Anh Huấn.

          – Thế à? – Phương hỏi lại, không một chút ngạc nhiên.

          Hừ, chẳng lẽ Huấn nói gì đó với cái Thành?… Phương hơi giận dỗi, có cảm giác máu dồn lên mặt. Không, có lẽ không phải là như thế, cô thầm nghĩ. Con bé này làm sao hiểu được mình. Và cả anh Huấn nữa. Chẳng bao giờ để ý đến một cái gì… Anh có biết, đã bao nhiêu lần Phương ghé mắt nhìn qua khe liếp và thương anh đến thế nào… Nhưng tại sao anh lại cứ hờ hững, hững hờ như thế? Còn bây giờ…

          Thành chờ mãi không thấy có câu trả lời nên lại giục: 

          – Kìa, chị Phương… Chị thấy thế nào? 

          – Mày… Đúng là vớ vẩn! Nhỡ anh ấy không thích tao hay có người yêu rồi thì sao? 

          – Không, – Thành khẽ lắc đầu. – Anh ấy chưa có người yêu đâu mà chắc cũng thích chị. Phải mỗi tội anh ấy không dám nói ra thôi. Em biết mà.

          – Chị có người yêu rồi! – Phương buột miệng trong vô thức.

          Thành lặng người đi một lúc. Cô bé từ từ buông cánh tay đang ôm ngang người Phương. Mãi sau cô mới khẽ nói:

          – Em biết ngay mà! Anh ấy…

          Phương vội cắt ngang:

          – Em đừng hiểu sai cho chị. Chị biết anh ấy là người tốt, nhưng biết làm thế nào được. Mà nhỡ anh ấy có người yêu rồi thì sao?

          Thành lắc đầu buồn bã:

          – Chưa. 

          – Không phải chị nghĩ ngợi, so bì gì đâu. Nhưng mà đang lúc bom đạn thế này… Với lại, ai vội nghĩ đến chuyện ấy làm gì.

          – Nhưng mà có phải ngay bây giờ đâu. – Thành vội nói như vớt vát. – Là em chợt nghĩ ra như thế. Anh em cũng có biết đâu mà.

          – Biết làm thế nào được! – Phương khẽ thở dài và thật bất ngờ với chính mình, cô  tiếp. – Chị có người yêu rồi, ở cùng xí nghiệp. Anh ấy là thợ điện.

          Thành vùng vằng đứng dậy, không nói thêm gì nữa. Còn lại một mình, Phương cũng ngồi im, mắt đăm đăm nhìn vào ngọn lửa. Chao ôi, tại sao con người ta lại cứ phải lừa dối cả chính mình như thế?

          Thấy em gái mặt mũi sa sầm, Huấn liền hỏi tại sao nhưng Thành im lặng. Chắc nó có chuyện gì đó không muốn nói. Huấn nghĩ thế nên cũng không gặng thêm. Anh xách chiếc cuốc dựng ở đầu nhà, ra vườn cuốc đất mà không biết rằng Thành đang buồn và giận Phương. Thậm chí cô bé còn chực khóc. Trước lúc hỏi Phương câu ấy, cô cứ đinh ninh là thế nào chị cũng đỏ mặt và cười thay cho câu trả lời. Nhưng không ngờ mọi cái lại khác hẳn.

          Hai chị em vốn thân thiết với nhau là thế. Chuyện gì Thành cũng nhỏ to với Phương. Còn Phương thì với những hiểu biết của mình cũng không ngại chia sẻ cho cô những điều cần thiết, với tình cảm của một người chị gái. Hai người hợp tính hợp nết nhau và chưa hề xích mích bao giờ. Cho đến hôm nay…

          Thực ra việc Thành vừa hỏi cũng chỉ như một hành động bột phát, không được cô bé nghĩ kĩ càng từ trước. Theo sự phỏng đoán của Thành thì anh Huấn và chị Phương cũng mến nhau. Nhất là Phương thì Thành biết rõ. Từ hôm anh Huấn ốm, chị tỏ ra chú ý chăm sóc anh đặc biệt. Nhiều lần vừa đi làm về xong, chưa kịp nghỉ ngơi chị đã giục Thành cùng đi vào chỗ anh nằm, đem theo những món quà nho nhỏ. Tuy Thành không bận, chị vẫn bảo cô đưa quần áo cũ của Huấn sang, vá hộ. Vai và lưng áo mới hơi sờn, Phương đã cẩn thận vá trong với kiểu khâu lại mũi giống như tích kê[6]đều tăm tắp. Khi thấy những đường khâu như máy ấy, Huấn không khỏi ngạc nhiên hỏi:  

           – Ai vá mà đẹp thế này?

           Thành biết Phương đang có nhà liền hất hàm sang bên ấy, cười khúc khích:

           – Thì còn ai nữa!

           Huấn ngắm đi ngắm lại mãi chiếc áo trước khi mặc vào người và cứ nắc nỏm  khen mãi người con gái khéo tay có những đường khâu thật đẹp.   

           Vậy mà bây giờ… Càng nghĩ, Thành càng thấy bực. Hay là chị ấy nói thác đi như thế thôi? Cô bé tự hỏi nhưng rồi lại gạt ngay ý nghĩ ấy của mình. Không thể nào là nói dối được. Rõ ràng lúc trả lời Thành, chị có vẻ buồn buồn. Đúng rồi. Trong trường hợp như vậy, để giấu tình cảm thật của mình, người ta thường phải nói tránh đi. Đằng này chị ấy lại làm một câu gọn lỏn: “Chị có người yêu rồi”. Thành không muốn tin điều đó là sự thật. Ừ, mà biết đâu được đấy. Chị Phương đi làm đã gần ba năm nay, nghĩa là đã gần ba năm va chạm, tiếp xúc với đủ loại người. Thỉnh thoảng vẫn có những anh chàng ăn mặc bảnh bao đi xe đạp mới toanh đến đây tìm chị. Chị bảo chị không ưa bọn họ và đã có lần lánh mặt không muốn tiếp. Nhưng Phương giải thích như thế nào về những đêm sau ca hai[7] về rất muộn? Thành hoài nghi sự chân thật của Phương. Ai có thể biết được lúc tiếp xúc với bên ngoài, chị ấy thế nào? Mười chín tuổi. Nhiều chị đã có chồng. Vậy thì tại sao Phương lại không thể yêu được chứ! Và tại sao lại phải yêu anh Huấn trong khi nhiều người khác lại có vẻ đẹp trai hơn, khá giả hơn vẫn lượn lờ quanh chị?

          Nhưng chẳng lẽ Phương lại không có tình cảm gì với anh Huấn? Thật vô lí. Có một lần, nhìn thấy bức ảnh Phương tặng Thành – kiểu ảnh đã được phóng to lồng trong khung kính, Huấn tỏ ý rất ghét và cho đó là biểu hiện không đứng đắn. Thành đem chuyện ấy kể lại với Phương khiến Phương tự ái, giận Thành đến đỏ mặt. Mấy hôm sau, Thành sang chơi, không thấy tấm ảnh ấy nữa. Cái khung kính bây giờ đã được tấm ảnh khác lồng vào. Thành hỏi, thì Phương nói là đã xé tấm ảnh cũ đi rồi. Cô bé không tin nhưng rồi tình cờ nhìn thấy những mảnh vụn của tấm ảnh ấy trong sọt rác bên vại nước. Có mảnh còn nguyên một mắt, nhìn cô như giễu cợt.

          Rồi những lần Phương hỏi Thành về đời tư của Huấn. Những là anh học ở đâu, sao lại đi làm công nhân, có người yêu chưa… Nếu không có cảm tình gì thì tại sao chị hỏi thế? “Nhiều lúc chị muốn nói chuyện với anh ấy mà khó ghê cơ”. Phương đã từng nói với Thành. Thế mà hôm nay chị lại thẳng thừng từ chối.

          Thành biết Phương là người tốt. Chị để ý chăm sóc cô từng li từng tí. Với những gì Thành sai, chị nói thẳng, giúp đỡ đến nơi đến chốn. Những lúc cuối kì lương của bố và anh Huấn, túng tiền, mẹ phải chạy đi vay mượn ít nhiều. Gặp khi Phương ở nhà, chị vui vẻ lấy bớt từ số tiền dành dụm của mình, cho vay không chút ngại ngần. Thành nhớ có lần cô chợt thấy giữa quyển sách học của mình một tờ giấy bạc năm đồng còn mới. Yên chí đó là tiền của anh Huấn, cô liền đem đi chợ. Về sau, hỏi anh cô mới biết mình nhầm và nghĩ ngay đến chị Phương. Còn ai vào đấy nữa! Nhưng Phương kiên quyết không nhận là chị đã lén để vào. Tất nhiên là chị cũng không nhận tiền Thành trả lại. “Có phải tiền của tao đâu mà tao lại lấy của mày!”

          Sau lần ấy, Huấn nghiêm nghị nói với Thành:

          – Thành ạ, nhà mình không có nên nhiều lúc phải đi vay mượn. Sự giúp đỡ của bất cứ ai đối với mình cũng đều đáng quý. Nhưng đừng bao giờ trông đợi vào sự giúp đỡ của người khác. Anh khuyên em không nên như vậy. 

          Thành không biết nói gì nữa. Là con của một gia đình nghèo, cô gái đang tuổi ăn tuổi lớn ấy thật giản dị trong cách ăn mặc. Áo thường chỉ có hai màu: nâu và xanh nước biển. Chỉ may theo một kiểu: chít li, cổ lá sen. Còn chiếc áo trắng may bằng vải pôpơlin Trung Quốc anh Huấn được mua phân phối[8] ở xí nghiệp thì chỉ những dịp lễ tết hoặc đi đâu cô mới mặc. Quần của cô cũng thế, thường là vải phin đen và phíp. Có chiếc quần lụa mới may cô cũng để dành. Một đôi dép cao su đế mỏng thay cho đôi guốc cao gót[9] mà các cô gái khác vẫn đi. Thành cũng chưa dám mơ đến một ngày nào đó sẽ mua được một chiếc xe đạp cho mình. 

          Nom dáng dấp bên ngoài, Thành có vẻ giống một cô gái nông thôn với mái tóc dài hay bện đuôi sam và gương mặt hiền lành, thùy mị. Cô rất chăm làm, biết thương cha mẹ, các anh và các em. Suốt ngày lúc nào cô cũng vui vẻ, động chân mó tay vào hết việc này đến việc khác. Và giọng hát của cô thỉnh thoảng vẫn cất lên nho nhỏ, tuy không hay và thường là sai nhạc. Thanh bạch, dịu dàng và trong sáng, tâm hồn cô chưa vẩn chút bụi đời. Cô ngây thơ nhìn cuộc sống bằng cặp mắt hoàn toàn tin cậy. Song không phải vì thế mà cô không có những phút giây mơ mộng.

          “Những người nghèo chẳng có gì khác ngoài lòng tự trọng. Giấy rách phải giữ lấy lề em ạ”. Thành chợt nhớ câu nói của anh Huấn cách đây không lâu. Ừ, hay là chị Phương chê gia đình mình nghèo? Có thể lắm. Cô bé bỗng tủi thân. Lại còn luôn luôn bất hòa nữa chứ! Tính ông bố mình thì ai mà ưa được! Thành nghĩ. Nhưng sự giúp đỡ nhiệt tình của Phương trong mọi việc thì sao? Có lẽ nào lại như thế, Thành ơi! Ừ, mà cho dù chị Phương có suy nghĩ thế nào thì chị cũng chẳng có lỗi gì…  

          Việc anh Hải đi bộ đội làm giảm mất một nguồn thu nhập tuy không nhiều nhưng cũng ảnh hưởng tới việc chi tiêu của gia đình. Dù anh Huấn mong cho Thành tiếp tục học lên, cô  cũng chỉ cố được hết lớp tám. Từ lần khai giảng năm học mới tới đây, lớp cô sẽ  lại vắng đi một người nữa. Những mùa hoa phượng đầy ước mơ rạo rực qua rồi. Cô đang chuẩn bị bước vào cuộc sống. Đầy gian khổ và khó khăn đấy, nhưng cô không thể nào chùn bước hay sợ hãi. Chưa hình dung hết mọi việc đến với mình, Thành vẫn tin rằng cô sẽ vượt qua được những thử thách dù to lớn đến chừng nào đi nữa của cuộc đời.

          Những ngày sau, Phương thấy Thành có vẻ dè dặt hơn mỗi khi tiếp xúc với cô. “Có lẽ nó giận mình, thật đúng là đồ trẻ con”. Phương nghĩ thế và ngày ngày vẫn đi làm, định bụng lúc nào rỗi sẽ nói chuyện nhiều với nó sau.

          Hết ca đêm, Phương cầm miếng xà phòng ra bể nước của nhà máy rửa tay. Ánh nắng sớm như ngỡ ngàng, nhảy nhót trong cái bể đầy ăm ắp nước. Phương vốc nước lên rửa mặt. Cái mệt mỏi như biến đi đâu mất. Cô khoan khoái hít một hơi dài bầu không khí trong lành. Vẻ mặt tươi tắn hẳn lên, những sợi tóc mai dính nước bết vào hai bên thái dương, cô tháo chiếc mũ bảo hộ lao động trên đầu, để xổ xuống một mái tóc đen óng mượt.

          Chia tay với mấy đứa bạn cùng ca xong, Phương lững thững đi từng bước trên con đường quen thuộc nhưng chẳng mấy chốc đã về đến đầu xóm. Cô ngạc nhiên không hiểu tại sao người ta xúm đông xúm đỏ trước cửa nhà mình, bàn tán ồn ào. Lại một đám đánh nhau hay trộm cắp gì chăng? Phương tự hỏi rồi gạt bỏ ngay điều ấy vì linh tính như báo cho cô một chuyện chẳng lành.

          Thấy Phương về, mọi người bỗng nhiên im bặt. Thành từ trong nhà chạy ra, ôm chầm lấy cô và òa lên nức nở:

          – Chị Phương ơi, anh Huấn em… chết rồi!

          – Trời đất ơi! Sao lại thế? – Phương bỗng rùng mình một cái.

          – Em… không biết, hu hu… 

          Cái túi xách suýt nữa thì tuột khỏi tay Phương. Cô không muốn tin vào đôi tai mình nữa. Nhưng thái độ của Thành và những người xung quanh đã nói lên tất cả. Phương nắm chặt chiếc quai túi, bước vào nhà.

          Bà Hy đang vật vã khóc ở đầu giường Huấn. Chiếc màn trắng vẫn buông sùm sụp bây giờ đang rung lên vì bàn tay run rẩy bấu vào. Phương lảo đảo đứng dựa vào tường cho khỏi ngã, hai mắt bỗng cay sè.

