Văn xuôi · 18/12/2021

HOA SIM

Đường ra trận bắt gặp nhành sim tím

Ngỡ ngàng cười bên lối ta đi

Giữa màu xanh núi rừng trùng điệp

Nhìn nhụy hoa cong nhớ hàng mi

Năm cánh hoa sim gợi nhớ màu hoa phượng

Giờ này đang đỏ lửa quê nhà

Và cũng đỏ lòng ta, nỗi nhớ

Hiểu chăng em, lòng người lính đi xa…

 

Anh chẳng muốn em làm một lan hay huệ

Dù trong đời cần lắm loài hoa

Anh chỉ muốn em giản đơn, bình dị

Như nhành hoa sim tím đậm đà

 

Khi ta hiểu tình yêu là vô giá

Không cần đâu, lời hứa hẹn đợi chờ

Màu sim tím ấy, là màu hi vọng

Sưởi ấm lòng ta trong những tháng năm xa…

2 – 1971

Mùa Xuân.

Khi chiến dịch mở ra được một thời gian thì cũng là lúc không khí ở viện quân y này sôi nổi, khẩn trương hẳn lên. Cách đó không lâu, mọi việc dường như chỉ là sự lặp đi lặp lại của những ngày qua, theo nếp cũ. Bệnh nhân ít, chủ yếu là mấy anh lính thu dung, sốt rét tụt tạt dọc đường; vài người khác thì bị thương do trúng mìn biệt kích hoặc bom nổ chậm. Lại có anh bị mất luôn bàn tay và be bét cả ngực hay hỏng mắt vì đã dại dột ném lựu đạn xuống suối để bắt cá cải thiện bữa ăn. Người ta cảm thấy trong vẻ bình thản, trầm lắng hằng ngày có một cái gì đó hơi tẻ nhạt.

Thế nhưng chỉ ít ngày sau, tất cả đều đã thực sự bị cuốn vào cái guồng quay khổng lồ trên toàn tuyến. Công tác cứu chữa thương bệnh binh trở nên hết sức khẩn trương. Tin chiến sự liên tiếp truyền về, đem lại cho các cán bộ nhân viên ở đây niềm phấn khởi xen lẫn nỗi âu lo mới. Họ làm việc không kể ngày đêm, quên cả mệt nhọc. Cũng không ai còn có thời gian để nghĩ đến chuyện riêng tư nữa. Tất cả đều muốn làm một cái gì đó để góp phần sức lực của mình cùng đồng đội ngoài kia giành chiến thắng.

Qua mấy hôm, những cơn mưa phùn lạnh lẽo đã có vẻ thưa dần. Bầu trời như cao rộng hẳn lên, quang đãng và tràn đầy ánh sáng. Một màu xanh non mượt mà trải rộng khắp các sườn núi, cánh rừng. Trên tấm thảm xanh mênh mông nhiều sắc độ ấy, những cây sim đã thay áo mới và xòe nở vài bông hoa đầu tiên. Những bông hoa tím ngát xinh xinh khẽ đung đưa trong gió. Không gian thơm nức hương rừng và cây cỏ, trào dâng một sức sống mãnh liệt mà thầm lặng. Nó từ từ tỏa ra, thấm sâu rồi lắng đọng trong tâm trí mọi người.

Trong những ngày ấy, y sĩ Hạnh hết sức bận rộn. Bao nhiêu công việc bộn bề, chồng chất lên nhau đòi hỏi chị phải lao vào giải quyết. Như một con thoi, chị chạy đi chạy lại suốt ngày, có mặt ở bất kì chỗ nào người ta cần đến. Thậm chí nhiều lúc chị còn làm cả những việc vượt quá phạm vi chức trách của mình, như bón cháo cho thương bệnh binh, đổ bô rồi lau rửa, thay quần áo cho họ, đôi khi còn khâm liệm cả những người đã chết. Sau nhiều đêm thiếu ngủ, đôi mắt chị có quầng thâm nhưng thỉnh thoảng, vào những giây phút hiếm hoi hơi rỗi rãi, người ta lại thấy chị  khe khẽ hát một bài gì đó.

Sáng nay, Hạnh trực phòng tiếp nhận. Chị bước vào trong căn nhà hầm nửa nổi nửa chìm, cởi tấm ni lông đi mưa treo lên mắc áo rồi chống cánh cửa sổ được ken bằng lá trung quân lên cho ánh sáng ùa vào. Ngoài kia, trời lại đang lất phất mưa. Những hạt nước nhỏ li ti, trắng xóa như những sợi tơ trời buông xuống thành hàng. Từ dưới lòng đất ẩm ướt, có lẽ những mầm cỏ đang trồi lên rất mạnh. Và ngày mai, khi trời nắng, hoa sim lại nở thêm nhiều nữa. Những cánh hoa nhỏ bé mong manh hệt như những bông hoa được thêu trên chiếc khăn tay của những cô gái có người yêu ra trận. Hoa của những mối tình đầu thủy chung trong trắng và lời hứa hẹn đợi chờ…

Hạnh đứng bên cửa sổ nhìn ra ngoài, suy nghĩ miên man. Mấy hôm nay, tiếng súng từ phía Tây có vẻ thưa dần. Máy bay địch không còn ném nhiều bom như tuần trước. Pháo địch cũng ít hơn. Hình như chiến dịch đã đi vào hồi kết. Có một con chim nào đó đang thả vào trong gió những tiếng hót líu lo. Giọng nó lan ra, tỏa đi, chỉ để lại dư âm thật ngọt ngào làm cho Hạnh hơi xao xuyến. Chị khẽ thở dài, đưa tay vuốt lại mái tóc rồi quay vào, cố tìm một công việc gì đó để tránh cho mình sự suy nghĩ không hợp với lúc này.

Có tiếng chân thậm thịch từ xa đến gần. Một người lính, quân phục bê bết bùn đất bước vào. Theo sau anh là chiếc võng ni lông phủ tăng kín mít được hai người nữa khiêng. Hạnh quay ra hỏi:

– Có nhiều không, đồng chí?

– Ít thôi. – Người cáng thương trả lời. – Chỉ có một đồng chí này. Nhưng có lẽ là gay đấy.

– Gay là thế nào? – Hạnh hơi mỉm cười, hỏi lại.

– Thì bị thương rất nặng mà… – Anh bộ đội ấy đưa cánh tay áo lên lau mặt. – Bác sĩ cứ xem đi rồi sẽ biết.

– Tôi không phải là bác sĩ. – Hạnh chữa lại rồi chỉ chỗ cho mấy người lính gác hai đầu đòn khiêng lên đó. – Đây, đây này.

Chị đón lấy giấy tờ từ tay người đi trước, có vẻ như một chỉ huy cấp thấp và liếc qua bản lí lịch trích ngang của thương binh cùng những giấy tờ kèm theo.

Bỗng nhiên Hạnh dừng lại, mắt trợn tròn, suýt nữa thì kêu lên thành tiếng. Mấy người xung quanh còn chưa hiểu ra sao thì chị đã bước tới, vạch tấm tăng ra để nhìn vào trong võng. Một khuôn mặt hốc hác xanh xao như màu lá với đôi mắt nhắm nghiền. Vòng băng trắng trên đầu loang máu và ẩm ướt. Tấm chăn dù được kéo lên ngang ngực và một chiếc ba lô treo giữa đòn khiêng ấy.

– Minh! Minh! Minh ơi!… – Hạnh ngồi thụp xuống, đặt tay lên một bên vai người thương binh ấy và lay gọi.

Trong võng, người lính ấy vẫn nằm yên, thoi thóp.

            Thế là hết!

            Minh ngồi bệt, dựa lưng vào vách hầm chữ U chật chội. Trận địa đã trở nên im lặng. Anh cảm thấy điều đó nhờ chiếc hầm không còn bị rung lên, chao đảo bởi các loại bom và pháo địch. Đất cát cũng không còn rơi rào rào xuống nữa. Đôi tai của anh thì hình như điếc đặc mất rồi. Hồi nãy, sau khi bị một quả bom nổ gần, hai màng tai Minh như bị xé ra. Anh không còn nghe được âm thanh gì khác ngoài cảm giác như có một đàn ong bay loạn xạ trong đầu. Ngay tiếng súng mười hai li bảy của địch xổ ra từng chặp cũng cũng chỉ còn nghe lục ục như tiếng nồi cơm sắp cạn đậy kín vung. Nếu không có những viên đạn thỉnh thoảng lại cày đất lên ngay trước mắt thì Minh đã tưởng là địch ngừng tấn công rồi. 

           Ở cửa hầm và cũng là hố bắn bên kia chỉ cách một sải tay, Quảng gục xuống trong tư thế của một đứa trẻ đang tập bò. Mặt anh hướng ra phía ngoài, mắt không nhắm lại được để lộ một màu trắng đục như mảnh sứ. Sau mấy tiếng gọi nhưng không thấy trả lời, Minh nhích sang, lay thử. Quảng đã hi sinh rồi. Hình như một mảnh pháo  đã xuyên qua đúng khe xương lồng ngực, cắm vào tim Quảng. Vì thế, cậu ta chỉ hộc lên được một tiếng rồi sụm xuống. Gần như không thấy máu chảy từ cái lỗ nhỏ như đầu đũa ngay trên ngực trái. Sau lưng, không có vết mảnh đạn phá ra. Cơ thể người lính vẫn hoàn toàn nguyên vẹn. Cậu ta chết trong khi ngồi thay băng đạn cho khẩu AK lúc này vẫn còn đang dựa ngay bên cạnh.

           Minh rụt bàn tay lại, từ bỏ ý định lay gọi Quảng thêm lần nữa. Anh cầm khẩu M 79 của mình, với luôn cả khẩu AK rồi cẩn thận nhô đầu lên quan sát. Cách chỗ Minh không xa, những tên địch bị bắn chết nằm mỏng dính trong đám cỏ may vàng xơ xác. Mấy chiếc mũ sắt của chúng văng ra lổng chổng. Có lẽ tụi còn lại đang định xông lên lần nữa đây. Minh nhẹ nhàng thụt xuống hầm, tay vẫn không rời súng. Toàn thân anh mệt mỏi rã rời, đầu óc căng thẳng như sợi dây đàn muốn đứt. Nắng quá. Những bấng cỏ ngụy trang trên nóc hầm cháy sém dần. Bên cạnh đó là một gốc cây thốt nốt bị phạt ngang thân với bóng nắng tròn xoe. Cái ô vuông cửa hầm nóng rẫy, ôm gọn một khoảng trời xanh bạc.

           Quá trưa. Trận địa vẫn im lặng. Hai tai Minh vẫn ong ong không ngớt. Anh tự trách mình sao lúc nãy lại hèn đến thế. Cứ làm như là sắp chết đến nơi! Mấy quả đạn cối nổ ngay bên mép hầm khiến Minh nảy đom đóm mắt, tưởng như căn hầm sắp sửa bị bứng lên, ụp xuống đầu mình. Cái chết dường như đã ở ngay bên cạnh. Hơi thở lạnh toát của nó phả ra, vây bọc lấy anh. Nhưng thật lạ lùng, hình ảnh những người thân yêu nhất của Minh lại hiện ra đúng vào lúc đó. Cha anh, người qua đời đã lâu chỉ nhìn anh không nói. Mẹ nhét vào túi cóc ba lô cho anh nắm cơm nếp ăn đường. Và đây nữa, gương mặt và đôi mắt của người bạn gái…

           Thôi chết, mình ngồi dưới này lâu quá rồi! Minh bỗng giật mình nhận ra điều đó. Anh vội đứng vụt lên đúng vào lúc một toán gồm bốn năm tên địch đã xông đến rất gần. Không kịp ngắm nghía gì nữa, anh bắn luôn một phát vào giữa đám người quần áo rằn ri ấy. Quả đạn bay theo đường vòng cung rồi nổ oành một tiếng. Mấy tên địch đổ kềnh ra và ngay lập tức như tan biến vào với cỏ.

           Minh bẻ gập nòng súng cho vỏ đạn rơi ra rồi lắp viên đạn khác vào, bắn tiếp. Cái loại súng lạ lùng, báng nhựa trông như lộn ngược, nòng ngắn ngủn nhưng khả năng sát thương của nó thì thật là đáng sợ. Mỗi đầu đạn to như một quả trứng gà với hàng trăm mảnh văng ra khi nổ. Có thể bắn thẳng hoặc bắn cầu vồng và đặc biệt hiệu quả khi dùng nó để tiêu diệt lính bộ binh của đối phương. Minh mím chặt môi, lia thêm một loạt AK nữa.

           Từ các hầm bên và phía sau, đồng đội của Minh cũng đang nổ súng. Thêm mấy thằng nữa lăn ra, tan biến ngay vào cõi hư vô. Bọn còn lại vội nằm ẹp xuống, trút đạn ào ào rồi quay lưng chạy. Vừa lúc ấy, cánh tay trái của Minh bỗng nhói lên như thể bị ai đó giáng cho một đòn chí mạng khiến anh phải hét lên vì đau đớn. Một mảnh đạn pháo vừa chém ngay vào đó cùng lúc với mảnh vào đầu, máu đã ngoằn ngoèo bò xuống mang tai và chui vào trong cổ áo. Minh xé cuộn băng cá nhân ra, nghiến răng buộc lại cánh tay lắt lẻo. Gãy xương rồi! Còn vết ở trên đầu có vẻ nhẹ hơn mà cũng không thể tự mình băng lại đành cứ để yên đấy đã.