          Hàng xóm láng giềng kéo đến mỗi lúc một đông thêm. Người ta nhốn nháo hỏi nhau:

          – Sao, cái gì thế hở các bà?

          – Thằng Huấn nó chết rồi! 

          – Chết rồi à? Sao lại nhanh thế? Chiều qua tôi còn nhìn thấy nó cơ mà!

          – Đâu như nó bị cảm, chết từ đêm ấy!

          – Khổ quá, cái thằng ấy nó hiền hiền là… Thế này bà lão mất nửa con người rồi còn gì. Sao giời lại không có mắt thế hở giời!

          – Ừ, cái thằng Huấn này nó hiền lắm cơ. Chẳng chơi bời đồng đảng gì bao giờ. Suốt ngày chỉ có đi làm xong lại về…

          – Thôi thôi thôi! Xin các bà! Mời các bà về hết đi cho! Người ta đang nẫu ruột nẫu gan thế này mà còn cứ đứng đấy bàn ra tán vào mãi!

          – Cái nhà ông khỉ gió này làm cái gì mà ghê thế? Ông chỉ biết nói mình ông thôi à?

          Giọng nói của bác Ba xích lô hạ thấp xuống một chút và hơi nhỏ lại:

          – Tôi không nói một mình tôi nhưng các bà đến đây chẳng được cái gì lại làm cho người ta buồn thêm. Thôi về đi, về hết đi, khổ lắm, đứng mãi ở đây làm gì.

          Ở gần nhà bà Hy hơn một số gia đình khác, bác Ba là người đầu tiên chạy đến ngay sau tiếng kêu giật giọng của bà. Bác xem xét kĩ tấm thân lạnh toát của người con trai đã hơi cứng lại và hiểu ra rằng muộn mất rồi. Vì thế chẳng ai còn nghĩ đến việc đưa Huấn đi cấp cứu. Bây giờ, sau khi đã tìm hết mọi lời an ủi bà Hy nhưng vô hiệu, bác đành phải cùng những người hàng xóm tản mát ra về. Chỉ còn lại mấy đứa trẻ hiếu kì đứng ngoài cửa ngơ ngác nhìn những người đang khóc lóc trong nhà. Bọn chúng nào có nghĩ ngợi gì xa hơn là từ nay, không còn ai thỉnh thoảng kể chuyện cho chúng nghe vào buổi tối, những hôm trăng đẹp. Nhưng tại sao anh Huấn lại chết một cách bất ngờ như thế thì chúng không hề biết mà cũng chẳng quan tâm. Trái lại, chúng còn ào ào rủ nhau đi xem anh Huấn chết.   

          Phương đã nén lại được cảm xúc của mình. Cô lấy khăn lau nước mắt rồi lựa lời khuyên giải bà Hy để bà đỡ đau buồn. Mắt sưng mọng lên, đỏ sọc, giọng nói của bà đứt ra từng quãng, lẫn vào tiếng nấc:

          – Khổ quá, cô ơi! Chiều hôm qua nó kêu mệt, chẳng chịu ăn gì cả. Tôi ép mãi… nó mới ăn được lưng bát cháo… Thế rồi nó đi nằm. Ai biết được, nó trúng cảm… nó chết từ bao giờ… Đến lúc tôi vén màn… gọi mãi nó vẫn không thưa… tôi mới biết… thì nó đã lạnh toát mất rồi… Ối giời đất ơi! Ối con ơi! Con cướp công cha công mẹ con đi, Huấn ơi!

          Thành đã thôi khóc được một lúc, bây giờ lại òa lên. Phương cắn chặt vành môi đển bợt ra để ngăn hai dòng nước mắt nhưng không được. Cô chỉ còn biết túm lấy tay áo của bà Hy, khẽ lắc:

          – Thôi bác ơi! Bác khóc thế chứ khóc nữa anh ấy cũng có sống lại được đâu. Bác bình tĩnh lại đi…

          Nghe câu nói ấy, bà mẹ càng tru tréo lên thảm thiết: 

          – Ối con ơi là con ơi! Con bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ các em con còn nhỏ dại mà con đi một mình, Huấn ơi! Ối giời đất ơi! Ơ… ớ… i con ơ… ơ… i! Huấn ơi!

          Tiếng gào khóc của bà Hy khiến Phương run lên lần nũa. Sự đau đớn của bà mẹ mất con đã lan sang cả cô. Cũng đúng vào lúc ấy cô chợt nhận ra rằng từ nay, không bao giờ cô còn được nhìn thấy anh nữa. Không bao giờ nữa!

          Người ta liệm Huấn vào buổi chiều hôm sau. Họ cố chờ xem thằng Hải có tranh thủ về được không nhưng hai bức điện khẩn được gửi đi vẫn không thấy hồi âm. Có thể nó đã chuyển sang nơi khác mà cũng có thể người ta không cho nó về vì tình hình chiến đấu đang cần. Và cũng có khi… Ai mà biết được!

          Ba đứa em của Huấn từ bên Kiến An đã về đông đủ, không cần ai phải báo tin. Sáng hôm qua, ăn cơm xong tự nhiên thằng Công thấy nóng ruột quá. Không biết có chuyện gì xảy ra với gia đình mình, nó vẫn giục hai đứa em về bằng được. Hợp với ý muốn của chúng, hai đứa kia đồng ý ngay. Thế là cả ba đứa lếch thếch cuốc bộ hơn chục cây số về nhà vì chúng nó không đủ tiền đi xe nữa.

          Ba đứa con trai ấy khóc theo ba kiểu khác nhau; mỗi đứa có một cách thể hiện tình cảm của riêng nó. Thằng Công, môi mím chặt, nhìn trừng trừng vào một nơi rất xa nhưng nước mắt nó cứ ứa ra. Thằng Vinh ôm mặt khóc sụt sùi còn thằng Hạnh thì ngơ ngác nhìn xung quanh, chỉ khi nào người ta khóc nhiều nó mới mếu máo, đưa ống tay áo dài cáu bẩn lau nước mắt. Nhưng cũng giống như cái Thành, đứa nào cũng cảm thấy xót xa vì mặc dù còn nhỏ tuổi, chúng cũng biết rằng mình vừa mất đi một cái gì đó vô cùng quý giá mà chẳng bao giờ, chẳng cái gì có thể bù đắp được. Không chỉ vì người anh lớn của chúng đang nằm đây, mà còn là tình cảm sâu nặng của anh đối với các em và tình cảm của những đứa em đối với anh, người mà chúng thường rất tự hào mỗi khi nhắc đến. Thế mà anh chúng lại chết rồi! 

         Anh của chúng nằm đây, bình thản trước những lời khóc than của mẹ và các em cùng những lời chia buồn của bà con hàng xóm. Anh Huấn đã chết rồi. Nghĩa là từ nay trở đi, chúng nó vĩnh viễn mất một người anh hết lòng vì chúng nó, tuy đôi lúc anh có đánh đấy, mắng đấy, nhưng có lần vừa quẳng roi đi thì nước mắt anh lại chảy ra giàn giụa. Chính những giọt nước mắt anh cố giấu không được ấy làm cho chúng thấm thía hơn cả roi đòn.

          Ông Hy cũng đã về. May mắn cho ông là chuyến đi này kết thúc sớm hơn dự kiến. Nếu không, chắc là ông sẽ không kịp nhìn mặt con lần cuối. Nghe tin sét đánh, mới về đến đầu ngõ ông đã chạy vội vào nhà. Khom người bước qua cửa, ông im lặng không nói một câu nào. Ông từ từ bước lại bên chiếc quan tài mộc[10] còn chưa đậy nắp, đứng sững như một pho tượng, nhìn Huấn rất lâu. Rồi vẫn không hề hé răng, ông nặng nề bước về phía ban thờ, đôi mắt đỏ vằn lên những tia máu như mỗi khi ông say rượu. Ông đốt một nắm hương, cắm vào cái ống bơ sữa bò đựng đầy gạo được dùng làm bát hương tạm trên chiếc bàn xộc xệch mà Huấn vẫn thường ngồi viết. Trên mặt ống bơ, tàn hương đã phủ một lớp dày, chi chít chân hương. 

          … Từ nãy, Phương chỉ biết đứng im một chỗ, nhìn quanh bằng đôi mắt đói ngủ  hơi có quầng thâm nhưng ráo hoảnh. Day dứt trong lòng Phương là những điều cô chưa một lần nói với anh. Cùng với đó là sự tiếc thương và sự bất ngờ đến lạ lùng. Không ai có thể nghĩ rằng Huấn lại đột ngột ra đi như thế. 

          Thật oái oăm là vào đúng lúc này Phương lại chợt nhận thấy chưa bao giờ Huấn  mặc đẹp đến thế. Thân hình gầy guộc của anh gọn gàng trong bộ quần áo được may bằng vải simili màu be còn nguyên nếp gấp. Đôi bàn chân xương xẩu lộ ra dưới gấu quần. Kế đó là đôi dép cao su bốn quai mà anh vẫn đi, được đặt ngay ngắn ở phía dưới. Hai tay vòng lại đặt trên bụng, những ngón tay thon dài không lồng khít vào nhau được nữa khiến Phương ngạc nhiên tự hỏi làm sao anh có thể nắm chặt cán những chiếc búa rèn nặng đến mấy cân mà quai được suốt ngày. Hai bàn tay và bàn chân ấy chi chít những vết sẹo vì vảy sắt nóng bỏng bắn vào, thâm xịt. 

          Phương khẽ lật tờ giấy bản phủ trên mặt Huấn, nhìn anh lần nữa. Cái chết của anh đã giúp Phương vượt qua mọi nỗi e ngại hằng ngày. Cô đăm đăm nhìn anh một lúc lâu. Có vẻ như thần chết đã làm cho Huấn đẹp hơn bởi nước da trắng xanh của anh được màu vải và ánh đèn làm cho hồng lên. Đôi mắt nhắm lại như đang ngủ, cái trán cao có những nếp nhăn quá sớm của anh được che lại bằng một vòng khăn tang trắng theo tục lệ dành cho những người con đi trước các bậc sinh thành. Mái tóc anh được chải lật ra phía sau, nổi lên trên nền gối trắng. Miệng Huấn hơi hé mở như anh đang muốn nói một điều gì đó… 

          Nhìn vành khăn tang trên đầu Huấn và những đứa em bé dại của anh, Phương không cầm lòng được nữa. Cô khóc, và nước mắt của cô làm nhòa đi tất cả. Cái chết của Huấn khiến anh mãi mãi xa cô nhưng giờ đây, lần đầu tiên cô lại gần anh hơn bất cứ lúc nào.

          Chiếc xe ô tô sơn màu xanh lá cây của Hội đồng thiện đã đến. Người ta đậy nắp quan tài rồi giơ búa thẳng cánh đóng chặt mấy cái đinh ở ván thiên. Một đám bụi vàng vàng rơi xuống từ những chỗ mọt ở quan tài. Bốn người hàng xóm xúm vào, khiêng cỗ quan tài ra đặt lên xe. Một người nào đó không quên đặt bát cơm lồng với quả trứng và đôi đũa bông lên nắp ván. Khói hương quấn quýt bên mấy vòng hoa trắng.

           Theo tập tục quán từ xưa, ông bà Hy không đi đưa con đến nơi an nghỉ cuối cùng. Thay mặt hai ông bà là chú Hiên ở Kiến An. Bà Hy gào khóc đến khản cả tiếng, níu chặt lấy quan tài khiến Phương phải cố gỡ ra. Ông Hy thì đứng lặng trong khung cửa nhìn ra bằng đôi mắt đờ dại của người không còn sức sống. Mới chỉ qua một ngày đêm mà ông đã gầy sọp đi một cách lạ lùng và gương mặt như bỗng già thêm hàng trăm tuổi. Hai cánh tay ông thõng xuống như cánh tay của người đã chết. 

          Chiếc xe ô tô nổ máy rồi chuyển bánh chạy đi, đem Huấn đến một nơi xa thẳm tột cùng. Theo sau chiếc xe chở quan tài chỉ có mấy người đạp xe đưa tiễn Huấn. Có lẽ đó là những bạn bè cùng xí nghiệp với anh. Mấy người nữa ở cùng xóm phố. Họ đi trong đám bụi mù và ánh nắng vàng của một ngày thu rất đẹp. Một vài người qua đường dừng lại, tò mò nhìn chiếc xe tang với những vòng hoa trắng, xì xào bàn tán. 

          Qua những đường phố quen thuộc, xe hướng ra phía ngoại thành rồi phóng nhanh tới nghĩa trang. Người ta khiêng chiếc hòm dài còn nguyên những vệt lưỡi bào ấy ra khỏi xe, đặt xuống cái huyệt đã được đào từ trước. Những tảng đất đầu tiên rơi xuống kêu lộp bộp. Lũ em của Huấn khóc ầm lên khiến cho những người đi đưa cũng cảm thấy mủi lòng.

          Cũng giống như tất cả mọi người, Phương ném xuống huyệt vài nắm đất gọi là. Vĩnh biệt, anh Huấn ơi! Trước đó cô đã phân vân không biết có nên đưa Huấn đến nơi chôn cất không. Câu trả lời là có. Sự thật không phải là như vậy ư, từ lâu cô đã có cảm tình với anh. Người ta chỉ có thể giấu giếm những tình cảm của mình khi còn có thể giấu được, vì một lí do nào đó. Còn đối với Phương thì có gì đáng phải giấu nữa đâu! Không hẳn là tình yêu, và đúng là Phương cũng chưa một lần bày tỏ thái độ của cô đối với anh, mà gần đây nhất là trong cuộc trò chuyện với Thành cũng thế. Nhưng giờ đây, điều ấy còn có ý nghĩa gì! Vậy thì có gì đáng ngại đâu, khi cô đến đây để vĩnh biệt người xấu số. Những cặp mắt soi mói ư? Những lời đàm tiếu, dị nghị ư? Tất cả đều đã trở nên vô nghĩa. Hãy mặc xác những người xung quanh với những đoán già đoán non của họ!

          Phương nhìn ra bốn phía. Trước mắt cô, một bãi đất phẳng phiu, xanh rờn cỏ. Hai hàng phi lao mảnh khảnh in hình lên nền trời xanh dịu loáng thoáng vài lùm mây trắng.  Một con mương bò ngoằn ngoèo giữa cánh đồng lúa đang thì con gái, xanh tốt lạ lùng. Màu nước xám bạc lấp lánh như gương ấy nổi bật lên trên đồng lúa. Ở xa hơn là những vệt dài xanh đậm của thôn xóm và một mảng núi xanh lam mờ nhạt. Có gì thay đổi đâu, khi một người nằm xuống. Trời vẫn đẹp, những cánh chim bay vẫn nhẹ nhàng. Và tối nay, chắc hẳn nhiều đôi trai gái vẫn dạo chơi, vui vẻ trong hạnh phúc vừa mới nhóm. Những đứa trẻ con vẫn được sinh ra, cất tiếng khóc chào đời…

           Mấy chiếc lá vàng được gió đưa từ xa lại, lăn tròn trên cỏ. Nếu cuộc đời người ta cũng giống như cỏ cây, thì Huấn là một chiếc lá vừa rụng xuống. Phương ứa nước mắt vì suy nghĩ ấy khi thấy nấm mồ đã được đắp xong. Người ta đặt lên đấy mấy vòng hoa đã héo hon tơi tả vì bụi bặm và ánh nắng, bát cơm lồng và nắm hương vừa thắp. Một làn gió nhẹ ở đâu về khẽ vuốt ve những cánh hoa rũ xuống và mấy dải băng xộc xệch, rách bươm. Những làn khói hương cũng quằn quại và tàn nhang chảy dài xuống như nước mắt khóc người đã chết.  

          Tấm bia đá cũng đã được chôn xong. Trên mặt bia là những dõng chữ khắc vội, hơi thô kệch:

                                                  Lê Văn Huấn   

                                   Sinh ngày14 tháng 10 năm 1946

                                   Mất ngày 25 tháng 9 năm 1967 

                                  (tức ngày 22 – 8  năm Đinh Mùi)

                                              Hưởng thọ 22 tuổi

          Hai chữ hưởng thọ ở đây sao mà mỉa mai đến thế! Phương cảm thấy thật nao lòng. Không thể nán lại lâu hơn, cô đành phải dìu Thành ra xe sau khi ngoái nhìn lại nấm mồ lần nữa. Huấn ơi, anh hãy ở lại đây! Thế là em vĩnh viễn mất anh rồi… Phương lại ứa hai dòng nước mắt.  

          Thật ra, không phải chỉ từ khi đến ở xóm này Phương mới biết Huấn. Trước đó hàng chục năm, cô bé đã từng có vài lần theo bố đến chơi thăm hai bác. Cô gặp Huấn và thấy anh chàng này có cái gì đó hơi là lạ, không hiếu động, láu lỉnh như nhiều đứa con trai khác cùng lứa tuổi. Lớn lên, có ai ngờ họ trở thành hàng xóm của nhau! Hơn thế, chỉ cách nhau một bức vách và có người còn để lại trong tâm trí người kia những suy nghĩ vấn vương.

          Cái chết bất ngờ của Huấn làm cho Phương không khỏi bàng hoàng. Cô cảm thấy như mình vừa mất đi một người thân và sự mất mát ấy không thể nào bù đắp lại. Đống than hồng âm ỉ lâu nay chưa kịp bùng lên thành ngọn lửa đã bị tàn lụi mất rồi. Phương bỗng thấy lòng mình trống trải vô cùng. Một dáng đi quen thuộc, cái nhìn xa xôi, một nụ cười thầm lặng, câu chuyện đêm trăng sáng hôm nào… tất cả đều đã qua đi, trôi vào quá khứ, biến thành những sương khói hư vô dù cô muốn nương nhẹ, nâng niu cũng không tài nào giữ được.  

          Hơn một tháng đã trôi qua kể từ khi Huấn từ giã cuộc đời. Bây giờ anh đã mồ yên mả đẹp nhưng nếu còn suy nghĩ được, anh sẽ nghĩ gì về nỗi đau của mẹ, các em và những người thân? Trong suốt cuộc đời mình, có thể anh đã nhiều lần không nghe lời mẹ. Nhưng tại sao anh lại nỡ ra đi quá vội vàng! Chăm chút mãi cái cây mong một ngày ăn quả, mẹ anh chưa kịp vui thì đã phải đau buồn. Huấn có biết, anh đã làm mẹ thêm những nếp nhăn trên mặt, thêm những sợi tóc bạc trên đầu và thêm cả quãng đường dài đau khổ khi xế bóng? 

          Hơn một tháng trôi qua. Nó là khoảng thời gian dài nếu người ta đếm từng giờ từng phút nhưng chỉ là khoảnh khắc trong những đau thương. Cái khoảng cách thời gian ấy chưa đủ để xoa dịu nỗi đau trong lòng người mẹ. Nó sẽ còn nhức nhối rất lâu bởi đó là cái chết của đứa con mà người mẹ hằng yêu quý và gửi gắm cả cuộc đời mình vào đấy. 

          Đã mấy lần Phương thấy bà Hy ngồi khóc một mình. Trong tay bà là một thứ gì đó của người đã khuất: một chiếc áo, chiếc khăn mùi xoa hay tấm ảnh… Bà cứ ngồi lặng lẽ, mặc cho nước mắt chảy tràn xuống má. Những lúc ấy Phương hoặc Thành, cũng có khi cả hai chị em lại ngồi khuyên giải mẹ. Mẹ thôi khóc nhưng những lần sau vẫn lặp lại y như thế. Nhiều khi mẹ còn làm cho Thành phải khóc theo. Cô bé là người dễ xúc động và mau nước mắt. 

          Phương hiểu, trong tất cả những mất mát của bà Hy từ trước đến nay, đây là sự mất mát to lớn nhất. Bà thương Huấn bởi anh là đứa con hiểu và thương mẹ nhất trong đàn con đông đúc. Bà càng thương anh hơn vì trước lúc mất đi, anh không được gặp mặt các em, không kịp trăng trối một lời, có lẽ còn nhiều ân hận. Thằng Hải thì ở xa, mãi mười ngày sau mới có tin về, rằng đơn vị của nó vừa phải chuyển đi nơi khác.

          Ông Hy té ra cũng là người rất thương con. Mới đầu Phương cứ tưởng là ông sẽ im lặng (vì hai người có hợp nhau đâu!). Nhưng thật không ngờ ông lại ôm mặt khóc hu hu vào buổi tối sau khi chôn cất Huấn. Thì ra tình thương của người bố vũ phu ấy lâu nay ẩn giấu rất sâu, không để lộ ra ngoài. Có thể ông nghĩ rằng yêu phải cho roi cho vọt, nên với các con ông mới quá ư là hà tiện những lời nói nhẹ nhàng hoặc sự quan tâm nào đó? Hay ông thấy không có lí do gì để bộc lộ những tình cảm ấy của mình?

          Suốt đêm hôm ấy, người ta kinh hãi thấy ông Hy ngồi ở ngoài sân uống rượu. Cái lưng trần còng gập xuống, mái tóc xõa ra, thỉnh thoảng ông lại phát đen đét khắp người đập muỗi. Đến một lúc ông đặt chén xuống, đờ đẫn nhìn mãi vào ngọn đèn hoa kì trước mặt. Rồi ông nấc lên hai tiếng:

          – Con… ơi!         

          Mấy hôm sau, thu xếp việc nhà tạm ổn rồi ông lại ra đi, tiếp tục công việc của mình. Ngôi nhà nhỏ như chết lặng đi vì vắng vẻ. Ba đứa em trai của Huấn phải sang nơi sơ tán để tiếp tục đi học. Cái Thành thì đã đi học nghề. Chỉ còn bà mẹ đang sống trong đau buồn thỉnh thoảng ra vào như cái bóng.

          Phương quyết định sang ở bên nhà bà Hy cho đỡ trống trải và cũng là để cùng Thành an ủi trong những lúc mẹ buồn.

          Như thường lệ, vào những đêm trăng sáng, cái xóm nhỏ này lại hơi đẹp lên một chút. Tất cả các mái nhà, con đường đều được quét một lớp ánh sáng xanh dìu dịu và cũng vì thế đỡ phô ra những gì xấu xí. Một vẻ đẹp gần như giả tạo và huyền hoặc. 

          Đêm nay cũng thế. Ánh trăng gần cuối tháng càng về đêm càng sáng lạ lùng. Mặt trăng là một cái đĩa trắng ngà đã vẹt dần một bên, buông xuống những tia sáng bâng khuâng mát. Bầu trời như một cái vòm bạc khổng lồ, lấm tấm những hạt vàng xanh lấp lánh – những vì sao, không gợn một chút mây. Mọi vật hiện ra mồn một và được viền bởi những nét vàng rất mảnh: ánh trăng thu vời vợi. Hai cây phi lao ướt đẫm sương thỉnh thoảng lại đung đưa những cành lá và reo lên khe khẽ. 

          Sau một giấc ngủ dài, Phương tỉnh dậy. Xung quanh im lặng quá. Gió mùa thu man mác lùa vào, báo hiệu sắp heo may. Không ngủ được nữa, cô nằm yên ngắm trăng qua cửa sổ. Bên cạnh cô, Thành vẫn ngủ ngon lành. Ánh trăng rọi vào, đọng trên khuôn mặt còn nguyên vẻ ngây thơ của nó. Đôi môi đỏ mọng hơi động đậy, cô bé như mỉm cười trong giấc mơ dịu ngọt. Hơi thở ấm áp của nó tỏa ra, lan man trên mặt Phương. Ôi, cái tuổi dậy thì của những người con gái sao thật đẹp. Nó là lá, là hoa của mùa xuân. Nó là những ước mơ, tình cảm còn trong sạch vì chưa bị vẩn bụi đời. Nó ngỡ ngàng nhìn xung quanh với cặp mắt ngây thơ, tin cậy. Nó là tất cả những gì tươi sáng nhất của nhừng người thiếu nữ.

          Nhìn trăng, Phương lại thấy lòng mình xao xuyến. Te te một tiếng gà trong xóm cất lên. Có lẽ bốn giờ, hơn bốn giờ rồi. Bà Hy đã dậy từ bao giờ và chắc là đang nấu cám lợn ở dưới bếp. Và lại đang khóc thầm nữa đấy. Phương cảm thấy thương mẹ quá. Từ hôm ấy đến nay, mẹ gầy rộc hẳn đi vì không ngủ được lại ăn uống thất thường. Đôi mắt mẹ càng trũng sâu trên khuôn mặt bơ phờ. Mái tóc đã bạc gần hết của mẹ thưa đi; mỗi lần mẹ chải đầu lại rụng hàng chục sợi. Có cảm giác không phải mẹ đang sống mà chỉ đơn giản là tồn tại, thế thôi.  

          Thương bà Hy, nhiều lúc Phương đâm ra ghét Thành. Hình như nó chẳng lưu lại trong lòng một cái gì lâu. Nó buồn nhưng vẫn vui. Nó vẫn ngủ ngon lành khi mẹ đang thao thức. Nó vô tư như ánh nắng, chẳng bận tâm vì một cái gì… Tuy vậy Phương cũng thấy mình vô lí. Dù buồn đến đâu thì con người ta cũng không thể buồn mãi được; còn bao nhiêu việc phải làm. Cũng có lúc phải để nỗi buồn lắng xuống mà sống chứ! Không thể trách cô bé đang tuổi ăn tuổi lớn, sau tám giờ làm việc, về nhà lại xăm xắn đỡ đần mẹ bao nhiêu là thứ.  

          Ánh trăng đã loãng dần. Nó đang tự biến đi để hòa vào một ngày mới đến. Phương ngồi dậy, lặng lẽ xỏ chân vào đôi guốc cũ. Gài lại cửa màn cho Thành xong, cô rón rén đi xuống bếp.

          Đúng như Phương dự đoán, bà Hy lại đang ngồi khóc thầm. Ánh lửa chập chờn lúc soi rõ khuôn mặt của bà, lúc làm nhòa đi, biến hai mắt bà thành hai cái hố đen sâu thẳm. Bóng bà chờn vờn trên vách như đang nhảy múa, không cần biết tâm trạng của bà thế nào.

          Nghe thấy tiếng chân người, bà Hy vội vàng lau nước mắt. Phương ngồi xuống bên cạnh, hỏi:

          – Sao mẹ dậy sớm thế?

          Cô ngượng nghịu với tiếng “mẹ” vừa buột ra và cũng cảm thấy câu hỏi của mình rõ là thừa.

          – Nào có ngủ được đâu mà chẳng dậy sớm hở cô. Nằm mãi chỉ tổ ốm người thôi cô ạ. Thôi thì dậy đi cho xong.

          Bà Hy vừa nói vừa tiện tay quẳng mấy tờ giấy gì đó vào ngọn lửa. Phương ngạc nhiên: 

          – Cái gì thế hở bác? 

          – Có gì đâu, mấy tờ giấy cũ ấy mà. 

          – Bác đưa cháu xem nào. 

          – Hết rồi.

           Phương lấy làm lạ trước hành động khác thường của bà Hy. “Có lẽ cụ định giấu mình cái gì đây”. Phương biết, ngay sau khi Huấn mất, tất cả những sổ sách giấy tờ của anh mẹ đều cất vào một chiếc hòm riêng, cái Thành đòi xem cũng không được. “Tao chờ thằng Hải nó về”. – Mẹ nói thế. Nhưng hôm nay… Hay là mẹ đột nhiên thay đổi ý định và đem đốt hết những thứ ấy rồi? Phương băn khoăn tự hỏi nhưng lại hướng sang chuyện khác:

          – Sao bác không để em Thành hay cháu làm đỡ mà cứ phải vất vả thế? 

          – Thôi tôi làm cũng được cô ạ. Có mỗi cái nồi cám con con ấy mà. Em nó đi làm về mệt lại không quen dậy sớm, để cho nó ngủ. 

          – Nó đang ngủ say lắm bác ạ.

          Suýt nữa thì Phương nói ngủ say như chết ấy nhưng may thay cô kìm lại được. Cô sợ câu ấy động đến nỗi đau của mẹ. Im lặng như đã hết chuyện nói, mãi sau Phương mới tiếp: 

          – Bác Hy này, cháu hỏi thật nhé, có phải vừa rồi bác đốt giấy tờ của anh ấy đi không? 

          – … 

          – Đốt đi làm gì hở bác. Giữ lại làm kỉ niệm sau này về anh ấy bác ạ. 

          Bà mẹ nghẹn ngào:

          – Tôi… tôi chán lắm cơ cô ạ. Có phải bỗng chốc có được đứa con lớn bằng từng ấy đâu hở cô?

          Nghe giọng nói bùi ngùi của bà Hy, Phương cảm thấy lòng mình se lại. Cô vội vàng an ủi: 

          – Thôi bác ạ. Bác đừng khóc nữa. Việc đã như thế rồi, biết làm sao được. Bác khóc mãi anh ấy cũng có sống lại được đâu.   

          Bà Hy nghẹn lại, giọng run lên đầy nước mắt: 

          – Khổ quá, mỗi lần nhìn thấy cái gì của nó để lại, tôi cứ như thấy nó. Tôi chỉ muốn đốt hết đi thôi. 