           … Minh thận trọng nhô đầu lên lần nữa. Kinh nghiệm cho anh biết, bọn địch đang định giở trò mới, chắc chắn là tàn ác, xảo quyệt hơn. Chúng nó khoái đánh nhau vào cái giờ này để còn gọi không quân và pháo binh chi viện. Nếu có rút thì cũng phải chờ đến tối. Minh thoáng thấy một tên địch từ đâu đó nhô lên, chạy khom về phía đồng bọn của nó đang co cụm lại cách trận địa chốt chặn của đơn vị anh một quãng đồng. Thằng này nấp ở đâu mà gan thế nhỉ. Anh giương súng lên, định bắn song lại thôi. Xa quá. Đạn M 79 chỉ còn có mấy quả mà cũng không nên bắn vào những kẻ đang bỏ chạy làm gì.

           Mọi việc tiếp theo như thế nào thì Minh không biết nữa. Đột nhiên, một tiếng nổ xé trời làm anh bị hất tung lên rồi rơi xuống một cái vực sâu không đáy. Một bóng đêm dày đặc và đen kịt với tất cả sự huyền bí của nó ôm chặt lấy anh. Và ý thức của anh cũng đã tan biến đi đâu mất.

Minh từ từ mở mắt và cảm giác đầu tiên của anh là cái đầu nhức như búa bổ. Hai bên thái dương thỉnh thoảng lại khẽ giật lên kèm theo những cơn đau nhói. Vết thương ở cánh tay thì nóng ran, còn ngực anh lại nặng trĩu như bị đè dưới một tảng đá khổng lồ. Anh khó nhọc thở từng hơi ngắn và đứt quãng, không động đậy tay chân gì được nên đành phải nằm yên, bất lực.

Trời đã gần tối. Mọi đường nét trong căn nhà hầm vắng lặng đang nhòe dần. Cái cửa ra vào với mấy bậc lên xuống chỉ còn là một khung chữ nhật nhờ nhờ. Hình như chỉ có một mình anh ở đây thì phải. Minh cố định thần xem đây là nơi nào, nhưng ngay cả điều này cũng không đem lại kết quả gì ngoài việc anh nhận ra mình đang nằm trên giường chứ không phải võng. Nhưng tại sao lại không còn ai nữa? Những người khác đâu? Minh lại thiếp đi một lúc.

Hình như có một người nào đó nhấc tay Minh lên thì phải. Anh vừa hé mắt ra thì đã có tiếng reo lên khe khẽ:

– Ôi, anh đã tỉnh lại rồi!

Chiếc đèn bão đặt ngay trên bàn bên đầu giường làm cho Minh hơi chói mắt. Phải một lúc sau, anh mới nhận ra đấy là một cô gái trong chiếc áo choàng trắng và mũ trắng. Cô bắt mạch rồi đặt tay lên trán Minh một lát.

– Anh đỡ sốt rồi đây này. Để em đo huyết áp của anh xem thế nào nhé.

Đôi tai Minh đã bớt ù đi được một chút nên anh hiểu cô gái vừa nói gì. Và trong lúc cô còn đang lúi húi làm công việc của mình thì anh đã có thể nhìn cô rõ hơn. Một gương mặt trái xoan với đôi mắt to, đen. Mái tóc dày tết đuôi sam nhưng vẫn để mấy sợi lòa xòa xuống trán. Đôi vai tròn và tấm lưng thon thả.

Cô gái tháo bộ đo huyết áp rồi đứng dậy, soi đèn vào chiếc sào cắm ở đầu giường. Đến lúc này Minh mới thấy bình huyết thanh treo trên đó. Những giọt nước trong veo nhỏ đều đều theo dây dẫn, truyền thêm sức sống cho anh.

Cô gái cầm đèn và dụng cụ để lên bàn rồi hí hoáy ghi chép gì đó vào trong một quyển sổ to. Xong xuôi, cô kéo lại tấm đắp cho Minh rồi hỏi:

– Anh có còn mệt lắm không? Em đi lấy sữa cho anh ăn nhé!

Minh khẽ ngọ nguậy cái đầu và phải cố gắng lắm, anh mới phều phào được thành lời:

– Đây là đâu hở đồng chí?

– Bệnh viện quân y miền mà, anh. Anh vào đây đến nay đã được ba ngày rồi.

À ra thế, Minh tự nhủ trong khi cô gái nhanh nhẹn với lấy chiếc phích ở trên bàn. Cô cẩn thận tráng chiếc ca bằng sắt tráng men rồi mới pha sữa, đem lại cho anh. Bàn tay nhỏ bé của cô cầm thìa, đổ cho anh từng chút một. Những ngụm sữa ngọt ngào, nóng hổi đem theo cảm giác ấm áp và dễ chịu từ từ lan ra khắp người Minh. Hết ca sữa, anh khẽ lắc đầu, ra hiệu không muốn ăn nữa. Giọng cô gái dịu dàng:

– Cố mà ăn thêm ít nữa chứ anh. Không thì làm sao mà chóng khỏe được.

Minh vẫn lắc đầu. Không ép được nữa, cô gái đành đứng dậy lấy nước cho anh tráng miệng rồi nhẹ nhàng lau những giọt còn đọng ở môi anh.

– Anh Minh này, em biết tên anh rồi nhé. Anh quê ở Hà Nội có phải không?

Minh im lặng, không muốn nói một tí nào. Nhưng cô gái vẫn ngồi ghé xuống bên rồi nói tiếp:

– Em cũng là dân Hà Nội đây.

Không hiểu cô gái đùa hay thật nên Minh vẫn lặng im. Còn cô, làm ra vẻ như vừa mới chợt nhớ ra:

– À, anh có người quen ở đây đấy. Một người mà chắc là anh không thể ngờ được đâu.

Cô y tá nhấn mạnh hai chữ “người quen” có lẽ để cho Minh chú ý. Nhưng trong cái đầu u u mê mê của anh, mọi thứ đều diễn ra rất chậm. Vì thế, phải một lát sau anh mới hiểu ra và tự hỏi “Ai nhỉ” một cách rất bàng quan. Và đúng vào lúc ấy bỗng nhiên anh lại nhớ đến Hạnh, cô bạn gái học cùng lớp ngày xưa. Ô, hay là Hạnh đang ở trong này?

– Ai thế hở chị? – Minh gượng hỏi.

Cô gái hơi lúng túng như vừa mới lỡ lời:

– Chị ấy là người phụ trách lán này, anh ạ. Nhưng sao anh lại gọi em thế? Em còn ít tuổi hơn anh nhiều mà.

Vốn là người nhát gái lại rất rụt rè nên Minh, chỉ với một câu nói ấy thôi, cũng đã cảm thấy nóng ran cả mặt. Anh đành phải dùng cái đại từ nhân xưng mà người ta chỉ viện đến vào lúc bí:

Đồng chí là y tá ở đây à?

– Vâng, em kiêm luôn cả hộ lí vì hiện nay đang thiếu người phục vụ. Anh có cần gì không?

– Không, tôi hỏi để biết thôi. Thế… chị ấy tên là gì?

– Ô, cái này thì bí mật, em không nói được đâu. Người ta đã dặn em rồi. – Cô y tá vội lắc đầu cười.

Minh chán quá, liền im bặt. Dặn với chả dò! Nếu đúng là Hạnh, thì liệu vào trong này từ bao giờ? Chắc là chỉ mới độ trên dưới một năm là cùng. Khó có thể lâu hơn được, Minh thầm đoán.

Thấy Minh im lặng, cô gái tưởng anh lo cho tình trạng của mình nên tìm cách trấn an:

– Vết thương của anh không có gì nghiêm trọng lắm đâu. Chủ yếu là do sập hầm và sức ép thôi. Cánh tay trái bị gãy nhưng may mà không bị đứt động mạch. Chúng em đã cố định lại rồi. Còn ở đầu là bị chạm vào cốt mạc. Anh cứ yên tâm điều trị một thời gian là khỏi ngay ấy mà.

– Thế bao giờ thì phụ trách lán sẽ đến đây hở đồng chí? – Minh không đừng được nữa nên hỏi thêm.

Cô y tá mỉm cười:

– Thì.. có lẽ là mai, ngày kia gì đấy. Em cũng không biết nữa. Có điều chắc chắn anh không thể ngờ được đâu.

Cô này có vẻ lém lỉnh, tinh nghịch ghê. Hay là… Một cảm giác lạ lùng lại choán lấy Minh. Anh hơi choáng váng vì điều vừa phỏng đoán, nhưng rồi lại gạt đi. Làm gì có chuyện ấy! Nếu Hạnh đã ra trường, thì chắc giờ này đang ở một bệnh viện nào đó ngoài miền Bắc chứ vào đây làm gì. Mà nếu đúng là Hạnh thì tại sao lại không đến gặp mình? Và tại sao cô bé này lại úp úp mở mở như thế chứ? Thật không tài nào hiểu được.

Cô gái bỏ qua vẻ hồi hộp vừa hiện ra trên mặt Minh. Còn anh thì không muốn hỏi thêm, với hi vọng chính vì thế mà cô sẽ nói. Nhưng cô chỉ cười khúc khích với vẻ thú vị không cần giấu. Rồi sau khi đã buông màn xuống cho Minh xong, cô gái cầm mấy thứ dụng cụ lên nhưng vẫn không quên dặn lại:

– Em sang bên này một tí rồi sẽ về ngay. Nếu cần gì, anh cứ gọi nhé. Em tên là Hường.

Cô gái đi ra. Bóng cô thoáng hiện lên rồi biến mất sau khung cửa. Ngoài ấy là một mảng trời đã tối và những cây rừng không còn nhận rõ hình thù gì nữa. Thỉnh thoảng lại có một ngọn gió lùa vào làm lửa đèn và chiếc màn của Minh hơi lay động. Cơn mệt mỏi quá chừng đưa anh vào một giấc ngủ nặng nề.

*

*         *

Hà Nội là thành phố quen thuộc với Minh từ thuở nhỏ. Trên những trang sách tuổi thơ cũng như trong tâm hồn anh còn lưu lại biết bao kỉ niệm về nơi mình đã sinh ra. Một góc bàn đầy tên người do những cậu học sinh nghịch ngợm khắc vào. Một con đường râm mát chạy giữa hai dãy nhà san sát. Những cây sấu, cây cơm nguội bên hè phố. Ngôi nhà thân yêu với bầu không khí lúc nào cũng hơi mờ tối và yên tĩnh. Những điều tưởng chừng nhỏ bé, vụn vặt ấy nhiều lúc làm cho Minh phải ngạc nhiên, không hiểu tại sao mình nhớ rõ đến thế. Thậm chí mỗi khi hồi tưởng, anh còn thấy cả một mảng tường bong tróc vôi ở cuối phố, một cánh cửa sổ tuột bản lề của nhà nào và khuôn mặt của những đứa trẻ con mà anh không biết hết tên.

Trước kia, đôi lúc Minh vẫn tưởng rằng cuộc sống với những công việc bộn bề của nó sẽ làm quá khứ lu mờ đi một cách dễ dàng. Nhưng đến khi rời xa gia đình vào chiến trường, anh lại thấy chính những điều nhỏ bé tưởng như không có gì để nhớ ấy lại trở thành khó quên trong tâm tưởng. Và kí ức tuổi thơ như một mạch nước trong veo dù chảy xa, lạ lùng thay, vẫn giữ được cội nguồn của nó. Minh lấy làm lạ khi thấy mình nhớ cả đến cái vòm cuốn sứt sẹo từ thời Tây để lại nơi đầu ngõ, những buổi trưa đi bắt chuồn chuồn, quả ổi chín anh khều trộm từ vườn nhà hàng xóm cho đến lần chia nhau củ khoai luộc với “cái Hạnh”, đứa bạn thân thời cấp một, bị xa cách ở cấp hai rồi gặp lại khi đã vào lớp chín.

… Hai ngôi nhà ấy cách nhau không xa lắm. Như một sự tình cờ, trước cửa mỗi nhà lại có một cây phượng vĩ già. Lớp vỏ ngoài của hai cái cây ấy sù sì, đen sẫm và trơn chuội, nhưng trong lòng nó vẫn chất chứa một sức trẻ tiềm tàng. Mùa hè đến, tán lá thưa của nó lại thêm nhiều lá mới. Cành nó tỏa rộng, vươn dài. Từ những nách lá xanh um, những cành hoa đua ra, lớn dần lên rồi nở bừng một màu tươi đỏ. Muôn ngàn cánh hoa khoe sắc mình trong nắng, được nắng làm cho rực rỡ thêm. Mùa hè qua, nó tàn dần. Những cánh hoa rời cành, bay bay trong gió rồi nhẹ nhàng đậu xuống mặt đường.

Những cây phượng ấy cứ đứng trên hè phố làm mốc đo năm tháng. Và mỗi độ hè về là một lần nó trẻ lại. Những ngọn gió nồm nam đến lay thức nó. Cành nó rung rinh như vẫy gọi các cô chú học trò mau lớn khôn lên. Từ sắc đỏ của mình, nó gợi cho họ niềm vui và những ước mơ, đặt vào trong lòng họ những dấu son kỉ niệm khó mà phai nhạt. Còn gì gắn bó với tuổi thơ hơn hoa phượng, hoa của những năm tháng ngồi trên ghế nhà trường. Rồi đến khi trưởng thành, người ta có thể quên nó đi vì những bận rộn khẩn trương trong cuộc sống. Nhưng một lúc nào đó, bất chợt nhìn thấy hoa phượng nở, người ta bỗng nhiên nhớ lại. Ấy là lúc những kỉ niệm ngày xưa đột ngột ùa về…

Đối với Minh cũng thế. Từ nhỏ, anh đã tìm thấy trong hoa phượng một cái gì đó thật gần gũi với mình. Là một đứa trẻ không hiếu động, chẳng bao giờ trèo cây bẻ cành vặt lá chơi, nhưng Minh có thể ngắm hoa không biết chán. Mỗi mùa hè qua đều để lại trong lòng anh những nỗi bâng khuâng. Những cuộc tựu trường vắng đi một số bạn bè. Những cuộc chia li để mỗi người một ngả. Những vần thơ vụng dại đầu tiên…  Bạn gái của Minh cũng yêu hoa phượng như anh.

Cô gái ấy ước mơ lớn lên sẽ đi học ngành sư phạm. Còn Minh thì chưa quyết bề nào, mặc dù cậu thích theo đuổi ngành chế tạo máy ở Bách khoa. Vì mỗi công việc đều có sức hấp dẫn riêng, nhưng khó có thể nói cái gì làm cho Minh say mê nhất. Và cũng lạ, là ngay từ khi chưa một quả bom nào của Mĩ rơi xuống miền Bắc, cậu đã mơ hồ cảm thấy rất có thể cả thế hệ của mình sẽ khó có ai thoát khỏi con đường cầm súng ra mặt trận, khó có ai còn được ngồi yên trên ghế nhà trường mà theo đuổi ước mơ đã từ lâu.

Chiến tranh bùng nổ. Không bất ngờ, nhưng mọi cái bỗng nhiên bị xáo trộn và thay đổi hoàn toàn. Người ta nhuộm màu cỏ úa cho những chiếc áo trắng và xanh da trời. Công nhân khoác súng vào xưởng máy. Nông dân đem súng ra ruộng đồng. Trên mặt đất, trên tầng cao của những ngôi nhà, người ta đào đắp hầm trú ẩn và chiến đấu. Ở khắp mọi nơi, thanh niên gái và trai nối theo nhau đi bộ đội. Những buổi tiễn đưa có cả nụ cười và nước mắt. Những bộ quân phục, đồng phục Thanh niên xung phong còn rộng, lạ với người. Những gương mặt cố làm ra vẻ nghiêm trang. Vẫy tay, vẫy tay và những cái nhìn đầy thương cảm.

Ai cũng hẹn nhau ngày gặp lại, nhưng đâu phải ai cũng tin điều đó? Làm sao có được ngày về cho tất cả mọi người? Và khi cuộc chiến qua đi, sẽ ai còn ai mất? Tiếc thay, đó là điều mà không một ai có quyền lựa chọn.

Hạnh dắt chiếc xe đạp cũ đi bên cạnh Minh, không biết nói gì. Đã qua rồi, cái giây phút bồng bột và náo nức trước một chân trời mới mà cô chưa từng biết đến. Minh đang nghĩ gì đây mà có vẻ đăm chiêu, căng thẳng thế? Cô tự hỏi. Rất có thể cậu chàng đang buồn khi cô phải ra đi. Bởi vì con gái, muốn đi bộ đội hay Thanh niên xung phong thì phải làm đơn. Hạnh cũng như mấy bạn nữ khác trong lớp đã làm đơn theo yêu cầu của Đoàn truờng từ trước lúc nghỉ hè và cô cũng đã quên đi chuyện ấy. Nhưng bây giờ, đùng một cái người ta lại gọi.

Một vài người qua lại nhìn đôi bạn với cặp mắt tò mò xen lẫn ngạc nhiên. Giá như lúc khác thì Minh đã phải đỏ mặt vì bực mình và khó chịu rồi. Nhưng bây giờ… Thôi, kệ họ. Anh lơ đãng nhìn đi đâu đó nên không nhận thấy trong đôi mắt của Hạnh một lời trách móc.

– Minh… – Hạnh khẽ xoay xoay chiếc quai túi xách được treo trên ghi đông xe đạp. – Thôi, có lẽ mình đi về đây.

Cô gái đưa tay sửa lại vành nón như để che giấu sự gượng gạo của mình. Minh gật đầu, giọng trầm trầm:

– Ừ thôi về đi kẻo muộn.

Nhưng Hạnh chưa đi ngay mà vẫn còn đứng tần ngần một lát.

– Tối nay đằng ấy có đến chỗ tớ được không?

– Có chứ! Thế nào mình cũng đến. – Minh gật đầu khẳng định.

– Đừng có quên đấy nhé!

Hạnh đã ngồi lên yên xe đạp, sắp sửa guồng đi. Minh thoáng nhìn thấy hai má cô đỏ lựng trong ánh nắng chiều đã dịu dần. Anh lững thững bước đi dọc theo hè phố và suy nghĩ vẩn vơ. Một cái gì đó không hẳn là nỗi buồn tràn ngập trong lòng kể từ lúc Hạnh báo với anh tin ấy. Tại sao người ra đi không phải là mình hay bọn con trai mà bây giờ, đám con gái lại ra đi trước?

Chưa biết chính xác ngày Hạnh lên đường vì cả bọn vừa mới đi khám sức khỏe, nhưng Minh hiểu, chỉ còn một thời gian ngắn nữa thôi. Rồi sau đó sẽ ra sao? Không ai biết được. Chỉ có điều, việc ra đi của Hạnh thì đúng là Minh chẳng muốn một tí nào.

Đôi bạn ấy quen biết nhau từ khi Hạnh còn cặp tóc đuôi gà, Minh thì hay vẽ linh tinh và bôi bẩn vào sách vở. Giờ ra chơi, Hạnh cùng lũ con gái chơi nhảy dây hay chơi chắt, chơi chuyền. Minh thì xé vở, gấp tàu bay giấy hoặc đánh xèng, đánh đáo. Rồi hai đứa được quàng khăn đỏ. Những cuộc cắm trại, Hạnh nhận luôn việc nấu cơm. Cô bé chúm môi thổi lửa, tàn tro bay cả lên đầu. Có lần nghỉ hè, Minh xấu hổ ngượng ngùng giúi cho Hạnh quyển sổ tay có những đóa hoa sen và con vịt đang bơi mà cậu vẽ mãi vẫn không được đẹp như ý muốn.

Có biết bao nhiêu đôi bạn thân thiết với nhau từ thuở nhỏ, lớn lên lại xa nhau dần vì lẽ này hay khác. Đối với Minh và Hạnh thì ngược lại. Tình cảm của hai cô cậu theo năm tháng được nhân lên. Cho đến khi Minh đã vỡ giọng ồm ồm còn Hạnh bước vào tuổi dậy thì, tình cảm giữa hai người lại thêm một cái gì mới mẻ. Không nói ra, nhưng họ đều cảm thấy điều đó thật thiêng liêng, cần phải giữ gìn. Vượt qua cả sự khác biệt về giới tính, họ đến với nhau bằng sự thương yêu chân thành trong phạm vi tình bạn. Một tình bạn vô tư và trong sáng vì họ hiểu nhau và rất tin nhau.

Đã có những người xung quanh xì xào bàn ra tán vào về hai đứa. Có những anh chàng tìm cách làm quen và ngỏ ý với Hạnh. Cô từ chối hết và sau mỗi lần như thế lại cho Minh biết. Còn Minh thì đã có lần bị một lũ côn đồ chặn đánh vì chúng tưởng cậu là người yêu của cô bé mà chúng muốn làm quen. Cũng từ đó, gã trai cảm thấy một nỗi lo lắng thật mơ hồ. Cậu hiểu, không sớm thì muộn, mối quan hệ giữa mình và Hạnh sẽ không còn như cũ. Ngày ấy biết đâu lại chẳng là ngày cuối cùng trong tình bạn giữa hai người. Khi yêu, con người ta dễ trở nên đẹp đẽ và cao thượng hơn. Nhưng cũng chính tình yêu lại khiến cho mỗi người thành ích kỉ. Không ai muốn làm kẻ thứ ba và Minh cũng không bao giờ cho phép mình làm một kẻ thứ ba như thế.

Minh không dám nghĩ đến một bước xa hơn trong tình cảm đối với cô bạn gái. Không tưởng tượng được, đang bỗ bã mày tao đến một lúc nào đó lại anh anh em em rồi cầm tay hoặc ôm hôn mặc dù không phải là không có lần Minh nghĩ đến điều này. Nhưng ngay lập tức, gã trai măng sữa ấy đã phải cố gắng tìm cách xóa đi cái suy nghĩ tội lỗi ấy vì cậu hiểu, không ít đôi bạn phải xa nhau chỉ vì người con trai bỗng thấy yêu bạn gái. Họ có biết đâu rằng cái tình cảm thương yêu mà cô gái vẫn dành cho mình thực ra không thuộc về chuyện lứa đôi. Mà khi ngỏ ý, chính là lúc người con trai đã dại dột giết chết tình cảm ấy.

Chiều đó, Minh không thể ngờ được, chỉ chưa đầy hai tháng sau ngày Hạnh đi, khi mùa thu đã tàn trên thành phố và những cơn gió heo may đầu tiên đã về thì lại đến lượt anh nhập ngũ. Vào một buổi sớm, Minh lên tập trung ở Khu đội[1]. Trong số những bạn bè, người thân đi tiễn chân anh vắng mất một số người. Và trong số những người vắng mặt ấy có Hạnh. Cô giáo tương lai của ngày xưa giờ đang được đào tạo để trở thành một quân y sĩ. Không hiểu lúc này Hạnh đang làm gì? Lá thư mình gửi đã đến tay đằng ấy chưa? Minh tự hỏi mình như thế trong khi anh loay hoay trèo lên thùng xe Molotova màu lá cây để đến nơi đón nhận tân binh.

Bộ quân phục may bằng một thứ vải xấu còn chưa kịp bạc hết màu thì Minh đã cùng đồng đội được lệnh sẵn sàng đi chiến đấu. Từ hơn một tháng nay, cả tiểu đoàn huấn luyện của anh phải rèn liên tục. Hết đeo ba lô gạch đá đi bộ đường dài lại đến báo động kiểm tra quân số ban đêm. Các bài học cả về kĩ chiến thuật và tình hình nhiệm vụ mới tăng lên gấp bội.

Suốt ngày bận đến tối mắt tối mũi, Minh không thể viết được thư cho Hạnh nữa. Mà nếu có viết, cũng không thể gửi đi vì không còn cái tem nào. Lính tráng, mỗi tháng được có hai chiếc tem, người ta phát cho liền ba tháng, nhưng Minh đã kịp dùng hết ngay trong những ngày đầu tiên vào bộ đội. Ba chục cái được anh mua và đem theo đến lúc này cũng hết sạch rồi.

Một buổi tối vừa đi lấy gạo về, đang trệu trạo nhai những miếng cơm lạnh cứng thì Minh nghe có tiếng gọi. Anh buông bát vừa lúc Tôn, cậu liên lạc đại đội bước vào, mặt cười cười.

– Ông có thư đây này.

Cậu ta giúi vào tay Minh chiếc phong bì rồi đi ra. Minh kéo chiếc đèn bão lại gần, xem thử. Thư của Hạnh! Không kịp lấy con dao nhíp ra để xén, anh vội vàng xé ngay một đầu phong bì, lấy thư ra đọc. Nghiến ngấu một lúc xong, anh thu dọn luôn mâm cơm đang ăn dở. Niệm, cậu lính cùng tiểu đội ngạc nhiên hỏi:

– Không ăn nữa à? Sao thế?

– No rồi.

Khuya hôm ấy, Minh phải gác. Đêm giữa mùa đông rét quá chừng. Sương xuống nhiều làm quần áo anh ẩm hết. Khẩu CKC đã lạnh càng lạnh giá thêm. Thỉnh thoảng Minh lại phải vào bếp thổi lửa lên hơ đôi tay cóng cứng. Mấy cây củi to bật lửa cháy bập bùng. Minh lấy thư của Hạnh ra xem lại. Những dòng chữ tròn tròn, mềm mại và quen thuộc như nhảy múa trước mắt anh. Không đọc được, nhưng Minh vẫn nhớ trong thư, ngoài những lời lẽ động viên Hạnh còn báo tin có thể cô sẽ được nghỉ phép vào dịp Tết, trước khi đi thực tập ở bệnh viện tại Hà Đông chừng ba tháng. Minh mừng lắm và thầm mong, giá như mình cũng được nghỉ phép vào dịp ấy thì hay biết mấy.

Thật bất ngờ ngoài sức tưởng tượng của Minh, đùng một cái sau ngày cúng ông Công ông Táo toàn tiểu đoàn lại được nghỉ phép luôn. Thông báo ấy vừa được phát ra, ai nấy đều háo hức hẳn lên. Tiếng reo hò, la hét, tiếng chân chạy khắp chỗ hòa với tiếng cười nói rộn ràng. Dường như không một ai muốn nghĩ rằng, sau những ngày phép sẽ là con đường ra mặt trận. Người nào cũng tranh nhau muốn nhận giấy phép trước, rồi bàn cãi xem nên sử dụng mười ngày ấy để làm gì. Có anh còn bô bô nói là nhân dịp này sẽ cưới vợ luôn, may ra kiếm được đứa con trai. Ở nhà đã chuẩn bị hết rồi.