          – Sao bác lại làm thế. Đừng, bác ạ!

          – Lúc nãy tôi dậy sớm định đun nồi cám lợn. Chẳng biết nghĩ ngợi thế nào tôi lại mở cái hòm ấy ra. Nhìn thấy đống sổ sách giấy tờ của nó, tôi chán quá, định đem xuống đây đốt hết. Còn quyển này, thấy nó dày lại còn nhiều giấy trắng, tôi sợ phí nên để lại đây. 

          Bà Hy đưa cho Phương quyển sổ bìa cứng được để khuất ở phía trong nên trước đó cô không nhìn thấy. Phương vội đỡ lấy quyển sổ từ tay bà mẹ. 

          – Vâng, bác đưa cháu. Cháu thử xem đây là cái gì.

          – Mà cô có biết không, – Bà Hy lại tiếp. – Nó còn để lại cả một quyển sổ tiết kiệm nữa cô ạ. Tận gần hai trăm đồng. Chắc là tiền làm thêm với lại tiền bồi dưỡng của nó, định để mua xe đạp. Còn tiền lương hàng tháng thì nó đưa hết cho tôi rồi.

          – Thế cơ ạ? – Phương sửng sốt. Gần hai trăm đồng! Một khoản tiền to đối với bất kì ai. Chắc là anh đã phải dành dụm từ lâu mới có được số tiền như thế.

          – Tiếc là chưa kịp mua thì nó đã đi rồi. – Bà Hy lại sụt sùi.

          Phương định nán lại với bà Hy thêm một lúc nữa, nhưng quyển sổ đang nóng rẫy trong tay. Phương an ủi bà thêm vài câu rồi vội vã bước ra khỏi cái bếp ấm ánh lửa và nồng nồng mùi cám. Cô lấy chìa khóa từ trong túi chiếc quần phăng[11] đang mặc rồi mở cửa gian buồng của mình, sau đó mở luôn cửa sổ cho có gió. 

          Ánh trăng theo cánh cửa mở ra, rọi vào tận giữa nhà. Phương tìm bao diêm, thắp chiếc đèn tọa lên rồi ngồi xuống bên bàn. Cô đưa quyển sổ lại gần quầng sáng. Loại sổ tay to gần bằng quyển sách, bìa xanh, có bán nhiều ở các cửa hàng mậu dịch. Quyển sổ còn mới nguyên và khá dày, có lẽ người dùng chưa viết được nhiều. Với cảm giác hồi hộp xen lẫn tò mò, Phương mở sổ ra. Qua mấy tờ giấy lót, cả trang đầu tiên chỉ có mấy dòng chữ được kẻ rất cẩn thận, nắn nót và tô đậm. Dưới đó là số năm La Mã (V) được khoanh tròn. Như vậy có nghĩa là anh đã viết đến quyển thứ năm. Nhưng anh bắt đầu viết từ bao giờ và bốn quyển kia đâu? Có lẽ bà Hy đã đốt hết rồi. Tiếc thế!

           Phương se sẽ lật mở trang đầu tiên.

                                                           NHẬT KÍ

                                                        Lê Văn Huấn

                                         Bắt đầu viết từ ngày 23 – 7 – 1967

          Hai tháng trước khi anh mất! Phương bỗng rùng mình sởn gai ốc, cứ như vừa chạm vào bàn tay của Huấn. Cô ngồi im một lát để trấn tĩnh lại rồi mới run run mở tiếp trang sau. Mình sắp sửa được biết thêm đôi chút về anh đây, anh Huấn ơi! Một bài thơ chỉ có bốn dòng, không biết của ai hay là của chính anh?

                         Tôi không muốn làm chú chim bé nhỏ  

                         Sống quẩn quanh trong một chiếc lồng

                         Tôi muốn làm đại bàng trên biển lớn

                         Xòe cánh bay lên chín tầng không

          A, anh này cũng lãng mạn ghê! Phương thầm nghĩ. Không muốn mình như một chú chim bị nhốt trong lồng. Nhưng than ôi, cái ước vọng làm đại bàng trên biển lớn của anh đã mãi mãi không thành. Phương khẽ thở dài đánh sượt, tiếc cho một con người. Cô nhấm nước bọt, se sẽ lật sang trang. Bắt đầu phần ghi chép rồi đây. Phương hơi ngỡ ngàng trước những dòng chữ nhỏ và đều tăm tắp được viết bằng mực Cửu Long màu xanh đậm. Những dòng chữ hơi xa lạ của một con người quen thuộc.

          Ngày 23 – 7 –  1967

          Nghỉ phép, về quê được mấy ngày. Xách theo một quả mít rất to nhưng phải đến mai, ngày kia mới ăn được vì nó còn chưa chín. Bắt đầu quyển nhật kí mới này bằng một bài thơ thật sự là không được hay. Nhưng tự nhận thấy nó phần nào nói lên được suy nghĩ của mình. Chỉ có điều nó cứ như một bài thơ đi mượn. Có lẽ trước mình đã có ai đó viết vậy rồi. Mà liệu mình có làm được cánh chim bay trên biển lớn không? Khó lắm! Nhưng cứ ước mơ đi đã.

           Cái anh chàng H. này ngốn hết nhiều giấy thật. Mới hôm nào mua quyển sổ bìa nâu mà đến hôm nay đã hết vèo, phải thay quyển khác, không biết được bao lâu. Nhưng cứ viết thôi, vì ngoài việc ghi nhật kí mình cũng chẳng còn thú vui nào khác. Nhật kí như người bạn của mình. Một người bạn trung thành và thầm lặng, không biết cãi cọ hay giả dối bao giờ.

           Ngày 25 – 7 – 1967

           Hôm nay mình lại nhớ tới Kim. Chẳng biết cô ta làm gì, đã có người yêu mới chưa? Cô sinh viên đại học ấy bây giờ đã có thể tự hào vì có cuộc sống tốt đẹp hơn cuộc sống của mình. Thế mới biết thời gian trôi nhanh thật. Đã ba năm rồi đấy!

          Có lẽ Kim đã quên mình từ lâu. Mà nhớ làm quái gì một anh chàng nghèo kiết xác như mình. Nhưng mình thì vẫn nhớ – ngay cả lúc này. Nhớ và buồn day dứt. Quả thật mình đã dại dột yêu đương quá sớm và có lẽ là nhầm đối tượng. Đũa mốc chòi mâm son. Người ta vẫn thường nói thế mà. 

          Đây là một lỗi lầm không thể chuộc được của mình. Giá như mình biết sớm thì đâu đến nỗi. Bởi vì gia đình Kim khá giả. Bố là cán bộ thành ủy, mẹ làm giáo viên, nhà rất đẹp ở ngay mặt phố. Kim chỉ có hai chị em, và mới vào học lớp tám đã được bố mẹ mua cho chiếc xe đạp Phượng Hoàng xích hộp[12]… Qua một đôi lần tiếp xúc, mình có cảm giác họ không ưa mình, thậm chí còn tỏ ý coi thường. Mình cảm thấy như bị xúc phạm. Phải chia tay thôi. Nhất là khi Kim ngày càng tỏ ra lạnh nhạt với mình. Lại còn “Bố mẹ em cứ bắt em phải tập trung vào việc học, không  được phép yêu đương gì hết”. Tối hôm cuối cùng ấy, trước lúc ra về mình mới nói:

          – Kim ạ, để yêu em, anh chỉ có một trái tim và một tấm lòng. Ngoài ra anh chẳng có gì nữa cả. Anh chỉ biết nói như vậy thôi. Em muốn hiểu thế nào cũng được.

          Sau này mỗi khi nhớ lại mình mới thấy câu nói ấy sao mà “sặc mùi tiểu thuyết”. Nhưng làm thế nào được. Mình không thể nói dài hơn. Tất cả hết rồi, nói nhiều cũng chẳng ích gì. Chỉ mong “hắn” sẽ hiểu điều mình muốn nói.  

          Nhưng trong lòng mình lúc ấy còn một câu khác nữa mà cô ấy không bao giờ biết được. Đó là:      

          – Kim ơi, dù sao anh cũng vẫn yêu em!

          Tiếc là em không tin tưởng ở mình. Còn bố mẹ em thì đúng là hơi quá đáng.

          Ngày 26 – 7 – 1967

          Ngày đầu tiên đi làm trở lại sau kì nghỉ phép. Bực quá vì mình gặp chuyện không hay. Trong khi tán phễu chờ đỏ[13] mọi người tự nhiên lại tranh luận với nhau toàn những chuyện linh tinh. Thằng Tâm có mẹ bán hàng ở chợ Sắt và chính nó cũng thường phe phẩy[14] đủ mọi thứ, cuối cùng khinh khỉnh bảo thẳng mình: 

          – Mày thử nghĩ xem, sống như thế liệu có được cái gì không hay chỉ chịu khổ suốt đời thôi? Chúng tao hơn mày mọi thứ nhé! Đừng có tưởng.

          “Mọi thứ” mà nó nói ở đây là những xe đạp mới, đồng hồ, quần áo đẹp, cà phê thuốc lá và những yêu đương vớ vẩn hay trò tán gái mà chúng nó gọi là “han mòng”. Quả là chúng nó hơn mình thật về mặt ấy. Hơi buồn vì “lí sự dùi đục” của thằng Tâm, mình chẳng thèm đáp lại. Nhưng sống ở trên đời, biết thế nào là hơn hay kém? Mình nhớ một câu rất hay trong Thép đã tôi[15] mà mình suýt nữa dùng để đập lại thằng Tâm: “Sống như vậy tôi không sống nổi. Sống như vậy thà chết còn hơn!”. Không bao giờ mình có thể sống như chúng nó. Bởi vì sống như thế thì tầm thường quá. Phải có cái gì đó cao hơn là miếng cơm manh áo hằng ngày chứ. Còn ước mơ, lí tưởng thì sao? 

          Cũng may mà vừa lúc ấy ông Kỉ gào toáng lên: 

          – Búa!

          Đang ngồi, mình bật luôn ngay dậy, vớ lấy búa quai lia lịa như thể cho bõ tức.

          Ngày 27 – 7 – 1967

          Lần thứ hai được nghe Phương hát. Không ngờ cô em hàng xóm ấy lại hát hay đến thế, tuy mình biết cô hay hát và hát hay. Đâu như lại còn là cây đơn ca của nhà máy toa xe. Mình nghe mà cứ lịm cả người. Giọng hát thật tuyệt vời! Hình như Phương rất thích bài Quê em nên hát đi hát lại đến ba lần. Mình định đề nghị cô ấy hát thêm lần nữa nhưng lại thôi vì sợ có sự hiểu lầm. Mặc nhiên mình là người nghe trộm. Phương không biết hôm nay mình được nghỉ bù ở nhà chứ nếu biết thì chắc gì cô đã hát tự nhiên như thế. 

          Có lẽ đây là bài hát hợp chất giọng của Phương. Mình cũng rất thích bài này. Nhạc sĩ Văn Cao tài thật! Nhưng hình như ông ấy bị dính vào vụ Nhân văn – Giai phẩm hay sao ấy nên bị cấm sáng tác. Lâu lắm rồi không thêm được bài nào. Thỉnh thoảng mới lại thấy có minh họa của ông trên báo, kí mỗi chữ VĂN in hoa ở phía trên bên phải của bức tranh. Như vậy cũng có nghĩa là Cao rồi mà!

          Ngày 28 – 7 – 1967

          “Suốt cả hôm nay trời cứ mưa đi mưa lại đến mấy lần, buồn quá! Nhìn trời, nhìn đất, nhìn mây chỉ toàn một màu xám xịt. Cảm giác của mình là lạnh lẽo, cô đơn, hiu quạnh. Sắp sửa sang tháng ngâu mà! Lại nhớ hồi xưa có lần mình cùng bọn trẻ con trong xóm đi cướp cháo ở đình Phương Viên lúc người ta cúng rằm tháng bảy. Thế mà đã hơn chục năm rồi. Bây giờ mỗi đứa một phương, chẳng biết đi đâu về đâu nữa. Nhưng nhiều đứa đi bộ đội và có lẽ có đứa đã chết rồi cũng nên.

          Mình chẳng buồn lắm đâu, nếu như không gặp lại thằng Vịnh, một đứa bạn học cùng lớp cũ. Đang đi trên hè phố sau lúc tan tầm, mình nghe có tiếng gọi liền quay lại. Thật không ngờ. Vịnh đón mình bằng nụ cười rất tươi, có vẻ thỏa mãn lắm. Nó khoe ngay là sắp được đi học đóng tàu ở Ba Lan. Các bạn cũ người đang học đại học trên Hà Nội, người đã là giáo viên cấp hai gõ đầu trẻ con rồi…

          Càng bực hơn khi thấy nó lại làm ra vẻ tiếc cho mình không được đi đại học, nếu không thì cũng sắp ra trường làm kĩ sư bác sĩ hay mèng nhất thì cũng là ông giáo cấp ba. Mình giận quá, muốn mắng cho nó vài câu nhưng rồi lại lặng im. Sau đó mỗi người một ngả.

          Tưởng rằng câu chuyện chấm dứt ở đó, nhưng những điều thằng Vịnh nói cùng với thái độ của nó cứ như một mũi dùi xoáy sâu vào suy nghĩ của mình. Ừ, cùng học với nhau một lớp, cùng một lứa tuổi sao mình lại thua kém chúng nó nhiều đến thế! Mà thực tình, mình học hành cũng không đến nỗi nào. Chẳng qua là do hoàn cảnh thôi. Mình không dám mơ đến đại học vì thời gian học sẽ rất lâu lại phải đi xa. Sợ nhất là lúc ra trường bị điều lên tận Lào Cai, Yên Bái hay Cao Bằng, Lạng Sơn gì đấy mà gia cảnh mình thì như thế này. Một lũ em dở giăng dở đèn… Mình đành phải đi trung cấp cơ điện để vừa được ở gần nhà, vừa chóng ra trường lại có việc làm ngay. Còn những chuyện khác tính sau.  

          Càng suy nghĩ mình càng thấy chạnh lòng. Nhưng đến khi bình tĩnh lại mới thấm thía rằng: muốn gạt bỏ những suy tính tầm thường không phải dễ. Mỗi con người khi sinh ra đều đã có một ngôi sao chiếu mệnh rồi. Làm sao mà khác được! Tự nói với mình như thế, vậy mà vẫn cứ cảm thấy buồn. Một nỗi buồn không thể nào phai nhạt. Có ai hiểu được cho mình không?

          Ngày 29 – 7 -1967

          Hôm nay mẹ lại nhắc chuyện thằng Đỉnh và bộ quần áo. Mình ra sức bào chữa cho nó và cho mình nhưng không ăn thua gì cả. Chán quá, con có muốn làm mất đâu, mẹ cứ nói mãi.