Ngồi giữa đám đông đang nói cười ầm ĩ, Minh vẫn lặng im. Mười ngày phép! Đối với anh, nó còn quý hơn vàng. Anh đã vạch ra một kế hoạch cụ thể để mười ngày ấy không lãng phí. Việc có ý nghĩa nhất đối với anh là đi chào tạm biệt bà con họ hàng và một số bạn bè. Mình sẽ được sống thêm những ngày bên mẹ. Mấy năm nay, mẹ có vẻ yếu rồi. Bốn mươi sáu năm qua để lại cho mẹ một mái tóc hoa râm đã rụng nhiều, một thân hình gầy guộc và những nếp nhăn trên mặt. Đôi mắt mẹ như trũng sâu, mờ đục vì những lo toan vất vả. Vậy mà bây giờ anh lại phải ra đi… Minh không nén nổi tiếng thở dài.  

Từ lâu lắm Minh không gặp điều gì may mắn. Có lẽ vì thế nên bây giờ may mắn đến với anh. Vào ngày phép thứ tư của Minh, hăm bảy tháng Chạp thì Hạnh về. Vừa mới vào đến nhà, sau mấy câu chào hỏi bà và mợ, nghe hai đứa em láu táu kể chuyện anh Minh đang nghỉ phép để đi B, cô đã bàng hoàng hết cả người. Có một cái gì đó vừa đổ vỡ trong lòng Hạnh. Từ khi Minh đi bộ đội, không hiểu tại sao cô vẫn nuôi hi vọng là anh sẽ được ở ngoài này. Chưa bao giờ Hạnh nghĩ cô sẽ phải xa anh như thế. Nói cho đúng hơn, chính vì sợ điều đó xảy ra nên cô đã tự lừa dối mình bằng ý tưởng không có cơ sở nào chắc chắn: biết đâu người ta lại chẳng để Minh ở ngoài này. Bởi vì, theo Hạnh nghĩ, dù sao Minh cũng có đôi chút khả năng mà đơn vị nào cũng cần là kẻ vẽ, chụp ảnh và văn nghệ. Thế mà bây giờ…

Con đường quen và ngôi nhà nhỏ của Minh gần lại rất nhanh. Hạnh hồi hộp xuống xe, đi thẳng tới cánh cửa ra vào đang khép hờ. Trái tim cô đập thình thình, gấp gáp. Không hiểu anh chàng ta sẽ đón mình như thế nào? Minh đang làm gì trong ấy? Hạnh thoáng nghĩ rồi vuốt lại mái tóc trước khi bước vào nhà. Nhưng người ra đón cô lại là bà mẹ. Cô choáng váng khi biết Minh đi vắng.

Hạnh bỏ chiếc mũ mềm ra khỏi đầu, bóp bóp trong bàn tay thon nhỏ. Mái tóc cô buột xuống. Cô thầm trách bạn sao lại đi đâu vào đúng lúc này, và trong lá thư gần đây nhất cũng không đả động gì đến chuyện cậu ta sắp sửa nghỉ phép trước khi lên đường đi chiến đấu. Nhưng rồi chợt nhận thấy sự im lặng của mình làm cho không khí trong nhà có vẻ nặng nề, Hạnh liền hỏi:

– Bác ơi, bác chuẩn bị Tết đến đâu rồi ạ?

– Có cái gì đâu mà chuẩn bị hở cháu? – Mẹ Minh cười mủm mỉm. – Nhà nước cho gì ăn nấy thôi mà… Với lại bác cũng nuôi được con gà đây rồi.

– Thế… Minh nó có nói là lúc nào nó về không ạ?

– Không. – Bà mẹ khẽ lắc đầu. – Nó chỉ nói là nó đến nhà thằng Tiến thằng tung gì đấy.

Nhà thằng Tiến… Hạnh biết, ở mãi tít dưới Hồ Tây và cô đã một đôi lần đến đó. Lại nhớ, có lần cả lũ đi câu cá trộm, suýt nữa thì bị bắt. Mà nếu bị bắt thì thế nào cũng bị đuổi học. Cái tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa là to lắm. Hạnh rùng mình sợ hãi khi được cô chủ nhiệm nói cho biết điều này. Chứ vào cái lúc phạm tội, cả lũ nào có nghĩ ngợi gì đâu. Lại cho đó là một trò mạo hiểm đầy thích thú. Mong sao câu được những con cá thật to. Thằng Tiến còn nghĩ cả đến việc sẽ làm món gì với những con cá ấy. Rán này, nấu riêu này… Chà, ngon phải biết. Cá tươi mà! Còn bây giờ, Hạnh đang ngồi đây mong những phút giây chờ đợi chóng qua.

Mẹ Minh nhìn Hạnh, hơi lấy làm lạ. Mới ngày nào con bé này còn nhỏ tí, mà bây giờ đã lớn thế này. Lại còn đẹp thêm ra nữa. Bộ quần áo bộ đội làm cho nó cứng cáp hẳn lên. Tóc cũng dài ra, mượt hơn trước. Bà mỉm cười, nhìn đôi mắt to đen láy và hai má ửng hồng của Hạnh. Kể ra nó với thằng Minh nhà này trông cũng đẹp đôi. Nhưng mà… con gái, ai lại đi bộ đội!

Trong khi bà mẹ đang nghĩ ngợi như thế thì Hạnh nóng ruột, bần thần cả người. Cứ mỗi khi nghe tiếng bước chân qua cửa hay tiếng líp xe đạp giòn tanh tách của ai là cô lại thêm một lần mừng hụt. Hạnh định bụng nếu Minh về, cô cứ ngồi yên không quay lại xem cậu ta có nhận ra được ngay không. Nhưng rồi chờ mãi vẫn chẳng thấy bước chân quen, Hạnh đâm ra bực. Sao cái phố này chiều nay lắm người qua lại thế! Mà Minh thì chẳng biết đi đâu! Không ở nhà mà lo xem Tết nhất thế nào…

Hạnh tần ngần đứng lên ngồi xuống mấy lần trong tiếng pháo tép đì đùng nổ xa gần. Bà mẹ, xem chừng cũng thông cảm với cô nên thỉnh thoảng lại chạy ra cửa nhìn rồi lại quay vào:

– Vẫn chẳng thấy nó đâu cháu ạ!

Thấy không thể chờ lâu hơn được nữa, Hạnh quyết định viết cho Minh vài chữ. Mình sẽ nói mấy câu thật nặng nề cho hắn biết tay! Cô lục chiếc túi đem theo, xé một tờ giấy trong cuốn sổ rồi mở nắp bút máy ra. Nhưng cô chưa kịp viết được chữ nào thì đã có tiếng reo lên mừng rỡ. Hạnh hơi giật mình quay lại, thấy Minh đã đứng ở sau cô từ lúc nào.

– Hạnh về bao giờ đấy?

Cô gái không trả lời mà chỉ lườm Minh một cái, rồi hai tay ôm lấy đôi má bỗng nóng bừng. Có lẽ lúc này, tiếng trái tim đang đập mạnh của cô đã át đi tất cả. Minh lặng lẽ cầm chiếc mũ của Hạnh lên xem một lúc. Quân hiệu của Trung Quốc[2] có khác, trông đẹp thật.

– Mình vừa mới chạy lại đằng kia một lát. Thật không ngờ… Thế mà lúc vào đến cửa rồi vẫn không dám tin là Hạnh đang ngồi đây đấy.

Nỗi xúc động làm cho Hạnh không nói nên lời. Cô chỉ biết lặng im nghe giọng nói từ những ngày xa cô vẫn nhớ. Thế là Minh đã về. Hai người lại gặp nhau. Trong phút chốc, bóng dáng của cuộc chia li sắp tới không còn trong đầu Hạnh nữa. Nó đã nhường chỗ cho một niềm vui mới đến.

Bà mẹ hết nhìn Hạnh lại nhìn Minh, mắt nheo nheo cười hồn hậu. Hình như niềm vui của đôi trẻ cũng đã truyền cả sang bà. Rồi như chợt nhớ ra, bà liền đi vào nhà trong để hai đứa nói chuyện với nhau được tự nhiên. Cũng chỉ đến lúc này, Hạnh mới hỏi đến điều quan trọng nhất:

– Minh còn được mấy ngày phép nữa?

– Năm. Đến hết ngày mồng ba Tết. – Minh đáp, không biểu lộ tình cảm gì rõ rệt. – Sáng mồng bốn mình lại phải có mặt ở đơn vị rồi.

Chỉ còn năm ngày nữa! – Hạnh nghĩ thầm. – Sau đó là một chuyến đi xa, có lẽ là chuyến đi dài nhất của cả một đời người. Hàng nghìn cây số lội suối trèo đèo, rừng sâu núi thẳm. Và những gì sẽ xảy ra trong chuyến đi gian khổ ấy? Hạnh không thể nào hình dung ra được. Biết đâu… Niềm vui vừa được nhen lên đã lui đi. Cô thừ người, hai hàng mi dài và cong chớp chớp.

Minh nhìn Hạnh hồi lâu mà chưa biết nói gì. Dấy lên trong lòng anh là một tình cảm thật mơ hồ không dễ gọi thành tên. Anh đành phải che giấu sự lúng túng của mình bằng cách bẻ khớp ngón tay kêu lục khục.

– Hạnh cũng được nghỉ phép hay là đi tranh thủ?

– Mình được tranh thủ trước khi đi thực tập, chứ đã công với tác gì đâu. Còn phải mất đến hơn hai năm nữa cơ mà!

– Thế… Đằng ấy ở nhà có được lâu không?

– Không được lâu đâu. – Nét hóm hỉnh như đã trở lại với cô bộ đội. – Nhưng cũng đủ đến ngày Minh trả phép.

– Có lẽ Hạnh phải chờ mình lâu lắm rồi nhỉ?

– Đâu, mình mới ngồi được một lúc thì Minh về ấy mà.

Minh biết Hạnh vừa nói dối nhưng anh chỉ lặng lẽ với tay lấy chiếc phích, rót nước mời cô.

– Nhanh nhỉ, thế mà đã được đến nửa năm rồi… Hạnh sắp sửa trở thành cô y sĩ. Còn mình…

Hạnh mỉm cười:

– Chưa, mới có gần năm tháng thôi. Mình đi hôm hai mươi tháng Chín mà. Còn Minh thì mười lăm tháng Mười một có đúng không? Nhưng nói sang chuyện khác đi, chứ Hạnh không thích nghe chuyện ấy đâu.

Không hiểu tại sao bao nhiêu lời lẽ Minh chuẩn bị từ lâu cho cuộc gặp gỡ này đã tan biến đi đâu hết. Và cũng rõ ràng là cả anh và Hạnh đều không còn giữ được vẻ hồn nhiên trước đây. Chao ôi, chẳng lẽ môi trường quân đội lại có thể làm thay đổi con người nhanh đến thế ư?

– Hạnh… học có vất vả lắm không? Chắc là cũng căng đấy nhỉ? – Mãi rồi Minh cũng nghĩ ra được một câu để hỏi.

Suýt nữa thì Hạnh đã phì cười trước câu hỏi ấy. Có lẽ ông tướng này không có được câu nào hơn nữa. Đâu rồi, cái anh chàng Minh già trước tuổi nhưng không kém phần láu lỉnh? Hay là bộ quân phục đã làm cho cậu chàng biến thành con người khác mất rồi?

– Cũng bình thường. – Hạnh đã có lí do để mà lên tiếng. – Ngày lên lớp hai buổi, tối thì học nhóm hay tự học. Ăn uống thì chán lắm, không thể nào bằng được ở nhà. Toàn là những rau già cá ươn thôi. Đã thế thỉnh thoảng lại còn phải đi trực đêm, nhiều lúc nghe tiếng con chuột chạy qua cũng sợ. Mà các thủ trưởng, các thầy cô là hắc xì dầu lắm nhé! Không có lơ tơ mơ được.

– Còn mình thì chỉ thêm được cái đen vì chịu khó phơi nắng lắm. Lăn lê bò toài suốt ngày ngoài bãi tập. Lại còn đi dã ngoại, lấy gạo rồi hành quân đêm, báo động chiến đấu liên miên.

– Chuyện! Thao trường đổ mồ hôi để chiến trường bớt đổ máu mà! Bọn tôi cũng hơn một tháng hết ắc ê điều lệnh rồi lại đến đội ngũ và tập bắn, tập ném đây này… Ờ nhưng mà Minh hồi này có vẻ béo khỏe, rắn rỏi hơn trước nhiều đấy nhé.

– Thì… Hạnh cũng thế mà! – Minh có vẻ hơi dè dặt. – Trông mình xinh ra bao nhiêu.

– Thôi đi ông ơi, thế chẳng lẽ trước đây tôi không xinh à? – Hạnh cười to. – Chỉ được cái giỏi nịnh đầm! Rõ ràng là người ta vốn đã xinh từ bé đến giờ lại còn… Chả thế mà có người mê tôi từ hồi lớp một.

– Không phải. – Minh giả vờ phản bác. – Từ kì một lớp hai đấy chứ.

Cả hai cùng phá lên cười vui vẻ. Chợt Hạnh lảng ngay sang chuyện khác:

– Sao, chuyện Tết nhất đến đâu rồi? Báo cáo đi!

– À, hôm qua tớ đã đi xếp hàng mua được ít gạo nếp, đậu xanh với lá dong rồi… Còn thịt thì phải chờ đến mai hay ngày kia chứ hôm nay đông lắm. – Minh cũng cười theo. – Ý tớ là, trước đây đằng ấy đã xinh rồi, nhưng bây giờ còn xinh hơn. Da dẻ hồng hào hơn này, má thì phính hẳn ra, lại mặc quân phục nữa trông cứ… y như một cô bộ đội.

– Không giống cô bộ đội thì chẳng lẽ lại giống cô công an à? – Hạnh mỉm cười thoáng chút tự hào. – Hôm nọ kiểm tra sức khỏe, mình tăng được hơn ba cân đấy.

– Còn mình thì được tận sáu cân.

– Như vậy có nghĩa là Đảng, Nhà nước và quân đội rất khéo nuôi bọn chúng mình, có đúng không?

– Đúng. – Minh gật đầu nhưng lại khẽ thở dài. – Có lẽ vì sinh hoạt điều độ, lại vừa được bồi dưỡng để đi B nữa mà.

– Ừ. – Hạnh cũng phụ họa theo rồi đứng dậy. – Thôi, tớ phải về đây kẻo muộn. Cậu cũng nghỉ ngơi, cơm nước là vừa.

Minh tiễn chân Hạnh ra cửa. Trời đã quá chiều. Ánh nắng chênh chếch rọi xuống, biến bức tường ngoài hiên thành một mảng màu vàng rực. Cây phượng vĩ trước cửa nhà thong thả buông từng nốt lá nhỏ xíu úa vàng xuống mặt đường. Đắn đo mất một lúc rồi Minh mới hỏi:

– Hạnh này… Tối nay bọn mình đi chơi nhé. Có được không?

Trong giây lát, Minh nhận thấy đôi gò má Hạnh thoáng hồng lên một chút:

– Sao lại không được? Nếu không thì tôi đến đây tìm ông để làm gì?

Mấy ngày phép của Minh đã nhanh chóng trôi qua. Không khí Tết dường như chỉ còn thoang thoảng qua mùi hương trầm từ một nhà nào đó vừa mới hóa vàng. Tiếng pháo tép cũng trở nên thưa thớt. Đây đó bên đường phố, vỉa hè đã thấy những bông hoa thược dược, glayơn giập nát và những cành đào khô quắt.

Sáng mai, Minh phải lên đơn vị. Anh chỉ còn sửa soạn thêm ít đồ dùng lặt vặt, chiếc bánh chưng mẹ cứ bắt phải đem theo và tuýp xà phòng đánh răng nữa là xong. Thế nhưng hết bỏ ra lại xếp vào, Minh vẫn chưa vừa ý. Chiếc ba lô vẫn xộc xà xộc xệch. Anh dẹp nó sang một bên, ngồi ngẩn ngơ.

Giữa bữa cơm trưa nay, mẹ nhìn Minh một lúc rồi bỗng ứa hai hàng nước mắt. Anh không biết nói năng gì nữa. Bao nhiêu năm trời nay mẹ đã mang nặng đẻ đau, nuôi nấng dạy dỗ anh, mong anh khôn lớn nên người. Vậy mà bây giờ, mẹ chưa nhờ cậy được gì thì anh đã phải dứt ra khỏi mẹ. Biết bao giờ mới trở về? Ba năm, năm năm hay lâu hơn nữa? Hay là không bao giờ? Mẹ khóc vì nỗi nhớ thương và lo lắng cho anh. Còn anh, thấy ruột gan mình như bị xát muối vì thương mẹ. Đời mẹ khổ đã quá nhiều rồi. Hết chờ chồng đi kháng chiến về chưa được bao lâu thì ông đã qua đời vì vết thương tái phát. Đến bây giờ lại chờ con…

Trước lúc đi xa, Minh cảm thấy nôn nao đến lạ lùng. Anh hối hận vì những năm tháng chưa xa đã gây cho mẹ biết bao nhiêu lo lắng buồn phiền. Cũng trèo me trèo sấu, trốn học tắm sông. Cũng đánh nhau sứt đầu mẻ trán để thầy cô phải gọi lên kiểm điểm. Lại có lần còn dám tiêu luôn cả học phí. Khi anh hiểu ra, cố làm cho mẹ yên lòng thì cũng là lúc không còn được ở bên mẹ nữa. Ngày mai…

Minh sẽ để lại sau lưng một con phố bình yên, ngôi nhà nhỏ và những người thân yêu nhất. Nhức nhối mãi trong lòng anh hẳn sẽ là những kỉ niệm về nơi mình đã sống. Một mái trường đỏ rực màu phượng vĩ mỗi độ hè về. Những quyển vở chép bài còn bỏ dở. Những lá thư bè bạn gửi cho anh. Chưa ra đi nhưng Minh đã linh cảm thấy cho đến trọn đời anh vẫn không quên được những ngày này. Nó sẽ được ấp ủ trong trái tim và khối óc của anh. Nếu như chẳng may phải ngã xuống ở một nơi nào đó, anh vẫn đem nó theo trọn vẹn.

Đã có lần Minh tự hỏi, cái gì làm cho anh gắn bó với thành phố này đến thế? Phải chăng chỉ là những đường phố dọc ngang như bàn cờ rợp bóng cây, những ngôi nhà ngói cũ hay những buổi bình minh leng keng tiếng chuông tàu điện? Rồi thì cầu Long Biên bắc qua sông Hồng, chợ Đồng Xuân, hồ Hoàn Kiếm, tháp Rùa? Không, chắc chắn là những gì hơn thế rất nhiều. Bởi vì ở nơi này có những ngày thơ ấu của Minh, những niềm vui và nỗi buồn của mẹ, có bóng dáng người cha và những lần gặp gỡ, chia tay của anh với các thầy cô, bè bạn. Nó là nơi thắp lên trong lòng anh những ước mơ thầm kín. Nó cũng là nơi chứng kiến những tình cảm mà anh và Hạnh dành cho nhau từ khi còn nhỏ cho đến tận lúc này.

Bây giờ thì Minh đã phải thú nhận với chính mình điều mà trước đây anh không dám coi là sự thật: anh đã yêu Hạnh từ lúc nào chẳng biết. Tuy chưa một lần nói ra chuyện ấy nhưng Minh tin rằng Hạnh cũng hiểu. Hình như cô còn mong anh nói ra điều đó. Nhưng biết làm thế nào, khi cuộc sống của hai người đều đã khác. Trước mắt họ giờ đây không phải giảng đường đại học, nhà máy hay xưởng thợ mà là một chiến trường vô cùng ác liệt, nơi cuộc sống và cái chết luôn luôn rình rập đe dọa lẫn nhau. Một khi ai đó đã sa vào thì không dễ gì ra nổi.

Hơn một lần, Minh đã định sẽ nói với Hạnh tất cả. Ừ, tại sao lại không thể, không dám nói ra điều đó? Khi người ta đã yêu nhau, nhất là khi tình yêu ấy thật chân thành thì có gì đâu mà phải ngại. Vậy thì tại sao Minh lại không thể gạt bỏ những rào cản do chính anh đã tạo nên để đến với cô? Chẳng lẽ một tình bạn lâu dài lại không biến thành tình yêu được hay sao? Ý nghĩ ấy nhiều lúc khiến Minh choáng ngợp, tưởng như anh có thể nói ngay với cô mọi chuyện.

Nhưng khi những tình cảm kia lắng xuống, đưa Minh trở về thực tại thì anh lại như một quả bong bóng xì hơi, không còn dám hạ cho mình quyết tâm gì nữa. Anh tin rằng Hạnh sẽ không từ chối mình; và cái khó khăn lớn nhất mà anh cần vượt qua chỉ là việc nói lời yêu Hạnh. Nhưng nếu chẳng may Hạnh từ chối thì sao? Minh biết, có những trường hợp người con gái bỗng coi bạn trai như một người xa lạ, thậm chí là căm ghét ngay sau khi anh chàng dám ngỏ lời. Vì tình bạn và tình yêu là hai cái gì đó hoàn toàn khác biệt. Nhưng tình yêu, nếu được Hạnh chấp nhận, sẽ đưa cô và Minh đến đâu, hay chỉ đem lại cho cả hai những đợi chờ và thất vọng? Đó cũng là điều cần phải nghĩ.

Minh hiểu, nếu không có chiến tranh thì cuộc sống của anh và Hạnh sẽ đi theo hướng khác. Có lẽ không ai phải đi bộ đội, và cả hai đều thực hiện được mơ ước của mình, dù có thể gặp phải nhiều trắc trở. Và tình yêu giữa hai người chắc chắn là sẽ không phải trải qua những xa xôi cách biệt và những năm đợi tháng chờ. Nhưng bây giờ, thậm chí cả hai còn không biết cuộc chiến tranh này sẽ xô đẩy họ tới đâu. Đó là chưa kể đến điều kinh khủng nhất, là cái chết. Mọi thứ đều có thể xảy ra lắm chứ!

Hạnh khoác thêm chiếc áo vi ni lông[3], quàng khăn và sửa lại mái tóc lần nữa rồi bước ra ngoài. Một cơn gió lạnh thổi tới làm cây lá rung lên xào xạc. Đường phố đã lên đèn và thưa thớt bóng người. Hôm nay Hạnh quyết định sẽ đi bộ vì cô đã nhận ra, chiếc xe đạp chỉ làm cho mình thêm vướng víu. Vào lúc này, mọi nỗi buồn và niềm vui của cô dường như đều đã tan biến đi đâu mất, chỉ để lại một khoảng trống vắng đến nao lòng.

Người bạn trai có thân hình nhỏ nhắn và khuôn mặt hơi dài ấy đã đi bên cạnh cuộc đời Hạnh từ lâu. Thời gian làm cho cô rất hiểu anh, vì thế mà hai người ngày càng thêm gắn bó. Họ chia sẻ cho nhau những niềm vui nho nhỏ khi đọc chung một quyển sách, bài thơ; lúc giải được một bài toán khó hay kể cho nhau nghe những suy nghĩ, ước mơ về cuộc sống. Cái cây xanh tình bạn của họ được vun xới ngày càng trở nên tươi tốt và bóng nó rủ xuống che mát tâm hồn cả hai người.

Có những lúc Hạnh đã ngây thơ nghĩ rằng tình bạn giữa cô và Minh như một dòng sông nhỏ, cứ êm trôi đi mãi. Nó vượt qua tất cả, bất chấp thời gian và trở thành vĩnh viễn với hai người. Nhưng cuộc đời đâu phải giản đơn như thế. Có những người cả vô tình và cố ý muốn làm cho đôi bạn phải xa nhau. Cũng không ít lời đàm tiếu sau lưng họ và điều đó đã ảnh hưởng không ít đến Minh. Trong thâm tâm, có lẽ anh đã lo lắng cho ngày phải xa Hạnh mãi. Cô đã phải tìm cách động viên cho bạn yên tâm. Nhưng ai ngờ sự xa cách lại bắt đầu khi Hạnh được gọi đi học lớp quân y sĩ. Bố Hạnh, một cán bộ Công an nhân dân vũ trang ủng hộ cô đến mức tối đa vì ông chỉ có ba đứa con gái chứ không có con trai để mà cho đi bộ đội. Và thế là cô con gái cả của ông chỉ còn việc thu xếp lên đường.

Lá thư nào cũng thế, Minh đều dành phần lớn để kể về nỗi nhớ người bạn gái. Anh mong thường xuyên nhận được thư cô, hơn thế nữa còn mong sớm đến ngày gặp lại. Nhưng làm sao mà gặp được đây, vì lính A, tức là bộ đội ở ngoài miền Bắc tuy có mười ngày phép mỗi năm, nhưng lại có thể bị cắt hay hoãn vào bất cứ lúc nào. Lính B thì đúng là có phép đấy, nhưng phải chờ đến lúc sắp sửa lên đường đi chiến đấu. Còn Hạnh thì mới được mấy tháng tuổi quân thì nói gì đến phép!

Mỗi lần nhận được thư Minh, Hạnh đều cố gắng viết trả lời ngay cho dù có bận đến thế nào đi nữa. Cô chỉ mong mỗi lá thư của mình đều đem lại cho bạn một sự động viên nho nhỏ, giúp Minh quên đi phần nào nỗi vất vả hằng ngày. Tình cảm của Hạnh đối với Minh xưa nay vốn kín đáo, không khoa trương nhưng không phải vì thế mà kém phần sâu sắc. Chính Hạnh đã từng thêu chữ M lên tấm khăn quàng đỏ của Minh sau khi cả hai được kết nạp Đội cùng một đợt. Có người nói đùa, con bé này cứ như là chị gái hay em gái của thằng Minh ấy, mặc dù cậu chàng ngoài bà chị gái đã lấy chồng còn có hẳn một cô em rất gớm ghê.

… Buổi tối trước hôm Hạnh lên đường, cô và Minh đi chơi. Một cơn mưa rào tháng Chín khiến đôi bạn đành phải hủy kế hoạch cũ, chui vào rạp xem bộ phim Nam tước Phôn Gôn rinh của Liên Xô. Chả biết tại sao nó còn có tên gọi khác là Ở xa Tổ quốc. Hạnh thấy cái tên này hay hơn, vì đúng là anh sĩ quan tình báo Liên Xô phải hoạt động trên đất địch, chứ đâu có nói về gã nam tước người Đức nào. Nhưng cô không tin là một người Nga lại có thể vào vai nhà quý tộc Đức dễ dàng như thế. Bọn chúng nó có ngu đâu!

Hết phim, Minh đèo Hạnh trên chiếc xe đạp của cô. Anh vừa chầm chậm vòng qua bến tàu điện vắng tanh vừa nói đến việc đứa nọ ở lớp mình đi đại học rồi, đứa kia thì đi học nghề hay trung cấp. Trong lúc đó, mưa vẫn rơi nhưng không đủ làm ướt áo ai. Chợt Minh cao hứng lên, khẽ đọc:

Bên mặt Hồ Gươm không ai bàn chuyện vua Lê

Lòng ta đã thành rêu phong chuyện cũ…

           – Trời, hay thế! – Hạnh xuýt xoa. – Thơ cậu mới làm đấy à?