          Mình không ngờ thằng Đỉnh lại đểu với mình như thế. Bộ quần áo không còn mới lắm nhưng nó rất cần đối với một anh chàng nghèo kiết xác như mình. Thế mà nó lại hỏi mượn để đi chơi rồi đem bán mất, chẳng biết được bao nhiêu và nó dùng tiền ấy vào việc gì. Nghe em Thành kể lại, Phương ghét nó lắm vì đã nhiều lần nó định tán tỉnh cô ta một cách sỗ sàng. Thật ra, chẳng ai ưa được nó. 

          Thôi không viết nữa vì mẹ lại giục đi ngủ rồi mà muỗi nhiều quá, có lẽ vì mấy hôm nay trời nóng và ẩm thấp.

          Ngày 30 – 7 – 1967

          Mình đang vấp phải một chuyện hơi khó xử. Không biết giải quyết như thế nào, cho dù đây mới chỉ là phỏng đoán. Sự phỏng đoán của mình có thể là đúng nhưng cũng cõ thể sai. Nếu đúng thì sao nhỉ? Chắc là lôi thôi đấy. 

          Cô gái ấy có vẻ đang chú ý đến mình. Cũng có thể còn hơn thế nữa. Nhưng rõ ràng là thời gian gần đây, P. tỏ ra quan tâm đến “anh hàng xóm”, thỉnh thoảng lại tìm cách bắt chuyện với mình. Có lần còn đỏ mặt lên nữa chứ. Nếu không có cảm tình với mình thì sao lại thế? Nhưng… cô ấy mà yêu mình thì thật là bất hạnh. Và nếu đúng như vậy, hẳn cô mới chỉ yêu một cách rất cảm tính thôi, chứ không phải là lí trí. Mình vừa thích lại vừa mong điều đó đừng xảy ra.         

          Mình không dám coi thường P. và tình cảm của cô ấy. Trái lại, còn trân trọng nữa. Càng đáng quý ở chỗ cô không hề tính toán và chỉ hành động theo những gì mà con tim của cô mách bảo. Nhưng mình thật khó mà dám yêu P. vì bài học đối với Kim vẫn sờ sờ ra đấy. Nghe nói bố P. đang làm cán bộ huyện, biết đâu sẽ chẳng lên thành phố? Rồi thì P. nghiễm nhiên trở thành con của một ông to. Khoảng cách giữa mình và cô ấy sẽ ngày càng thêm rộng ra, không cách nào khắc phục. Vì thế mà tình cảm của mình đối với P. chỉ có thể là quý mến chứ không thể nào khác được. Cứ xác định rõ ràng như thế nhé! Đừng có mơ mộng hão.

          Ra thế! Phương chợt hiểu. Anh đã đoán biết được tình cảm của mình đối với anh nhưng lại cố làm ra vẻ hững hờ. Dẫu chưa phải là tình yêu, và sự thật đúng là như thế nhưng mình cũng đã quý mến anh biết mấy. Nhưng tại sao anh lại nỡ nghĩ như vậy chứ? Bố em còn lâu mới có thể được gọi là ông to, mà nếu to thì cũng có làm sao! Ông vẫn là một người chân lấm tay bùn quanh năm suốt tháng mà! Có khác gì đâu! Phương đọc tiếp:

          Ngày 2 – 8 – 1967

          Nhận được thư của thằng Hải. Nó báo tin khỏe, chiến đấu hăng và được lên binh nhất rồi. Nó thở than nhiều chuyện, hỏi cũng khá nhiều. Xem chừng anh chàng bắt đầu hối hận vì đã đòi đi bộ đội cho bằng được.

          Nó không chịu đựng nổi nữa nên mới tìm cách thoát li. Và cách dễ nhất để thoát li khỏi gia đình lúc này là đi bộ đội. Dù sao nó cũng nghĩ nông cạn quá; mới mười tám tuổi, cái tuổi của con gái có thể là đã lớn khôn nhưng con trai còn vụng dại. Mình tuy là anh cả thật nhưng nào có hơn gì. Trước đây mình cũng đã từng nghĩ như nó; chẳng biết mình đã đi đến đâu nếu sức khỏe của mình khá hơn một chút. Đi là thoát khỏi sự ràng buộc của gia đình về nhiều mặt và những nỗi khổ tâm không thể nào tả hết. Nhưng sau đó mình đã phải nghĩ lại vì dù sao mình cũng là con lớn. Cộng thêm vào đó, lá đơn tình nguyện của mình gửi cho Khu đội bị người ta trả lại với lí do, mình đang là công nhân biên chế, nên đi hay không là do xí nghiệp quyết định. Hơn nữa mình đi rồi, mẹ và các em sẽ ra sao? Đành  phải cắn răng lại mà chịu đựng!

          Hải viết, đã có đêm nó khóc vì nhớ nhà và hối hận nhưng không dám nói với ai. Nói, lại bị người ta cho là bi quan dao động, la “quan điểm”. Tiếc rằng nước mắt không chuộc được những lỗi lầm của con người và bây giờ khó có thể làm gì được nữa. Chỉ mong sao nó được bình an nhưng xem ra cũng khó, vì chiến tranh đang ác liệt thế này mà nó lại là lính phòng không. Chẳng trốn đi đâu được.

          Ngày 3 – 8 – 1967

          Có lẽ điều mình dự đoán về P. là đúng. Mình đang tìm cách gỡ ra. Cũng có thể phải tung tin là mình đã có người yêu rồi. Nhưng hơi khó. Thực tình, mình cũng rất mến P., mặc dù cô gái có những điểm mình không thích. Một thí dụ: tấm ảnh cô mới chụp cách đây không lâu. Một cô gái đứng đắn thì không nên, không thể chụp như thế. Quá ư điệu đà, khêu gợi. Vậy mà cái Thành lại có vẻ thích tấm ảnh mà P. tặng nó. Nó khen là đẹp. Mình phân tích cho nó hiểu, dùng những lời lẽ nặng nề. Nó sị mặt và không hề cãi lại nửa câu. Không hiểu nó có kể lại chuyện ấy cho P. nghe không. Nhưng mình biết, thời gian gần đây P. có vẻ chú ý đến mình và thỉnh thoảng lại có cái nhìn rất lạ. Có lần, cô ấy còn vá cả áo cho mình nữa, đẹp ơi là đẹp. Không nhìn kĩ thì không ai nghĩ rằng áo được vá bằng tay. Giỏi thế! 

          Mình cũng rất thương P. khi biết cảnh ngộ của cô: mẹ mất sớm, phải vất vả từ nhỏ và luôn bị dì ghẻ phân biệt đối xử với lũ con riêng của bà ta. Và có lẽ phải thế nào đó P. mới bỏ học, đi làm sớm thế. Chứ nếu không thì lúc này cô ấy đã ngồi trong giảng đường đại học nào đó rồi. Biết đâu còn ở Liên Xô, Tiệp Khắc, Ba Lan gì ấy chứ.

          Ngày 4 – 8 – 1967

          Nói thêm về việc tại sao mình ngại, không dám nghĩ đến tình cảm của P. Có lẽ  cũng giống như một câu thơ trong tập hồi kí mà mình mới đọc cách đây không lâu lắm: Áo vá vai chạy trốn tình yêu.

          Đúng là mình nghèo quá. Thật chẳng gì khổ bằng cái phận nghèo. Mà khi đã nghèo, dù có muốn, người ta cũng không làm gì được. Kể cả trong tình yêu cũng thế. Như chuyện mình với Kim đấy thôi. Người ta không chấp nhận được mình chỉ vì thấy mình nghèo, nhưng lại nói thác ra như thế. Đạo đức giả quá. Nhưng họ làm thế cũng đúng thôi vì ai mà chẳng muốn cho con mình được giàu sang sung sướng. Đành phải chia tay K. vậy!

         Không hiểu tại sao có nhà thơ lại viết “Tình chỉ đẹp những khi còn dang dở”. Như vậy có nghĩa là tình yêu không dang dở là tình yêu không đẹp hay sao? Không đúng. Mình tin rằng trong cuộc sống có nhiều mối tình đẹp đẽ mà không dang dở. Sau nhiều  năm chung sống, người ta càng yêu nhau và quý trọng nhau hơn, như trường hợp thầy Trình ở trường mình ấy. Hai ông bà tuổi mới ngoài sáu mươi nhưng đã có bốn mươi năm chung sống. Đến nhà chơi, thấy các cụ vẫn gọi nhau anh anh em em một cách thật ngọt ngào và vẻ mặt thì tràn đầy hạnh phúc. Mình nghĩ đấy là một tình yêu trọn vẹn. Còn câu thơ trên hình như chỉ muốn nói đến sự luyến tiếc cho những tình cảm đẹp mà thôi, hay sự dang dở của nhà thơ mang nghĩa khác? Người ta vẫn thường nói, con cá mất là con cá to mà lại. Nhưng mình cũng không tin được rằng mối tình dang dở của ai cũng đẹp. Như chuyện của mình và Kim chẳng hạn. 

          Mình nghĩ, bất cứ tình cảm nào của con người cũng cần phải bắt nguồn từ thực tế. Nghèo khổ quá thì cũng khó mà yêu nhau được. Không ai có thể hát mãi cái điệp khúc “Anh yêu em” nếu quên đi việc làm của cái dạ dày, của những gì che đậy tấm thân anh cùng trăm ngàn thứ bà dằn khác nữa. Thật là buồn… cười. Và cười đến chảy cả nước mắt ra khi con người ta phải chạy trốn tình yêu chỉ vì một vấn đề tưởng như nhỏ nhặt là áo rách. Bây giờ không phải là thời đại của “một túp lều tranh hai trái tim vàng” nữa rồi mà là thời đại của đồng hồ Pôngiốt, đài bán dẫn và xe đạp Mifa hoặc Diamant.

          Mình không thích cái đẹp trong tình yêu như kiểu nhà thơ nọ. Mà có lẽ ông ấy cũng không khuyên người ta chỉ nên có những mối tình dang dở. Mình muốn đã yêu ai thì phải yêu cho trọn vẹn. Vì thế mình không muốn nghĩ đến chuyện yêu đương khi chưa có một cuộc sống ổn định hơn. Mình không muốn người yêu mình phải chạy ngược chạy xuôi trong cảnh đói nghèo. Và mình cũng đang tìm cách thoát khỏi cảnh nghèo tuy xem ra chẳng dễ chút nào. Phải ra sức làm việc và tiết kiệm từng đồng một…

          Liệu có mâu thuẫn quá không, khi mà lúc này và có lẽ cả trong nhiều năm tháng nữa, mình vẫn là một người vô sản, đến cái xe đạp cũng không có mà đi. Chưa quên được, trước đây mỗi lần đi chơi với Kim lại phải mượn xe của người này người khác. Sau rồi phải dùng chính cái xe Phượng Hoàng rất đẹp của Kim… Nhưng mình tin rằng nếu chịu khó làm ăn, dành dụm thì dần dà, cuộc sống của mỗi người sẽ khác. Không có lí do gì để con người ta cứ nghèo, nghèo mãi. Các em mình rồi cũng sẽ lớn lên, chúng nó sẽ có công ăn việc làm. Nhưng tất cả đều cần phải có thời gian, không phải cái gì muốn cũng đều làm ngay được. 

          P. là một cô gái xinh đẹp, được nhiều người để ý. Mình chỉ mong em hãy yêu một ngườì nào đó yêu em và biết tôn trọng, quý mến em, có khả năng đem lại cho em hạnh phúc. Điều này đối với mình có lẽ là không thể. Áo vá vai nên đành phải chạy trốn tình yêu thôi, P. ơi.

          Ngày 5 – 8 – 1967

          Vừa tròn ba năm kể từ khi Mĩ ném bom miền Bắc. Hải Phòng đã trở thành mục tiêu bắn phá của Mĩ từ mấy năm nay. Cảng, Nhà máy xi măng, Sở dầu… bị đánh đi đánh lại đến mấy lần, bao nhiêu là người chết. Mấy chiếc cầu ở Hải Phòng đều đã bị bom phá sập hết rồi. Dân tình phải qua lại bằng cầu phao do công binh bắc. 

          Thương nhất là lần mình đi sang Kiến An vào buổi sáng, cầu Niệm vẫn còn. Một khẩu đội mười bốn li năm được bố trí ngay ở gần chân cầu, sát đường đi. Mấy anh bộ đội da đen nhẻm, đầu đội mũ sắt còn trêu ghẹo mấy cô đạp xe qua đấy. Chiều tối, lúc mình quay về thì cậu Niệm đã gãy rồi. Ụ pháo không còn nữa, xung quanh đầy những hố bom bi loang máu, những mảnh gỗ, quần áo rách và vỏ đạn còn sót lại. Nghe nói bọn Mĩ bắn rốc két và thả bom bi, tất cả đều chết hết. Không biết các anh ấy là những ai, quê ở đâu? Tất cả có lẽ đều chỉ trạc tuổi mình và thằng Hải. Đó là chưa kể những vụ chết oan vì chính quân ta. Vừa mới hồi tháng năm, tên lửa bắn máy bay Mĩ thế nào lại rơi ngay xuống giữa nội thành làm chết luôn cả một gia đình bảy tám người. Còn ở miền Nam, chiến sự cũng đang ngày càng ác liệt. Mình nghiệm thấy điều này khi đài liên tục đưa tin quân và dân ta thắng lớn. 

          Càng nghĩ càng thêm chán vì đúng vào cái ngày không đáng nhớ này, lũ em mình lại gây tai họa. Thằng Vinh và thằng Hạnh đi trêu chọc con nhà người ta để đến nỗi xảy ra đánh nhau. Một người đàn bà hơn ba mươi tuổi xộc đến tận nhà chửi bới mẹ mình. Những lời lẽ thô tục, bẩn thỉu đến nỗi làm mình phải run lên, không nói được câu nào nữa. Càng buồn hơn là mẹ bắt lời cái con mụ đáng khinh bỉ ấy. Mình ngăn cản mãi mà không được. Không hiểu tại sao lại có những người như thế; mọi việc chỉ lấy câu chửi làm đầu. Mụ này thì mình biết ngoài giờ làm việc ra còn tiếp cả khách làng chơi. Thế mà lúc mới đến xóm này, mụ đã tỏ ra khá biết điều và lại quý mến mẹ mình nữa chứ. Lúc nào cũng bác bác con con ra vẻ thân mật lắm.