– Không. – Minh khẽ lắc đầu nghiêm chỉnh. – Thơ của Chế Lan Viên đấy chứ. Hạnh thấy ông ấy có giỏi không? Mỗi ngày, biết bao nhiêu người đi qua đây nhưng làm gì có ai nói hay nghĩ đến vua Lê, và có ai biết đền thờ Lê Lợi ở ngay đây này.

– Ơ thế à? – Hạnh tròn mắt ngạc nhiên khi thấy Minh chỉ tay vào một khoảng sân tối đen, cách hè đường không xa lắm. – Thế mà tớ không biết.

– Biết làm sao được! Có ai chỉ cho đâu. Trong ấy có cả tượng vua Lê nữa đấy. Ông ấy đứng trên một cái cột, tay cầm kiếm đang lăm lăm chĩa xuống trông buồn cười lắm. Kia kìa! Hạnh đã nhìn thấy chưa?

– Bọn mình thử vào xem đi! – Hạnh kéo tay Minh nhưng anh đã vội vàng ngăn lại:

– Không được đâu. Trong ấy tối thế, nhỡ chẳng may lại có rắn nữa thì nguy. Làm thế nào mà tránh được.

Câu nói của Minh khiến Hạnh từ bỏ luôn ý định vì đúng là cô sợ rắn. Chàng thanh niên thủng thẳng:

– Với lại, mình vào đấy người ta lại tưởng là vào để trộm cắp hay làm việc xấu thì có mà chết. Công an nó bắt ngay.

Như để phụ họa với Minh, một anh công an trong bộ đồng phục màu vàng[4], đầu đội mũ cát và súng ngắn bên hông đi thẳng về phía đôi trai gái, cứ như là vừa mới từ trên trời rơi xuống. Ánh đèn phòng không tuy yếu ớt nhưng cũng đủ để cho hai người thấy cái nhìn gườm gườm đầy cảnh giác của anh ta. May mà không bị tuýt còi hay hỏi han gì hết. Thì ở ngay gần đấy có một cái đồn công an mà! Đôi bạn liền im lặng, không nói năng gì nữa.

Đã ra đến đầu phố Hai Bà Trưng. Sắp phải chia tay rồi! Thấy Minh có vẻ bối rối, rụt rè đến khổ, Hạnh không khỏi buồn cười. Và, thật bất ngờ với chính mình, cô bỗng tỏ ra vô cùng bạo dạn:

– Này, thế ông định không ôm hôn tôi tạm biệt à?

Được lời như cởi tấm lòng, anh chàng nhát gái liền lấy hết can đảm hôn nhẹ một cái lên má Hạnh. Và trong phút giây ngắn ngủi ấy, Minh cũng kịp nhận ra, mình vừa hôn cả những giọt mưa trên má ướt của cô. Không phải là nước mắt! Hạnh phì cười, liếc nhìn qua đường phố vắng người. Cô cẩn thận gạt chân chống chiếc xe đạp cho nó đứng vững đó rồi mới bước đến bên cạnh Minh, nói nhỏ:

– Phải hôn thế này này!

Hạnh vòng hai tay ôm chặt lấy Minh, hơi kiễng chân lên, hôn vào môi anh một cái rõ kêu rồi mới mỉm cười:

– Đấy, phải hôn như thế… Đã chết chưa?!

Lẽ đương nhiên, Minh chưa chết. Mà xưa nay, có ai chết vì một nụ hôn bao giờ! Gã trai tân chỉ hơi choáng váng một tí thôi và ngơ ngác vì không còn hiểu ra làm sao nữa. Nhưng đến lúc tỉnh ra thì Hạnh đã đạp xe đi được một quãng rồi.

Hạnh sốt ruột xem lại đồng hồ lần nữa. Đã quá hẹn đến năm phút rồi. Bảy phút. Mười hai phút… Cô không muốn đến nhà Minh tìm vì sợ lát nữa sẽ phải ngược đường quay lại, mất công. Cả hai đã giao hẹn với nhau, tối nay họ sẽ đi vòng quanh hồ Gươm để tạm biệt tháp Rùa, nhà Bưu điện, đài Nghiên, cầu Thê Húc… Bởi vì đôi bạn chợt nhận ra là chưa bao giờ họ đi hết một vòng hồ, mà chỉ qua từng đoạn ngắn. Vậy thì hôm nay sẽ làm luôn cả một vòng khép kín.

Cô gái vẫn đứng đó, hai tay thu vào trong túi áo. Thỉnh thoảng lại có người lấc láo nhìn cô nhưng rất may là không có gã lưu manh nào trêu ghẹo. Hạnh đã nóng ruột lắm rồi nhưng vẫn không thấy Minh đâu. Chiếc đồng hồ đeo tay của cô đã chỉ bảy giờ hai mươi phút. Cô tức mình định quay về, nhưng rồi lại tự gia hạn thêm năm phút nữa. Rất nhanh, năm phút đã trôi qua. Quái nhỉ, sao không thấy Minh đâu? Chẳng lẽ cậu ta đi qua đây mà mình không nhìn thấy? Ừ, mà có thể như thế lắm, vì đèn ở đây tối quá. Hạnh bỗng lo lo, không hiểu có chuyện gi đã xảy ra.

Tiếng chân người bước rất nhẹ ở phía sau làm cho cô hơi giật mình quay lại.  A, anh chàng ấy đây rồi!

– Xin lỗi vì mình đến muộn. Hạnh chờ đã lâu chưa?

Ghét thế nhỉ! Bắt người ta chờ đến nửa tiếng đồng hồ rồi lại còn nhe răng ra mà cười… Hạnh buông một câu cụt lủn:

– Chưa!

– Có lẽ Hạnh bực vì mình sai hẹn lắm nhỉ? – Giọng Minh lại vang lên thẽ thọt.

– Chả bực!

Cô gái vẫn không thèm nhìn Minh, đầu hơi cúi xuống như để ngắm những viên gạch lát trên vỉa hè khấp khểnh. Thật chẳng bù cho những lúc mình phải đợi lâu hơn, mà còn không than vãn lấy một lời. Minh cười thầm trong bụng.

– Hạnh đang giận mình đấy à?

– Chả giận! – Cô gái vẫn nhấm nha nhấm nhẳn.

Cứ như trước đây thì có lẽ Minh đã phải vò đầu bứt tai, xin lỗi Hạnh rồi. Nhưng bây giờ, anh chẳng hề lo lắng một chút nào lại nửa đùa nửa thật:

– Chán thế. Ai lại đi giận một người sắp sửa phải đi xa bao giờ! Còn có hơn chục tiếng đồng hồ…

Câu nói của Minh đã có tác dụng. Hạnh không thể giữ nguyên được thái độ cũ nữa. Cô lườm Minh một cái:

– Ai giận? Chỉ được cái nói liều!

– Không giận thì thôi vậy. Chỉ sợ có người nói dối thôi.

Hạnh lại nguýt thêm cái nữa:

– Người ta thèm giận mình lắm đấy!

Minh cảm thấy có một cái gì đó hơi ngộ ngộ, hay hay trong câu nói của cô nàng đáo để này. Chắc là hết giận rồi! Anh thở phào, làm ra vẻ ngạc nhiên:

– À, hôm nay Hạnh không còn là một cô bộ đội nữa nhỉ. Đằng ấy được phục viên rồi à?

Ghét quá đi mất! Hạnh thầm nghĩ và cô thừa biết, ông tướng này đang tìm cách làm lành đây. Tối nay, cô không mặc quân phục chỉ vì mỗi một lí do, là cả hai bộ cô đem giặt cùng một lúc đều chưa khô hẳn. Mà chính Minh cũng đã từng nói, Hạnh mặc thường phục trông đẹp và có vẻ dịu dàng hơn đấy thôi. Chứ quần áo bộ đội vào, trông cứng rắn, nghiêm trang quá. Lại quân hàm, quân hiệu nữa, chẳng còn nữ tính tí nào.

– Mình tưởng Minh không đến cơ. Đã định bỏ về…

– Thế bây giờ thì sao? Có định về nữa không?

– Có chứ! – Hạnh khẽ gật. – Nhưng có lẽ phải sau đây hai tiếng nữa.

– Lẽ ra mình không đến muộn đâu, nhưng có ông bác ở quê ra tiễn chân thằng cháu. Khổ, cụ ở Nam Định đi từ sáng sớm mà mãi gần năm giờ chiều mới đến đây. Cơm nước xong, nhìn đồng hồ thì thấy đã muộn đến hơn mười phút rồi. Vẫn phải cố nán lại nói vài ba câu chuyện chứ chẳng lẽ lại ra đây ngay, sợ cụ hiểu lầm.

– Mình đã định bỏ về nhưng lại thôi. Tại vì người ta cứ nhìn nên ngại ơi là ngại.

Đôi bạn vừa bước đi chầm chậm vừa trao đổi với nhau những điều không định trước. Một cơn mưa bụi giăng giăng tự lúc nào, và Minh chỉ nhận thấy nó khi tình cờ ngước nhìn lên quầng sáng vàng yếu ớt từ cây cột điện. Anh cũng phát hiện, mình đi ngược chiều với lần trước, mới đó thôi mà đã cách đây gần năm tháng. Lúc ấy, Minh đèo Hạnh trên chiếc xe đạp của cô, và mưa thu hơi lạnh. Còn hôm nay mới mồng ba Tết, trời đã ấm lên nhưng có vẻ nồm. Đêm mai, mình lại ở một nơi xa rồi. Không nén được, Minh thở dài đánh sượt khiến Hạnh phải giật mình:

– Khiếp, làm gì mà thở dài ghê thế?

– Thì… Hạnh cũng biết rồi mà. – Minh trả lời lấp lửng.

– Thử nghe mấy câu này xem sao nhé! – Cô gái bỗng rụt rè đề nghị.

– Gì thế?

– Thơ. – Hạnh hắng giọng rồi khẽ đọc:

Chiến tranh làm cho chúng ta xa nhau

Như mẹ cha ta xa nhau thuở trước

Ôi những cuộc chia li khắp mọi miền đất nước

Cuộc chia li nào không mang nỗi niềm riêng…

           – Hay quá, thơ của ai mà hay thế? Còn nữa không? – Minh thốt lên đầy thán phục.

– Còn, nhưng mà mình không thuộc. – Hạnh hơi tiếc rẻ. – Thơ của anh Vĩ, người yêu cái Loan con cô Trang ấy. Minh còn nhớ cô Trang không?

– Nhớ chứ, cô dạy bọn mình hồi lớp bốn mà. Lê Thị Đoan Trang, nhà ở phố Đường Thành. Cô hồi này thế nào?

– Cô thì vẫn khỏe, nhưng mà chú hi sinh rồi. Đợt hai năm sáu tám… – Giọng Hạnh buồn như muốn khóc. – Ở giữa thành phố Huế.

– Người ta báo tử rồi à?

– Chưa. Nhưng có người bạn của chú mới được ra ngoài này và báo tin cho cô hồi tháng trước.

– Trời, suốt từ năm sáu tám đến giờ. Thế mà vẫn không báo cho người ta biết.

– Thì đang chiến tranh mà, Minh. Báo làm sao được! Buồn hơn nữa là anh Vĩ anh ấy đào ngũ về, vừa mới được hơn một tuần đã bị bắt đi rồi, từ trước Tết. Có người còn độc mồm độc miệng bảo là tại cái Loan.

– Vớ vẩn! – Minh có vẻ hơi phẫn nộ. – Tại có người sợ chết ấy! Ờ, nhưng mà bây giờ cái Loan nó đang làm gì, ở đâu?

– Nó đang học năm thứ nhất bên Đại học Nông nghiệp. Sáng nay mình đến chơi, chúc Tết cô Trang. Cả cô và nó đều buồn lắm. Nó đọc cho mình nghe bài thơ ấy nhưng không cho chép mà chỉ hẹn để lúc khác. Mình còn nhớ được mấy câu nữa, như thế nào nhỉ?… – Hạnh hơi nhăn trán rồi đọc tiếp:

Anh đi xa, anh sẽ đến trăm miền

Nhức nhối mãi lòng anh khi nhớ về phố nhỏ

Con đường vắng, bóng ai bên cửa sổ

Và em, em gái nhỏ của anh…

           – Hay, hay thật! – Minh trầm trồ rất thực lòng nhưng lại bỗng mỉm cười bí ẩn. – Chỉ có điều cái Loan nó thon thon hình vại, thoai thoải hình chum như thế thì còn “em nhỏ” vào đâu được nữa! Đúng là giàu trí tưởng… bịa.

– Im nào, để người ta đọc cho mà nghe! – Hạnh khẽ đấm Minh một cái. – Mấy câu đầu ấy, hình như là thế này này:

Lâu rồi anh không về thăm em

Liệu phố vắng có buồn thêm nỗi nhớ

Hoa phượng vĩ liệu có còn nở đỏ

Trên những nẻo đường xưa ta vẫn đi về…

           – Nữa! Tiếp tục đi chứ! – Minh khẽ giục. – Chẳng lẽ hết rồi à?

Hạnh lắc đầu cười, chun cả mũi:

– Chưa, nhưng mình chỉ thuộc được có thế thôi. Tiếc quá!