          Chẳng biết ngấm ngầm thù oán từ bao giờ, tại sao lại thù oán mà chị ta làm dữ vậy. Chỉ biết đấy là một con người ghê gớm, lúc nào cũng thừa lời lẽ để chửi nhau, chấp chi nhặt nhạnh từng tí một. Thế mà cũng sống được! Không biết chị ta dạy dỗ con cái thế nào, lớn lên liệu chúng nó ra sao?

          Thương mẹ nào có làm gì nên tội. Thế mà lại bị một đứa chỉ đáng tuổi con tuổi cháu mình làm nhục, mày tao chi tớ. Buồn, giận và tức đến điên người, không còn suy nghĩ gì được nữa, mình lôi cổ hai đứa về, đánh cho một trận. Đánh xong mình mới cảm thấy rõ sự bất lực của mình. Mình khóc. Ấn tượng nặng nề buổi chiều nay còn dai dẳng trong lòng mình đến tận bây giờ.

          Ngày 6 – 8 -1967

          Hôm nay ông bố mình lại về qua nhà sau một chuyến đi. Chỉ mấy tiếng đồng hồ thôi nhưng cũng đủ làm đảo lộn tất cả. Ông chửi bới, đập phá và đánh mắng lung tung. Mình tối tăm mặt mũi nhưng biết làm sao được, vì đấy là bố mình. Thế mà người ta cũng cho ông vào Đảng! Có thể tại ở cơ quan, ông là một người thợ giỏi lại tích cực cần cù? Nhưng giá như người ta biết được ông là người thế nào trong những lúc ở nhà! Đã bao nhiêu lần thằng Công, thằng Vinh và trước đó là thằng Hải bị đánh cho gần chết. Biết bao nhiêu lần như thế rồi? Mình không tài nào nhớ hết. Liệu đến bao giờ gia đình mình mới có thể sống yên lành?

          Mỗi lần về là một lần có chuyện. Mỗi lần về là một lần mọi thứ lanh tanh bành. Rượu vào lời ra. Điên tiết lên, ông sẵn sàng đập phá tan nát hết. Mình cũng đã từng suýt chết dưới tay ông theo đúng nghĩa đen. Vì thế mà đã có lúc mình mong muốn một cách tội lỗi là: thầy cứ đi thật lâu cho mẹ con và chúng con yên ổn. Chứ thầy cứ rượu chè be bét rồi hành hạ cả gia đình như thế thì ai mà chịu nổi! Và… P. ơi, em nghĩ như thế nào về cái gia đình khốn khổ này? Em đã thấy sợ chưa?

          Ngày 8 – 8 – 1967

          Mệt quá. Chẳng muốn ăn uống gì cả. Hết giờ làm việc tưởng không còn sức về nhà nữa. Con đường hằng ngày mình vẫn đi cứ như vừa bị ai kéo dài ra vậy. Về đến nhà, mình nằm lăn ra thở, đến mười lăm hai mươi phút sau mới bò dậy được. Định đi giặt bộ quần áo bẩn thay ra từ hôm qua nhưng cái Thành nó đã giặt và gấp hộ cẩn thận rồi. Mình liền nói đùa: 

          – Cám ơn cô nhé!

          Nó cười, làm ra vẻ ngạc nhiên: 

          – Anh lạ thế! Lại còn cảm ơn! Bận sau thì đừng hòng em giặt nữa. Anh đi mà nhờ chị Phương rồi cảm ơn chị ấy.

          Nhờ chị Phương ấy à? Hay đấy! Mình im lặng. Không bao giờ mình lại làm như thế. Có mà dở hơi! Tóc dài quá mà không có tiền cắt. Thật ra là có nhưng còn phải để dành cho một mục tiêu quan trọng. Không dám hỏi xin mẹ vì chắc là mẹ cũng không còn. Đành chờ đến kì lương, mặc dù lúc ấy thì tóc mình đã xù ra như tóc thằng tướng cướp rồi. Ừ mà cứ để dài một tí thì đã làm sao! Có chết ai đâu!

          Phương dừng lại. Trang nhật kí đến đây bị ngắt quãng vì từ ngày mồng mười tháng tám Huấn phải vào bệnh viện. Bây giờ thì Phương đã hiểu ra được khá nhiều diều và thầm trách anh về điều đó. Anh Huấn ơi, anh lo xa quá làm gì! Với tình yêu anh cũng quá cẩn thận, dè chừng và suy nghĩ như một ông già. Chính vì vậy mà cả anh và em đều phải chịu thiệt thòi. Lẽ ra, chúng ta đã có thể đến với nhau. Nhưng em không thể là người ngỏ ý. Còn anh…  

          Trong muôn vàn nỗi buồn mỗi đời người gặp phải, có cả nỗi buồn khi hiểu được nhau thì đã quá muộn rồi. Phương không cảm thấy tự ái vì những nhận xét của Huấn đối với cô. Sự thật chẳng đúng như vậy sao, trong một chừng mực nào đó, Phương đã thầm yêu Huấn. Nhưng thật đáng buồn, mối tình ấy của cô không được đền đáp lại. Nó đã tan biến đi vì cái chết của anh. Nhưng dù sao Phương cũng sẽ còn nhớ mãi, không bao giờ quên được. Chắc chắn là như thế. 

          Phương thở dài và khẽ nấc khan một tiếng. Vặn bấc cho ngọn đèn sáng hơn, đôi mắt ráo hoảnh, cô đọc tiếp.

          Ngày 1 – 9 – 1967

          Đến hôm nay là vừa đúng hai tuần kể từ khi mình ra viện. Nhanh thật! Đã vào thu nên nắng vàng rực rỡ. Cây lá trong vườn xanh như được quét sơn. Gió cũng mát hơn. Nhìn cảnh vật xung quanh, mình hít một hơi dài, choáng váng. Ngày mai đã lại là Quốc khánh rồi. Được nghỉ nhưng chẳng biết đi chơi đâu nữa.  

          Chưa bao giờ mình cảm thấy yêu cuộc sống bằng lúc này. Chợt giật mình tự hỏi nếu chẳng may mình chết đi rồi thì sao? Chắc cũng chẳng sao đâu. Bố mẹ và các em có thể sẽ buồn rầu, đau khổ đấy nhưng có lẽ rồi cũng quen dần. Cũng như lúc ông bà nội mình qua đời thôi. Có ai sống mãi được với nỗi buồn đâu! Ờ, nhưng tại sao mình lại hâm đến thế này? Chẳng lẽ đây là hậu quả của trận ốm vừa qua nên đầu óc không còn tỉnh táo? Dù sao mình cũng cảm thấy vui vì vẫn còn được sống trên đời.

          Đang ngồi bên bàn suy nghĩ vẩn vơ thì Phương đem sang cho mình một bát cháo thịt vừa mới nấu xong còn bốc hơi nghi ngút. Ngon ơi là ngon! Lại nhớ đến bát cháo hành của thị Nở dành cho Chí Phèo. Không đừng được, mình phá lên cười làm cho cô ấy hơi lúng túng. Nhưng mình không dám giải thích lí do, vì thị Nở thì làm sao mà sánh với cô nàng này được! Mà mình cũng không phải Chí Phèo. Chắc là P. ngạc nhiên lắm trước thái độ của mình nên vội vàng chạy mất nhưng vẫn không quên dặn là anh ăn cháo đi cho nóng rồi còn uống thuốc.       

          Lâu không viết nên tay cầm bút cứ cứng quèo, chóng mỏi. Thôi tạm dừng ở đây vậy. Không nên cố làm gì.

          Ngày 8 – 9 – 1967

          Suốt một tuần lễ qua mình không ghi nhật kí. Đi làm lại gần chục ngày rồi mà vẫn mệt. Hơn nữa chẳng có gì đáng ghi lại cả.          

          Lại nhớ đến Vân, một cô y tá trẻ. Trong thời gian mình nằm viện, cô ấy tỏ ra chăm sóc mình chu đáo và có vẻ rất ngoan. Theo mình, đó là một cô gái khá xinh, chừng mười tám mười chín tuổi.

          Bao giờ cũng vậy, cứ đến phiên Vân trực là mình lại được cô dành cho nhiều thời gian trò chuyện. Thỉnh thoảng cô lại hỏi: 

          – Anh có cần gì không để em giúp?

          Rất ít khi mình nhờ Vân làm hộ việc gì. Kể cũng hay hay: mình là người chiếm được cảm tình của cô y tá. Mấy ông lớn tuổi hơn nằm cùng phòng với mình nháy mắt cười, nửa đùa nửa thật: 

          – Được đấy! Yêu đi thôi, còn chờ gì nữa!

          Mình nói mình có người yêu rồi nhưng họ không tin. Cũng chẳng biết nếu Vân nghe thấy thì sao. Nhưng hôm mình ra viện, Vân có vẻ buồn buồn, hẹn mình lúc nào khỏe hẳn, nếu rỗi đến nhà em chơi. Mình nhận lời cho qua chuyện vì không tiện từ chối. Song chắc là chẳng bao giờ mình đến đấy. Ngại lắm. Lấy lí do gì mà đến?

          Khi mình còn nằm ở trong viện, có lần cô ấy hỏi: 

          – Anh Huấn ơi, anh làm nghề gì hở anh? 

          – Tôi làm thợ rèn.

          Vân im lặng một lát rồi lại hỏi: 

          – Thế… anh không thể làm nghề gì khác được à? 

          – Có. Đẩy xe ba gác, đạp xích lô hay đội than đều được. Sao, nó không tốt bằng nghề y tá của cô phải không?

          – Không, em có so sánh gì đâu, nhưng nghề rèn nặng nhọc và vất vả lắm. Mà anh thì sức vóc thế này…

          Cô gái dừng lại không nói hết câu. Mình cảm thấy buồn vì câu nói ấy. Có lần cái Thành kể cho mình nghe là Phương không hiểu tại sao mình lại làm cái nghề hoàn toàn trái ngược với mình. Cũng đơn giản thôi Phương ạ. Mình từ bỏ công việc của một nhân viên kĩ thuật để khỏi phải đi sơ tán với nhà máy điện cơ. Đi xin việc khác thì ở đây lại chỉ cần người phụ rèn. Không chờ lâu hơn được, mình đành chấp nhận thôi, vì công việc này cũng dễ. Mà cũng có đến nỗi nặng nhọc lắm đâu! Búa, chỉ dùng đến loại một hai cân, còn nhẹ nhàng hơn dân thợ sắt nhiều. Hơn nữa, khi sắt thép nguội bớt rồi, lại phải đặt lên lò than nung tiếp. Đấy cũng là lúc thợ được nghỉ vài ba phút. Cũng không đến nỗi phải luôn luôn ngồi bên lò lửa. Lại còn có búa máy để rèn những chi tiết quá to và cả quạt chống nóng nữa mà! Lương cao hơn, gạo được hai mươi mốt cân, tiêu chuẩn thực phẩm cũng nhiều hơn chưa kể bồi dưỡng độc hại. Tóm lại là hơn công việc cũ nhiều. Vậy thì có gì đâu mà phải sợ? Chứ đi sơ tán ấy à, mệt lắm! Gia đình lại phải chia ba sẻ bảy, tốn kém nhiều hơn. Mình không muốn thế.

          Ngày 12 – 9 – 1967

          Chợt nhớ lại những điều nghĩ về Phương khi mình còn nằm viện. Mình ghi vào không quên mất.

          Hôm ấy, Phương đến thăm mình. Rất xúc động trước nhiệt tình của cô, mình cũng muốn cảm ơn nhưng không nói được. Rồi cô ấy nhìn mình có vẻ như thương hại hay sao ấy. Mọi cảm tình của mình đối với P. bỗng như tan biến đi đâu hết. Khó khăn lắm mình mới nói nhỏ được với Vân, là mời họ về đi. Nếu mình nói năng được bình thường thì chắc Phương sẽ được nghe câu này: 

          – Tôi không cần ai thương hại!

          Đúng là mình không chịu được sự thương hại của ai. Không thể nào chịu nổi. Nhưng mình không nói được ngay lúc ấy. Còn bây giờ thì không nói nữa vì chuyện đã qua rồi. Mà cũng có thể là đang lúc ốm đau, mình nhầm lẫn thì sao. Như cái lần hỏi ngược lại em Vân ấy. Người ta hỏi, chỉ vì muốn biết thôi. Thế thì làm sao mà phải cáu? Đúng là đôi lúc mình cũng hơi ác khẩu.   

          Phương khẽ lắc đầu. Thì ra sự thay đổi trên mặt Huấn hôm ấy có lí do là như thế. Một sự hiểu lầm đáng tiếc, vì mình có thương hại gì anh ấy đâu! Nhưng xót xa thì đúng. Phương thầm nghĩ. Cái ông này cũng hay tự ái ghê!

          – Hôm nay là chủ nhật mà anh không đi chơi đâu à?

          – Không… Mà tôi cũng đang định hỏi Phương câu ấy đây. Phương – không – đi – đâu – chơi – à? 

          – Em á? Em thì đi chơi ở đâu được hở anh?

          – Ô, cái ấy thì tôi chịu. Tôi làm sao mà biết được. 

          – À, hôm nọ em được nghe anh kể chuyện hay quá. Chuyện “Con sáo biết nói” ấy. 

          – Thế à? Phương ngồi ở chỗ nào mà nghe thấy? Tôi kể… cũng không hay đâu. Cái chính là truyện ngắn ấy rất hay, tôi rất thích. Mẹ tôi vẫn mắng tôi là to đầu còn hay chơi với trẻ con đấy.

          – Chơi với trẻ con cũng được chứ có làm sao đâu, anh. Có khi nó lại làm cho mình như sống lại những ngày còn nhỏ.

          – Cũng còn tùy. Riêng tôi, tôi thích chơi với trẻ con là vì tôi không có bạn.

          – Tại vì anh không muốn thôi đấy chứ…

          – Có khi thế thật. Chơi với trẻ con, hay ở chỗ mình không phải bận tâm suy nghĩ gì hết. Chứ chơi với người lớn, nhiều khi rất nhức đầu. À, hình như Phương có vẻ thích bài “Quê em” lắm nhỉ.

          – Sao anh biết?

          – Thì… tôi nghe thấy Phương hát đi hát lại bài ấy đến mấy lần mà. Lại còn cả bài “Ngày mùa” nữa.

          – Anh… thích nghe hát nhỉ?

          – Vâng. Tôi không bỏ qua một chương trình ca nhạc nào ở trên đài.

          – Thế mà Phương chưa bao giờ được nghe anh hát đấy nhé!

          – Tôi ấy à? Tôi mà hát thì khéo trâu bò gà lợn chạy hết mất. Như đấm vào tai những người khác ấy.

          – Làm gì đến nỗi ấy!

          – Thật mà!