– Ừ, đúng là tiếc thật! – Minh nói bằng giọng nghiêm chỉnh. – Phải mỗi tội lại có người đào ngũ mất rồi… Nhưng mà Hạnh cứ yên tâm, mình sẽ không bao giờ đào ngũ đâu. Chắc chắn là như thế. Còn khổ thơ cuối cùng của bài thơ ấy đây, Hạnh nghe thử nhé:

Nếu anh không về sau cuộc chiến tranh

Thì em hỡi, chớ có buồn lâu nhé

Vì có cuộc chiến tranh nào chẳng thế

Người không về sau những cuộc chia li…

           – Trời, thế mà cứ bắt người ta đọc mãi từ này đến giờ! – Hạnh đấm cho Vinh quả nữa và không giấu được ngạc nhiên. – Nhưng tại sao Minh lại biết bài này?

– Tại vì… – Chàng thanh niên hơi ngẫm nghĩ một lát như để cân nhắc xem liệu có nên nói ra chuyện ấy hay đừng. – Thằng Vĩ không phải là tác giả bài thơ.

– Sao lại thế? Cái Loan nó bảo với mình…

– Nó bảo cái gì thì mình không biết, nhưng Hạnh có nhớ hồi bọn mình học lớp tám không? Có một thằng tên là Lộc, hơn bọn mình phải đến gần ba tuổi ấy. Nó ít nói lắm, chỉ toàn ngồi cuối lớp. Mình chơi với nó nên biết nhà nó rất nghèo, mà ông bố thì nát rượu. Ngày nào cũng uống và mỗi lần uống xong ông ấy lại lôi vợ lôi con ra mắng chửi… Có lẽ vì thế mà thằng Lộc nó rất buồn; mười bảy tuổi mới học lớp tám. Đến năm sau thì nó bỏ học rồi xin đi bộ đội luôn.

– A… – Hạnh chợt hiểu ra một điều gì đó. – Mình cũng vẫn còn nhớ mà. Anh ấy  ngăm ngăm đen, có một vết sẹo ở môi.

– Đúng rồi. Đấy là do bị bố nó đấm trúng mồm khi còn nhỏ. Nó làm bài thơ này để tặng một cô bé tên là Sâm, mười bảy tuổi mà nó thầm yêu. Cô ấy làm công nhân xúc than và ở cùng xóm với nó trên Yên Phụ. Tên bài thơ là Gửi em nơi ấy. Vì chơi thân với nhau nên trước lúc đi B, thằng Lộc mới nhờ ông bạn vàng đem bài thơ đến trao tận tay cái Sâm. Tại nó không còn thời gian nữa mà sáng hôm ấy cái Sâm lại phải đi làm sớm. Chính thằng Vĩ kể chuyện ấy rồi còn đọc bài thơ cho mình nghe đến mấy lần. Không thì mình làm sao mà biết được!

– Thế thì có khi anh Vĩ anh ấy không chuyển bài thơ cho cô bé kia đâu.

– Chịu, cái ấy thì mình không biết. Chỉ biết là sau đấy thằng Vĩ cũng đi bộ đội vì cho đến lúc ấy nhà nó chưa có ai đi cả. Một ông anh nó đang học năm cuối ở Đại học Tổng hợp. Một ông nữa ở nước ngoài. Nó cũng hơn mình một tuổi và vừa mới đi B hồi tháng Năm. Thế mà bây giờ bài thơ ấy lại hóa thành của nó thì cũng lạ. Cái khổ thơ mình vừa đọc cho Hạnh nghe là đoạn kết của bài thơ, ngay sau câu Và em, em gái to đùng của anh ấy.

Hạnh không thể cười được trước câu thơ vừa bị Minh đem ra giễu nhại. Cô chỉ thấy lòng mình nặng trĩu. Còn Minh thì nói thêm:

– Lúc mới nghe Hạnh đọc, mình chưa nhận ra ngay đâu. Nhưng đến đoạn gần cuối thì tự nhiên lại nhớ. Theo mình, mấy câu kết là hay nhất. Chỉ tiếc là bài thơ ấy có lẽ sẽ chẳng bao giờ được đăng ở đâu cả. Vì thế chỉ có mấy đứa chúng mình biết với nhau thôi.

– Sao lại thế? – Hạnh ngạc nhiên. – Thơ hay mà.

– Lại còn sao nữa! Cậu không thấy bài thơ rất buồn à?

– Buồn thì buồn chứ. Bài thơ Cuộc chia li màu đỏ của Nguyễn Mĩ, rồi Hương thầm của Phan Thị Thanh Nhàn vẫn được đăng trên báo Văn Nghệ đấy thôi.

– Đúng. Không những được đăng mà lại còn đoạt giải cao nữa cơ. Nhưng cái buồn trong hai bài thơ ấy là cái buồn rất lạc quan cách mạng. Còn bài thơ này lại có vẻ hơi yếu đuối và bi lụy tiểu tư sản. Hiểu chưa?

– Báo cáo thủ trưởng, em hiểu rồi ạ! – Hạnh trề môi giễu cợt.

Như một sự tình cờ, cô gái và chàng trai dừng chân bên tháp Hòa Phong. Ngôi tháp thật nhỏ bé khiêm nhường có kiến trúc hơi lạ, bốn phía là những cửa vòm lộ thiên cho mưa tạt gió lùa. Không biết người xưa dùng để làm gì, mà bọn Pháp cũng không phá đi khi chúng làm đường tàu điện. Mặc dù bao nhiêu tòa ngang dãy dọc trong Dinh Quan thượng đều đã bị san bằng để lấy chỗ xây dựng những công trình mới, trong đó có tòa Thị chính và nhà Dây thép[5].

Hạnh ngẫm nghĩ thế nào đó rồi bỗng hỏi Vinh:

– Này, sao cậu không ở lại thêm một ngày nữa rồi hẵng đi? Lên đơn vị sớm để làm gì?

– Ở lại làm sao được! – Minh không giấu được ngạc nhiên. – Mà sao Hạnh lại hỏi thế?

– Thì… hôm nay là thứ sáu, mai thứ bảy. Có lên trên ấy đúng ngày thì cũng đã làm gì đâu. Ngày kia là chủ nhật mà! Người ta cũng phải châm chước chứ.

– Không được đâu đồng chí ơi! – Minh khẽ lắc đầu, vẻ bông đùa. – Các cụ nhà ta đã bảo, quân lệnh như sơn mà! Lên muộn, bị kỉ luật thì có mà chết. Hơn nữa, chẳng lẽ chủ nhật thì lính tráng không đi B được à?

– Chết cái gì! – Tự nhiên Hạnh đâm ngang. – Mà có kỉ luật, không cho đi B nữa lại càng may.

Minh bật cười trước suy nghĩ có phần ngộ nghĩnh của Hạnh. Không ai lại kỉ luật bằng cách không cho lính tráng đi B nữa. Có mà điên! Nhưng tạm giam, bắt học chính trị rồi lao động cải tạo thì chắc chắn. Sau đó sẽ đi B cùng với đơn vị khác thôi, trốn đi đâu được! Anh nhấc chiếc mũ mềm ra khỏi đầu, lộn trái để lau qua khuôn mặt ẩm ướt của mình rồi lại đội lên như cũ.

Trong một lúc, cả hai cùng im lặng. Trước mắt họ là tháp Rùa mờ ảo chìm trong mưa. Mặt nước phẳng như một tấm gương, tưởng chừng có thể bước đi trên đó. Phố Hàng Khay vắng tanh. Minh nhẹ nhàng cầm lấy bàn tay mềm mại và hơi lạnh của người bạn gái mà không hiểu tại sao cô lại khẽ run lên.

– Hạnh làm sao thế?

– Không sao. – Hạnh lắc đầu với gương mặt hơi loáng ướt.

Minh vụng về lấy tay lau mặt cho Hạnh. Rồi không cưỡng lại mình được nữa, anh đặt lên môi cô một cái hôn đắm đuối thật dài.

Hạnh sợ hãi nhắm nghiền mắt lại. Cơ thể cô đột nhiên trở nên nhẹ bẫng, chơi vơi trong một cảm giác vô cùng kì diệu mà cô chưa từng biết đến bao giờ.

*

*         *

Cơn sốt rét đến với Hạnh kéo dài đã năm ngày. Chiều ấy, sau khi đưa Minh vào lán điểm[6] xong, chị bỗng thấy mình mệt mỏi đến rã rời. Có lẽ vì mấy đêm vừa rồi mất ngủ và xúc động quá đấy thôi, Hạnh nghĩ. Nhưng chỉ một lúc sau, các khớp xương của chị như bỗng rụng hết ra và một cảm giác ớn lạnh sởn gai ốc chạy khắp cả người, lan lên ngực. Con suối hằng ngày Hạnh vẫn lội qua, nước chỉ đến mắt cá chân hôm nay buốt như nước đá. Cái lạnh ấy như một mũi kim rất dài, xuyên lên tận óc làm chị rùng mình, suýt nữa thì khuỵu xuống ngay giữa suối. May sao Hạnh vẫn gắng gượng về được đến nhà, treo túi sổ sách lên cái cột ở đầu giường rồi vội vã đi nằm. Mấy viên clorôkin[7] chiều nay đã tỏ ra không có tác dụng. Chị giở chăn ra đắp và bắt đầu run lên cầm cập.

Hôm nay Hạnh đã khá hơn một chút. Hường vừa đi trực về, vội xuống bếp lấy cháo lên cho chị, nhưng Hạnh không ăn. Hường ái ngại lật một góc chăn ra:

– Em lấy thuốc tiêm cho chị nhé?

Đôi mắt vẫn nhắm nghiền, Hạnh thều thào:

– Không cần đâu, chị đỡ rồi. – Hạnh lại kéo chăn lên.

Không biết làm gì hơn, Hường chép miệng, đậy bát cháo lại cẩn thận rồi lặng lẽ đi ra. Đến đêm, khi cô hết phiên trực về thì thấy bát cháo vẫn ở nguyên chỗ cũ, nhưng Hạnh đã bỏ bớt được một tấm chăn và cũng không còn trùm kín đầu nữa. Khuôn mặt chị tái xanh, mái tóc rối bù vương cả xuống trán và hai má.

– Chị thấy trong người thế nào rồi? – Hường hỏi đầy lo lắng.

– À, chị đỡ nhiều rồi.

Cô y tá trẻ ngồi ghé xuống bên, đưa tay vuốt lại mái tóc của Hạnh cho đỡ rối. Chị rùng mình vì những ngón tay lạnh lẽo của Hường.

– Anh Minh thế nào rồi hở em?

Hường mỉm cười vui vẻ:

– Khá lắm rồi chị ạ. Anh ấy đi lại, ăn ngủ được rồi. Các vết thương cũng ổn nhưng còn hơi tức ngực.

– Thôi thế cũng được rồi. – Hạnh nói sau giây phút trầm ngâm. – Chứ như hôm nọ thì sợ quá.

– Sao chị không ăn cháo đi? Nguội ngơ nguội ngắt từ bao giờ rồi.

– Miệng đắng quá nên chẳng thiết ăn gì nữa.

– Thế mà chị cứ động viên người bệnh dù thế nào cũng phải cố gắng mà ăn cho chóng khỏe đấy! – Hường khẽ cằn nhằn.

– Tại vì… người ta là thương bệnh binh, còn chị thì có làm sao đâu. – Đôi môi nhợt nhạt của Hạnh hơi động đậy. – Thầy thuốc mà!

– Thầy với chả thợ! – Hường đay lại. – Chị mà không ăn thì có ngày em phải khiêng chị ra rừng đấy. Chị có biết, không ăn thì mẻ cũng chết không?

– Biết rồi.

– Em nói cho anh Minh biết nhé! Chị có muốn thế không?

– Ấy, đừng! – Hạnh vội ngăn lại như sợ Hường nói ngay bây giờ. – Đừng nói vội em ạ. Cứ từ từ đã.

Hường không nhịn được cười trước thái độ ấy của Hạnh:

– Chị thật đúng là… Hâm quá đi mất! Mai em sẽ nói hết ra cho mà xem.

– Mày mà nói thì tao cốc chết!

– Em chả sợ. Chị còn đang sốt cơ mà.

Thấy Hạnh không nói gì, Hường lại hỏi:

– Hồi xưa chị học cùng một lớp với anh ấy à?

Hạnh không biết, Hường vừa dùng từ anh ấy với một ẩn ý.

– Ừ.

– Chắc là… thân nhau lắm nhỉ?

– Ừ. Con chấy cắn làm đôi.

– Giời đất ơi, con giai mà cũng có chấy ấy à? – Hương giả vờ trợn mắt lên kinh hãi.

Hạnh lại ừ thêm lần nữa, thấy cái trò nhấm nhẳn này cũng hay hay.

-Thế… hai người đã có gì chưa?

– Cái con ranh này! Có gì chưa là có gì, hả? Tao đấm mày chết bây giờ! – Hạnh giơ nắm tay lên dọa. – Chỉ được cái linh tinh.

Hường cười phá lên như nắc nẻ, khẽ giúi Hạnh một cái:

– Em biết hết rồi cơ, chị đừng có mà giấu em. Anh ấy bảo…

– Quỷ quái ở đâu ạ! – Hạnh không để cho Hường nói nữa. – Đi đun lại cháo cho chị đi. Đói rồi đây.

– Vâng ạ, thưa thủ trưởng! – Hường đứng dậy với tiếng cười chưa dừng lại.