          Đấy là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng Phương nói chuyện với Huấn được lâu như thế. Hình như anh luôn luôn cố ý giữ khoảng cách với cô qua từng câu nói. Gọi tên Phương và xưng tôi chứ không có anh với em gì hết. Thế mà hôm ấy, cô đã hồi hộp và cả hi vọng nữa, tưởng anh sẽ rủ mình đi chơi hoặc xem phim. Nghe nói ở rạp Lê Văn Tám đang chiếu bộ phim Chiến hạm nổ tung ở cảng của Liên Xô, hay lắm. Nhưng anh không nói năng gì đến chuyện ấy mà lại lảng đi chỗ khác.

          Ngày 13 – 9 – 1967

          Tối nay mình cảm thấy vui vui vì những chuyện mẹ kể về mình, thằng Hải và cái Thành hồi nhỏ. Phương cũng có mặt và nhiều lúc không nhịn được cười. Mẹ kể: “Cái thằng Huấn này nó dở hơi ghê lắm cơ cô ạ. Ai lại thấy bà chè chai lông vịt đi qua rao “Ai chè chai lông vịt bán” nó lại tưởng người ta bán chè chai với lông vịt, đòi mua chè chai cho nó ăn bằng được. Nói thế nào nó cũng không nghe, cứ lăn ra ăn vạ. Đến lần sau tôi phải gọi bà ấy vào, nói khó với bà ấy để bà ấy cho nó nhìn thấy mọi thứ trong quang gánh nó mới chịu thôi. Còn thằng Hải thì khiếp, ngủ ghê lắm. Nửa đêm phải đánh thức nó dậy cho nó đi giải không thì lại đái dầm, nó cứ lăn hết giường nọ sang giường kia vẫn không mở mắt ra được. Cuối cùng, cu cậu leo lên phản, ngồi xếp chân bằng tròn cẩn thận: “Con mời thầy bu xơi cơm!” Thế mà đến bây giờ đã đi bộ đội được đến gần một năm, đóng ở đẩu đầu đâu rồi!  

          Tất cả phá lên cười, mẹ cũng cười đến ràn nước mắt. Rôi mẹ tiếp: “Còn con bé cái Thành này thì cái gì cũng đòi được ăn nhiều, ăn hết luôn cả phần người khác. Có lần thằng Hải nó cáu, thằng ấy thế mà cục, nó đánh cho một trận. Con Thành về mách mẹ, anh ấy đánh con lằn cả bàn đít, sưng cả đầu mặt tay lên rồi đây này… Khổ, thấy nó khóc sướt mướt mà không tài nào nhịn được cười làm cho nó lại càng tủi thân, khóc to hơn. Nó đã biết gọi cái mông đít với khuỷu tay là cái gì đâu!”

           Ít có lúc nào cả nhà ngồi vui vẻ quây quần như hôm nay. Mình cười mãi và cho đến lúc ngồi viết những dòng này cũng vẫn còn cười vì những chuyện mẹ đã kể. Ai mà chẳng có một thời như thế, giá ghi lai được hết thì hay nhỉ. 

           Mình mới làm được một bài thơ nói về lúc mình ốm nằm trong viện và mẹ đến thăm. Bài thơ ấy như sau: 

                            Con ốm, nằm trong viện mấy ngày

                            Vừa về, mẹ đã vội lên ngay

                            Ánh mắt héo hon, lòng quặn thắt

                            Mẹ khóc nhìn con, cái xác gầy

 

                            Đời mẹ năm mươi những thở dài

                            Cuộc đời gánh nặng trĩu hai vai

                            Nhà cửa, chồng con tàn tệ thế

                            Đắng cay cơ cực suốt cuộc đời!

 

                            Con không nói được, mẹ nhìn con

                            Nhìn con, nước mắt mẹ tuôn tràn

                            Mẹ bón cho con thìa sữa nhỏ

                            Con không ăn, mẹ lại khóc luôn

 

                            Biết làm sao được, mẹ yêu ơi!

                            Mẹ được nhờ con những gì rồi

                            Hay chỉ bọn con làm khổ mẹ

                            Làm cho nước mắt mẹ buồn rơi!

                            Xin mẹ đừng buồn, cứ yên tâm

                            Rồi đây con sẽ khỏe dần dần

                            Dăm bữa mươi ngày con lành bệnh

                            Mẹ nhé yên tâm, chớ có buồn.

          Mình bất lực khi nói về tình cảm của mẹ đối với con. Làm sao nói được đầy đủ khi mà ý nghĩ của mình thì nhỏ hẹp còn lòng mẹ lại vô cùng rộng lớn.

          Ngày 14 – 9 -1967

          Hôm nay, sau khi sang Kiến An thăm ba đứa em mình, mẹ về và cho biết thím Hiên kêu ca rất nhiều về chúng nó. Bọn chúng nghịch phá, gây ra hết chuyện này đến chuyện khác vì không có ai quản lí, theo dõi được. Biết làm thế nào bây giờ! Mẹ phải bấm bụng gửi chúng nó sang bên ấy vì biết chú thím Hiên rất tốt và vô cùng chu đáo, nhà cửa lại rộng rãi đàng hoàng. Còn mẹ thì cứ phải đi đi đi về về chứ không thể ở hẳn cùng chúng nó vì còn nhà cửa, lợn gà ở bên này. Cái Thành học ở bên An Dương, xa quá, nhà không có xe đạp mà cũng chẳng tiện đường. Đến năm học này thì nó lại đi học nghề rồi, chẳng thể nghĩ đến việc sang nơi sơ tán trông nom các em được nữa. 

          Là anh chúng, mình hiểu tính nết của từng đứa một. Thằng Công có vẻ học cũng được nhưng hay khoác lác kiêu căng, nhiều khi còn đơm đặt đủ điều. Sau này, rất có thể nó sẽ trở thành một kẻ giả dối và lừa lọc, chuộng hình thức và ham chạy theo vật chất tiền tài. Thằng Vinh thì rất hư, nó có đủ tính xấu của những đứa trẻ không được giáo dục cẩn thận. Hay nói dối, hay nghịch ngợm, học dốt và lười học. Nó luôn luôn tìm cách trốn học và lại còn gian vặt nữa. Ai để hở ra cái gì là nó thó ngay, mặc dù chưa chắc nó đã biết để làm gì. Đã mấy lần nó lấy trộm đồ đạc của chú thím Hiên đem đi bán lấy tiền ăn quà. Rồi lại còn trèo cây, hái trộm từ quả mít non mới chỉ to bằng nắm tay, bưởi và hồng xiêm mặc dù không tài nào ăn được. Mình lo lắng nghĩ đến một ngày nào đó bị lưu manh hóa, không khéo nó phải đi cải tạo hay vào tù ra tội cũng nên. Còn thằng Hạnh là em út, được nuông chiều nên hay vòi vĩnh, gan lì tướng quân, hay chửi bậy và hớt lẻo. Nhưng cả ba đứa đều giống nhau ở cái tính lười nhác và láo lếu. Chỉ được thằng Hải và cái Thành là ngoan, sớm biết nghĩ và không đua đòi gì cả.  

          Cái gì đã khiến cho ba đứa em của mình như thế? Thật buồn khi phải nói rằng có lẽ phần lớn là do thái độ và cách sống của ông bố mình thôi chứ chẳng phải “con hư tại mẹ cháu hư tại bà” nào hết. Một người cha như thế, làm sao có thể giáo dục con mình tốt được. Mà cái chính, là có bao giờ ông nghĩ đến việc dạy dỗ các con đâu! Cáu lên là đánh đập, chửi bới ầm ĩ, vớ được cái gì cũng phang, cũng quật, sau đó thì thôi. Không hề có được một lời lẽ dịu dàng, bảo ban khuyên nhủ các con bao giờ. Mẹ thì hiền lành nhu nhược quá. Không tỏ ra cứng rắn bao giờ nên nước đổ lá khoai, chúng nó không nghe thì cũng đành chịu vậy. 

          Nhưng còn mình, mình đã làm được gì chưa? Đáng tiếc là chưa! Mỗi khi thấy đứa nào mắc lỗi, quát mắng không được, mình cũng bạt tai đá đít như thường. Thật đáng xấu hổ vì bất lực, không thể đưa chúng nó vào khuôn phép. Mà tính mình cũng không kiên trì được một tí nào. Chán thế. Cũng muốn sửa đấy nhưng không được.

          Nhìn vào những gia đình khác, thấy con em người ta lúc nào cũng ngoan ngoãn, chăm chỉ học hành, mình thèm được như vậy quá. Nghĩ đến nhức cả đầu cũng không tìm ra được cách nào để cho các em mình thay đổi cho bố mẹ đỡ khổ. Làm thế nào được bây giờ! Chẳng lẽ đấy lại là số phận hay sao?

          Ngày 15 – 9 – 1967    

          Mấy hôm nay cái quyết tâm của mình có vẻ bị lung lay tợn. Hay mơ mộng viển vông, cố gạt đi mà không được. Vẫn chuyện P., cô thợ phay thật hồn nhiên và xinh đẹp.

          Hay là mình cứ liều mạng yêu đi? Cả hai đứa đều đã có công ăn việc làm tử tế. Theo tuổi ta thì cũng đã hăm hai rồi chứ có ít đâu. Còn P. thì rất đảm đang tháo vát. Mẹ rất hay khen, thậm chí còn đem cô ấy ra làm tấm gương cho cái Thành học tập. Nhưng mà nhìn đâu cũng đều thấy bí. Bố mình thì như thế. Lại còn mấy đứa em láo lếu. Chẳng lẽ lại khoác lên đầu cô ấy đủ thứ tội nợ của nhà mình? Chao ôi là buồn! Giá mà không phải suy nghĩ đắn đo gì hết. Phương ơi!

          Có lẽ trót mê em mất rồi nên cứ nghĩ ngợi linh tinh thế thôi. Chỉ mong sao thời gian và công việc sẽ giúp mình quên đi được. Phải nhớ, dù sao cũng đừng bao giờ để những tình cảm yếu đuối trong con người mình thắng thế. Đừng dại dột làm khổ mình và chính người mà mình yêu mến. P. là một người rất tốt, xứng đáng được hưởng tình yêu và hạnh phúc. Em Thành cũng có nhận xét giống như mình.                                                     

          Không hiểu tại sao mấy hôm nay đôi bạn ấy lại ít trò chuyện, tâm sự hay lại giận nhau rồi? Đám con gái là hay thế lắm, hơi một tí là giận dỗi. Mà lại toàn những chuyện không đâu.

          Thế mới biết gạt bỏ được những tình cảm riêng tư không phải là một chuyện dễ dàng. Mình vẫn thầm yêu cô ấy.

          Ngày 16 – 9 -1967

          Hôm qua, đài báo đưa tin miền Bắc đã bắn rơi chiếc máy bay thứ một nghìn tám trăm của Mĩ. Mình được giao nhiệm vụ kẻ vẽ lên bảng tin của xí nghiệp cho mọi người cùng biết. Kể cũng phấn khởi đấy nhưng không hiểu tại sao cứ ngờ ngợ, không tin đây là sự thật. Một nghìn tám trăm chiếc! Liệu có nhiều quá không? Đếm không chính xác hay là có ít thì xít ra nhiều để tuyên truyền? 

          Mình cũng không thể nào tin được chỉ trong hai ngày mồng ba, mồng bốn tháng tư năm sáu nhăm mà ta có thể bắn rơi tới tận bốn mươi bảy chiếc máy bay phản lực các loại của Mĩ trên bầu trời Thanh Hóa. Ô, máy bay Mĩ đâu phải là mấy cái diều giấy và bọn phi công Mĩ là một lũ cáo già, không phải loại cà là mèng mới ra trường. Hơn nữa, hỏa lực phòng không của ta dù rất mạnh, nhưng máy bay thì vừa ít lại vừa lạc hậu. Cứ cho là bọn Mĩ có đến mười, mười hai nghìn máy bay chiến đấu các loại đi, nhưng có phải nó đem hết sang Việt Nam đâu. Còn phải bố trí ở trong nước và nhiều nơi khác trên thế giới chứ. Thế mà nếu đem cộng cả số máy bay của nó bị bắn rơi và phá hủy ở miền Nam thì có lẽ phải lên đến tận mấy nghìn chiếc rồi. Vậy thì nó còn lại được bao nhiêu? Mình sợ là cứ cái đà này thì có khi ta bắn rơi luôn cả những chiếc mà nó chưa kịp sản xuất mất!

          Tất nhiên, nghĩ thì nghĩ thế thôi nhưng mình không dám nói với ai vì sợ bị kết tội phản tuyên truyền thì chết. Tù như bỡn chứ đùa à?! 

          Ồ, nhưng mình sa đà vào chuyện này làm gì nhỉ? 

          Phương lật đến trang sau ghi ngày mười bảy tháng chín, nhưng không hiểu tại sao chỉ có ba bốn dòng lại đã bị xóa đi hết. Huấn đã viết gì? Tại sao anh lại xóa đi, không viết nữa? Có chuyện gì đã xảy ra? Không ai biết! Phương cố gắng săm soi những dòng chữ ấy nhưng không tài nào đọc được vì anh đã dùng mực Cửu Long tô đè lên từng chữ một, rất kĩ càng.

          Ngày 18 – 9 -1967

          Rằm tháng Tám. Trăng sáng quá, đẹp ơi là đẹp! Từ chập tối đã nghe thấy tiếng trống ếch thì thùm của những đám múa sư tử và rước đèn ông sao. Nhưng năm nay không khí có vẻ trầm lắng quá vì bom đạn thế này, bọn trẻ con đi sơ tán hết. Không hiểu tại sao phải đúng rằm trăng mới tròn và cả năm chỉ có rằm tháng tám mới là ngày trăng sáng nhất? Liệu ở các nơi khác trên thế giới có thế không?           

           Nhà mình đón trung thu bằng bánh nướng và bánh dẻo mua theo phiếu. P. cũng sang, ngồi được một lúc sau đó phải về để còn đi làm ca đêm. May mà ông bố mình không có nhà nên mọi sự đều êm ả. Tiếc là mẹ phải sang bên Kiến An, đến mai ngày kia mới về. P. góp cỗ bằng một quả bưởi to và rất ngọt. Ba đứa ngồi trong nhà, phá cỗ trông trăng và nói chuyện linh tinh. P. chủ yếu là chuyện trò với cái Thành, nhưng có lúc lại nhìn mình rất lạ làm cho mình cũng xốn xang nhưng chả biết nói gì. Thương quá, nhưng yêu thì khó lắm, P. ơi!

          Cái Thành đã nộp đơn xin đi học nghề ở Hải Phòng điện khí. Thợ tiện. Rồi lại đi làm theo ca theo kíp như P. Càng thấm thía câu nói của các cụ: “Cái khó bó cái khôn”. Mình những muốn cho nó học lên nữa mà không được. Nó cũng không thích đi học trung cấp sư phạm ra gõ đầu trẻ con. Nghĩ mà thêm buồn.

          Bỏ qua những trang giấy bị bỏ trống, Phương thấy còn đến mấy tờ nữa đầy kín chữ. Cái gì thế này? Phương hơi ngạc nhiên khi thấy nó được viết như một lá thư. Cô vội chăm chú đọc.

          Ngày 20 – 9 -1967

          Mẹ kính yêu! 

          Hôm nay con xin viết những dòng này về mẹ. 

          Mẹ đã tròn năm mươi tuổi. Năm mươi năm qua thì đã có tới hơn ba chục năm đời mẹ chìm trong tủi nhục đắng cay và những nỗi buồn. Mẹ phải chạy ngược chạy xuôi vì kinh tế gia đình. Mẹ khổ vì có một người chồng quá quắt, luôn hành hạ và mắng chửi. Mẹ khổ vì chúng con – những đứa con hư. Mẹ khổ đến trọn đời.

          Thế nhưng mẹ vẫn kiên trì chịu đựng, hết lòng hết sức lo lắng cho chồng cho con và cả gia đình. Chẳng bao giờ mẹ kêu ca oán trách về cuộc sống hay nếu có thì cũng chỉ than thân trách phận mà thôi.

          Con hiểu, thầy con là một người nóng tính và thô bạo. Cuộc sống lênh đênh trên sông nước và những chuyến đi xa hình như đã làm cho thầy con tiêm nhiễm lối sống lăng nhăng bừa bãi. Cái nóng ghê người ở dưới hầm tàu suốt ngày có lẽ đã ngấm sâu vào từng đường gân thớ thịt của thầy con, biến thành cái tính nóng lúc nào cũng có thể bùng lên dữ dội, không còn biết đúng sai gì nữa. Chính vì thế mà cho đến tận bây giờ, có lẽ cả đời mẹ chưa hề có một ngày hạnh phúc.

          Để dạy dỗ các con, thầy con đã dùng đến cả đuôi cá đuối, roi song, dây điện, móc thùng hay đòn gánh. Nhưng ngay cả những lúc như thế mẹ vẫn tìm cách lăn xả vào che chở cho các con, đến nỗi nhiều khi người mẹ đầy thương tích, đau đớn đến cả tuần. Không thể nhớ hết được những lần thầy con đập phá đồ đạc, hất tung cả mâm cơm giữa lúc mẹ bưng bát đưa lên miệng, rồi còn định đốt luôn cả cái nhà này. Thế mà mẹ, mẹ kính yêu của con vẫn kiên gan chịu đựng, không phải chỉ một thời gian ngắn.

          Con làm sao quên được lần gần đây nhất thầy con đánh thằng Công và thằng Vinh chỉ vì mỗi một cái bát sắt sứt men và cái liễn Trung Quốc hình quả bí bị nhỡ tay làm vỡ. Mẹ và con đều đã phải nghe chửi, hai em con phải bỏ cơm chạy đi đến tối mới về. Nào đây có phải lần đầu. Nhưng xét cho cùng, thầy con cũng không phải là người hoàn toàn xấu. Có những lúc ông cũng tỏ ra biết lo cho vợ cho con, tuy rằng vẫn hay vì thế mà kể công hoặc có thái độ của một kẻ ban ơn, ngay cả đối với mẹ.

          Con rất thương thầy con trong những khi như thế. Sau những giờ làm việc căng thẳng và mệt nhọc, trong khi những người khác được nghỉ ngơi, hóng mát hoặc đi chơi thì thầy con còn phải tìm cách kiếm từng con tôm con cá hay làm thêm một việc gì đó để có được vài đồng đem về cho vợ và các con cùng hưởng.

          Nhiều lúc ngay sau khi đánh chúng con, thầy lại tỏ ra hối hận nhưng không nói ra mồm. Tiếc rằng sự hối hận hay thương xót ấy qua đi nhanh chóng rồi đâu lại đóng đấy, chẳng có gì thay đổi. Vì thế mà những trận đòn roi, chửi mắng vẫn liên tiếp xảy ra, tưởng như không bao giờ dứt. Và tất cả mấy mẹ con ta đều không thể trốn đi đâu được mà cũng chẳng biết làm gì hơn là chịu đựng.  

          Trên đây con đã nói hơi nhiều về thầy con. Bây giờ, con xin nói một chút về chúng con. Trước hết phải thú nhận rằng chúng con là một lũ trẻ hư, chẳng làm được gì để đỡ đần cho thầy mẹ thì đã đành, lại còn gây ra biết bao nhiêu phiền toái và rắc rối. Chính vì thế mà đã bao nhiêu lần mẹ bị vạ lây hoặc phải đau lòng.

          Con hiểu, không ai thương con bằng các bà mẹ. Mẹ lại càng thương chúng con hơn. Tuy cũng có lúc mẹ buộc lòng phải trừng phạt chúng con bằng cách này cách khác, nhưng bao trùm lên tất cả vẫn là một tình thương yêu rộng lớn. Nhưng, để đền đáp lại công ơn của mẹ, chúng con đã làm được những gì? Chưa, chưa làm được gì cả. Ngay bản thân con là đứa con lớn của mẹ cũng vậy. Chỉ làm cho mẹ khổ nhiều. 

          Con mong muốn là sau này, khi đã trưởng thành, các em con khôn lớn, con sẽ đón mẹ về ở cùng với con để mẹ yên tâm tĩnh dưỡng tuổi già, bù đắp lại một phần rất nhỏ những tháng ngày mẹ vất vả vì chúng con. Nhưng con vẫn lo rằng mình không thực hiện được điều đó. Chiến tranh đang ngày càng ác liệt, và không ai biết trước được mọi việc sẽ thế nào. Con cũng hiểu, không phải cái gì mình muốn cũng đều làm được. Cũng giống như trong truyện ngụ ngôn của nước ngoài, con ễnh ương không thể phình bụng ra để to bằng con bò được. Nhưng dù sao con cũng rất mong…

          Cuối cùng, con chỉ muốn nói: – “Mẹ kính yêu! Xin mẹ hãy tha tội cho đứa con bất hiếu này của mẹ!”

          Phương lật tiếp mấy trang sau. Tịnh không còn gì nữa. Quyển nhật kí đã mãi mãi dừng lại ở đây. Bốn ngày trước khi Huấn ra đi. Không một tấm ảnh, không một hình vẽ hay dòng chữ nào thừa, quyển nhật kí cũng như chính con người anh vậy. Cũng không hiểu tại sao Huấn không viết gì thêm trong những ngày cuối cùng. Từ hăm mốt đến hăm lăm tháng chín vừa đúng bốn ngày. Anh có suy nghĩ gì trong những ngày ấy và quan tâm lo lắng đến ai? Phải chăng Huấn linh cảm thấy mình sắp từ giã cõi đời nên anh mới viết những dòng cuối cùng như thế? Đau đớn thay, dự định của anh đối với mẹ không bao giờ thực hiện được nữa rồi!

          Như một kẻ bị lãng quên, Huấn sống lặng lẽ âm thầm trong cái xóm nhỏ này và lúc chết anh cũng chết một cách âm thầm lặng lẽ, khiến cho mọi người cảm thấy bất ngờ. Cuộc đời anh, có thể nói cũng giống như cỏ, như cây, tồn tại đấy nhưng cũng dễ hòa tan vào với đất. Khiêm nhường và gần như không để lại dấu tích gì, như hàng triệu, hàng triệu con người vô danh khác, đến rồi lại đi trên trái đất này, nhưng không thể nói là vô nghĩa. Có nghĩa hay không, là ở chỗ liệu ai đó để lại được chút gì trong những người đang sống.

          Đúng là Huấn có những suy nghĩ khác hẳn mọi người về cuộc sống. Anh cũng không tránh khỏi nhiều khiếm khuyết, cực đoan. Cái thế giới nội tâm của anh dường như luôn luôn đóng kín không để ai có dịp ngó vào. Điều đó khiến những ai mới quen biết đều có thể cho rằng anh là một người khô khan, bí ẩn. Anh cứ như người đứng bên lề cuộc sống. Và cái chết của anh đã đem theo luôn cả những gì tốt đẹp nhất của một con người mà Phương đã từng hi vọng trông chờ. Nhưng phải đến tận bây giờ, cô mới hiểu ra điều đó.

          Phương gấp quyển nhật kí, gục đầu xuống bàn và khẽ thở dài. Như hiện lên trước mắt cô hình ảnh Huấn với đôi mắt sâu, cái nhìn hơi buồn và xa thẳm – buồn ngay cả lúc anh cười. Cặp mắt ấy đang nhìn Phương như muốn hỏi điều gì… Đó chính là Huấn trong tấm ảnh được phóng to, đặt trên ban thờ nghi ngút khói hương trong những ngày anh vừa mới mất.

          Đến hôm nay Phương mới có cơ hội hiểu thêm về anh một chút thì đã muộn. Hiểu thêm về tình cảm của anh đối với những người thân trong gia đình, cách anh suy nghĩ và đánh giá những người xung quanh trong đó có Phương. Quan niệm của anh về cuộc sống… Phương lấy làm tiếc vì không được đọc bất kì cái gì khác của anh. Anh đã viết gì trong những quyển nhật kí trước đây? Rõ ràng là anh đã viết rất nhiều, hết đêm này sang đêm khác cơ mà. Thế mà bà Hy lại đem đốt hết. Như một cách xóa đi quá khứ và chạy trốn khỏi nỗi đau…

          Không hiểu khi còn sống, có phút giây nào Huấn có được niềm vui và hạnh phúc không, hay chỉ toàn những nỗi buồn và thất vọng? Có vẻ như mọi cái đều bế tắc. Không nhìn thấy hi vọng ở đâu. Và cả những quan điểm hơi cứng nhắc về cuộc sống. Vậy thì làm sao mà tồn tại được ở xã hội này! Sao mà anh lại có thể buồn chán bi quan đến thế! Bao nhiêu người xung quanh anh vẫn sống được đấy thôi?

          Phương thở dài lần nữa rồi từ từ mở mắt. Cô xem đi xem lại quyển nhât kí như muốn tìm kiếm thêm một dấu vết gì đó của người đã khuất. Nhưng không, chỉ có hai tấm bìa xanh bóng loáng và những trang giấy không lấy gì làm trắng còn bỏ trống.

          Bên ngoài, trời đã sáng tự lúc nào. Ánh sáng như được trộn lẫn với một làn sương mỏng tràn vào gian buồng nhỏ của Phương, làm mờ cả ngọn đèn dầu. Sừng sững ngay trước mắt cô là hai cây phi lao của Huấn. Hai cái cây ấy im lìm chĩa những cành lá nhọn lên nền trời đang ửng hồng dần. Qua từng chùm lá kim, Phương thấy cả những mảng da trời bị chia cắt thành những hình thù dị dạng. Những cành lá ở gần gốc cây xơ xác có lẽ do bị bọn trẻ con nghịch phá gợi cho Phương cảm giác buồn buồn. Nó giống như mái tóc của một người đang rũ xuống.

          Cô gái nhìn hai cây phi lao như vừa mới tìm thấy ở đó những điều mới lạ. Thân cây khẳng khiu, sần sùi màu nâu sậm cùng với từng chùm lá in lên nền trời sáng bạc. Lại nhớ đến câu nói của Thành: “Nhìn hai cây phi lao này, em thấy nó buồn buồn thế nào ấy”. Lúc đó Phương cười, cho Thành là hay mơ mộng khiến cho cô bé tự ái, vùng vằng. Nhưng bây giờ, cô cảm thấy nhận xét ấy hoàn toàn đúng. 

          Hai cây phi lao đứng giữa trời, rễ ngày càng cắm sâu vào lòng đất. Nó cũng cắm sâu vào lòng những người còn sống một nỗi niềm thương tiếc khôn nguôi. Đó là vật kỉ niệm của người đã khuất. Vượt lên mọi thử thách của thời gian, nó sẽ ngày càng thêm xanh tốt, bất chấp nắng mưa, gió bão dập vùi.

          Trong không khí mát lành của buổi sớm mùa thu tĩnh mịch, tự nhiên Phương lại nhớ đến hai câu thơ của Nguyễn Công Trứ mà Ngô Tất Tố đã dùng để kết thúc cuốn tiểu thuyết Lều chõng của ông:

                                          Kiếp sau xin chớ làm người

                                 Làm cây thông đứng giữa trời mà reo…

Xong ngày 09 – 12 – 1970

Sửa chữa và chép lại từ 30 – 9 đến 4 -10 – 1975

(Bút danh Hoài Thu)

tác giả Hoài Thu - Nguyễn Hậu 1970

Năm 1970

 
Chuyện buồn - Hoài Thu - bìa 1975

Bìa truyện vẽ lại năm 1975

[1] Một loại tre nhỏ, thân thẳng và ruột đặc thường được dùng làm cốt trong quá trình trát bùn trộn rơm để làm vách nhà ở đồng bằng Bắc Bộ trước đây.

[2] Bổ túc văn hóa. Sau này gọi là hệ giáo dục thường xuyên.

[3] Quê mùa (tỏ ý coi thường).

[4] Thời gian này, cán bộ công nhân viên chức chưa làm việc theo chế độ thông tầm, từ sáng đến chiều.

[5] Truyện ngắn của Hoài An.

[6] Kiểu vá khi quần áo còn chưa rách hẳn. Miếng vá được đặt ở phía trong, đường kim chần phía ngoài cho đẹp.

[7] Ca làm việc từ 14 giờ chiều đến 22 giờ.

[8] Những mặt hàng được bán theo định lượng và tem phiếu về các cơ quan xí nghiệp cho cán bộ công nhân viên.

[9] Một loại guốc gỗ thời trang dành cho phụ nữ thời đó, cao khoảng 7 – 8 cm.

[10] Loại quan tài không sơn mà để nguyên màu gỗ.

[11] Quần âu. Hồi đó, nhiều phụ nữ ở miền Bắc Việt Nam khi đi ngủ vẫn thường mặc nguyên quần áo hằng ngày vì không có đồ ngủ hay đồ bộ.

[12] Loại xe đạp nữ Trung Quốc, thịnh hành ở miền Bắc Việt Nam trong khoảng cuối những năm sáu mươi và đầu bảy mươi.

[13] Chờ cho kim loại được nung đỏ lên để rèn.

[14] Buôn lậu các mặt hàng lặt vặt.

[15] Thép đã tôi thế đấy, tiểu thuyết nổi tiếng của N.Ôxtrốpxki, Liên Xô (1904 – 1936). Huân chương Lênin (1935).