Lát sau, bát cháo đã được bưng lên. Hạnh chống hai tay ngồi dậy rồi run rẩy bước lại bên bàn. Mặt bàn được ken bằng nan tre và dây mây, cong lên như một cái mo cau. Hạnh vén tóc hai bên thái dương và tai rồi cầm thìa múc cháo, đưa lên miệng trong khi Hường ngồi ngay bên cạnh.

– Trời đất ơi, sao mà ngọt thế? – Hạnh kêu lên. – Em lấy ở đâu ra đường thế hở?

– Thì chị cứ ăn đi, hỏi làm gì!

– Em lại lấy đường của thương binh cho chị ăn đấy à? Sao lại làm thế? – Hạnh cau mày.

– Thì chị cũng đang ốm đấy thôi.

– Không được đâu, Hường ơi. Bận sau thì đừng có làm thế nữa nhé. Vi phạm kỉ luật đấy.

– Một tí đường thì có làm sao đâu mà! – Hường vùng vằng đứng dậy. – Chị làm gì mà nguyên tắc thế?

Hạnh khẽ thở dài buồn bã:

– Đây là tiêu chuẩn của thương bệnh binh, em đã hiểu chưa? Đường của chị em mình thì đã hết rồi, chị ăn cháo muối cũng được. Người ta đánh nhau, vào sống ra chết… Mình dù sao cũng ở tuyến sau.

– Ở tuyến sau thì không chết, không bị thương được à? – Hường cãi.

– Em đừng nói bậy. Tuyến sau dù sao cũng an toàn hơn và còn có cái mà ăn. Chứ bộ đội, có khi cả tuần không được một hạt cơm vào bụng kia kìa.

Hường biết là Hạnh nói đúng, nhưng cô vẫn ấm ức vì lời nhắc nhở vừa rồi. Chỉ có mấy thìa đường thôi mà… Không ăn thì lấy sức đâu làm việc. Mình có tham ô, trộm cắp gì cho cam. Chỉ là bồi dưỡng một tí cho chị ấy. Cô không nói năng gì nữa, chỉ lặng lẽ mắc màn đi ngủ.

Có tiếng một con gà rừng ở đâu đó gáy te te. Hạnh tắt đèn rồi cũng đi nằm nhưng mãi vẫn không buồn ngủ. Có lẽ vì đã mê mệt suốt mấy ngày rồi. Chị chỉ thấy đầu óc hoàn toàn trống rỗng trong khi trán lại hâm hấp nóng.

Mới đấy mà đã hơn ba năm rồi, Hạnh thầm nghĩ. Chắc chắn là Minh không ngờ có cuộc gặp gỡ ở đây. Cũng đúng thôi, vì có ai biết trước được cái gì sẽ đến với mình. Trong suốt ba năm trời ấy, Hạnh chỉ nhận được có một lá thư duy nhất của Minh, hơn bốn tháng sau khi anh đi B. Chị không nghĩ là anh chỉ viết có thế, nhưng không hiểu tại sao mình không nhận được. Rồi sau đó là những ngày bặt vô âm tín. Do đường đi quá xa, hoàn cảnh chiến trường không cho phép hay vì chị cũng chuyển sang nơi khác? Tiếc rằng Hạnh không thể viết thư cho Minh vì lúc đó, anh chưa được biên chế về đơn vị nào nên không có hòm thư chính thức.

Tốt nghiệp khóa đào tạo quân y sĩ cho chiến trường với thời gian rút gọn, Hạnh được điều luôn vào mặt trận này. Lúc tiễn chân con ở ga Hàng Cỏ, mẹ chị, một cán bộ của Hội Liên hiệp phụ nữ không hề khóc mà chỉ nhẹ nhàng căn dặn:

– Con phải chú ý giữ gìn sức khỏe. Đi đến đâu, ở đâu cũng nhớ biên thư cho mợ biết. Cậu thì ở xa, mà mợ chỉ có con là lớn. Phải chú ý giữ mình…

Hai đứa em của Hạnh cứ bịn rịn mãi, không muốn rời người chị. Cô gái Hà Nội cố giữ được vẻ cứng rắn bề ngoài cho đến khi cả đoàn tàu giật lên một cái rồi chuyển bánh. Cũng chỉ đến lúc này, nước mắt Hạnh mới trào ra. Xa mợ và các em thật rồi. Xa Hà Nội thật rồi. Không biết liệu có ngày trở lại nữa không… Xung quanh Hạnh, tất cả đều đã òa lên khóc.

Bấy giờ là đầu tháng Tư năm Bảy hai, một năm rồi sẽ được ghi nhận là vô cùng đẫm máu trong cuộc chiến tranh chống Mĩ.

Ngay sau khi vào đến chiến trường, tuy không phải trực tiếp chiến đấu nhưng Hạnh cũng đã biết thế nào là khó khăn, gian khổ và nguy hiểm. Đầu tiên, là chặt cây làm nhà và đào hầm trú ẩn. Không chỉ cho riêng mình, mà còn phải lo cho cả thương bệnh binh. Tuy có sự giúp sức của cả một đại đội công binh miền và một trung đội vệ binh[8] nhưng như thế là chưa đủ. Tiếp đó là làm kho hậu cần, phòng mổ, hệ thống giao thông hào nối các nhà hầm với nhau, rồi đủ những thứ việc linh tinh khác. Ai cũng gầy đi thấy rõ và người ta cười nói cũng ít hơn. Một số đã lăn ra ốm và sốt rét. Đám con gái đã có những cô mỗi lần chải đầu lại rụng hàng túm tóc. Vào giữa mùa mưa, có những ngày mỗi người chỉ được đúng hai lạng gạo.

Cuộc sống thường chứa đựng bao nhiêu nỗi bất ngờ và những sự ngẫu nhiên nhiều khi lại đảo lộn tất cả những gì có từ trước đó. Xa Minh, nhưng không hiểu tại sao Hạnh vẫn tin thế nào anh cũng sẽ trở về. Không hiểu tại sao cô vẫn nghĩ một người như anh không thể nào bị cái chết ở chiến trường cướp mất. Phải chăng vì khi đã yêu, con người ta phải tự nghĩ ra điều gì đó để mà tin. Chứ cứ lo lắng, bi quan thì thật khó mà sống nổi.

Nhưng không lo làm sao được, khi mà cuộc chiến đang ngày càng ác liệt. Mĩ đã ném bom hủy diệt cả Hà Nội và Hải Phòng, bao nhiêu là người chết. Trong Nam, sau mùa hè đỏ lửa ở Quảng Trị, ta cũng tìm đủ mọi cách để có thêm chút vốn liếng trên bàn đàm phán tại Paris. Những tưởng sau Hiệp định, mọi thứ sẽ yên và đúng là yên thật, trong khoảng vài ba tháng. Nhưng đến bây giờ, khi mà hơn một năm đã trôi qua, tình hình lại căng dần. Không còn những trận đánh giành dân chiếm đất đơn lẻ nữa, mà là chiến dịch với quy mô lớn hẳn hoi. Cứ nhìn vào số lượng thương binh được đưa về đây thì biết.

Bác sĩ Kim Anh, một đàn chị hai mươi chín tuổi đã có lần khuyên Hạnh:

– Mày còn trẻ, nhưng cũng phải nghĩ đến chuyện đường dài đi là vừa. Yêu một thằng lính chiến làm gì, biết là nó có về không. Hay đến lúc nó về, lại đui què mẻ sứt, khổ cả đời. Tệ hơn nữa, là nó lành lặn nhưng lại đi theo con khác thì sao? Đừng quên là con gái chỉ có một thì, em ạ. Mà cái bọn đàn ông, khó tin được lắm.

Hạnh ngạc nhiên, chưa biết nói thế nào thì chị kia lại tiếp:

– Theo tao, mày cứ yêu béng ngay lấy một đứa nào ở cùng ngành là tốt nhất. Đơn vị mình thiếu gì. Toàn những anh chưa vợ nhé! Như cái thằng Khôi ấy, cũng là dân Hà Nội đàng hoàng mà bố nó lại làm giám đốc. Nó cũng rất để ý đến mày. Yêu nhau, cứ có chửa đi xong rồi báo cáo tổ chức, thế là được ra Bắc luôn. Chứ ở lại đây thì biết đến bao giờ. Có mà chết già à?

Hạnh choáng váng trước những lời khuyên có vẻ chân thành ấy. Có ai ngờ… Kim Anh là đảng viên, vào đây trước cô hai năm, có người yêu là một ông chủ nhiệm hậu cần của sư đoàn. Bình thường, chị vẫn nói năng đặc giọng Bôn[9]mà… Hạnh nhận ra, chị chưa hiểu gì về mình hết. Cô cảm thấy như vừa bị xúc phạm và không hiểu, nếu nghe thấy những lời lẽ vừa rồi của Kim Anh thì ông chủ nhiệm hậu cần sẽ có thái độ ra sao? Hay là ông cũng tán thành quan điểm của chị này?

Đối với Minh, Hạnh nghĩ không bao giờ anh thay lòng đổi dạ. Nhưng nếu anh không trở về? Nếu anh không trở về ư? Hạnh không muốn đặt ra cho mình giả thiết đau buồn ấy, mặc dù cô vẫn biết mọi cái đều có thể xảy ra. Thế nào Minh cũng sẽ trở về với cô. Cho dù trên người anh chi chít vết thương hay thậm chí là mất đi một phần thân thể. Hạnh sẽ không bao giờ phụ bạc anh mà sẵn sàng vì anh, phấn đấu vượt qua tất cả.

Không ai ngờ bi kịch lại xảy ra như thế. Chừng độ nửa tháng sau cuộc chuyện trò với Kim Anh, Hạnh được phân công đi lĩnh thuốc trên Khu bộ. Cả bệnh viện đang ở trong bầu không khí lo âu vì sáng hôm trước, người ta phát hiện có dấu chân lạ bên bờ suối, chắc là của bọn biệt kích để lại. Trung đội vệ binh lập tức tỏa đi các hướng truy tìm nhưng không bắt được tên nào. Tất cả đều gấp rút chuẩn bị cho việc di chuyển sang địa điểm khác để đảm bảo an toàn. Nhưng ngay buổi chiều hôm ấy, máy bay địch đã đến ném bom. Bác sĩ Kim Anh chết cùng với hơn một chục thương bệnh binh đang điều trị ở đây.

Tối mịt, khi Hạnh về đến nhà thì không còn nhận ra đâu với đâu nữa. Xung quanh, cây cối ngã đổ ngổn ngang, đầy những đất đá, mảnh ni lông, chai lọ vỡ, nồi niêu bát đĩa… Quần áo, chăn màn và những đồ dùng của con nhà lính vương vãi khắp nơi. Không khí sặc sụa mùi khói bom và một vài đám cháy vẫn còn leo lét. Nhìn thấy Hạnh, Hường từ đâu đó bước ra, khóc òa lên nức nở. Chưa biết động viên cô bạn thế nào, Hạnh đã phải cùng với cả nhóm còn lại đi theo một giao liên để đến nơi ở mới. Và chỉ sau đó khá lâu, chị mới biết Kim Anh đang có thai ba tháng, có lẽ đúng theo kế hoạch để bác sĩ này ra Bắc.

Không ngờ gặp lại Minh trong hoàn cảnh này, Hạnh đã quyết định chưa vội cho anh biết chị đang ở đây, chừng nào anh chưa thoát khỏi tình trạng hiểm nghèo. Nhưng cơn sốt rét tai ác đã bất ngờ quật ngã Hạnh, không cho phép chị làm gì hết.

Sáng nay, Hường dừng lại khá lâu ở lán Minh nằm. Gọi là lán thường vì thương bệnh binh ở đây không còn phải chăm sóc đặc biệt nữa. Lán có hơn chục người và trong số ấy, Minh có vẻ khá hơn vì anh đã đi lại và nói chuyện được rồi. Vết thương trên đầu anh đã khô, còn cánh tay thì may là không bị nhiễm trùng, được cố định bằng hai cái nẹp tre và băng treo trước ngực.

Hường đến, vẫn mái tóc bện đuôi sam nổi bật trên lưng áo choàng trắng. Bây giờ thì Minh đã biết, cô mới mười chín tuổi, quê ở Hải Hưng[10] có bố là đội trưởng hợp tác xã. Dưới cô, còn có đến tận bảy đứa em, nhưng học xong lớp chín, sau khi ở nhà một năm, cô cùng mấy đứa bạn rủ nhau làm đơn xin đi bộ đội và trúng tuyển. Thương bệnh binh ở đây dù khó tính đến mấy cũng không dễ mà gây sự với cô y tá lúc nào cũng tỏ ra vui vẻ, nhiệt tình với giọng nói dịu dàng.

Ở lán này, Minh là người nói chuyện với Hường nhiều nhất vì chỉ có anh tiếp chuyện cô được. Còn những người khác, anh thì cụt chân, anh vết thương thấu phổi,  anh khác lại hỏng cả hai mắt, suốt ngày chẳng nói lấy một lời. Đặc biệt, một anh tên là Nguyên còn tỏ ra căm ghét đàn bà đến mức độ không thèm nhìn Hường lấy một lần; lúc nào cũng cấm ca cấm cảu. Sau Minh mới biết, cô vợ trẻ của anh ta ở quê đã ngã luôn vào lòng người khác ngay sau khi chồng đi B được vài ba tháng.

Hường ngồi ghé xuống bên giường Minh và mở đầu câu chuyện với nụ cười quen thuộc:

– Anh hôm nay thấy trong người thế nào rồi? Ăn ngủ được chưa ạ?

– A, cảm ơn bác sĩ, tôi đã khỏe như voi rồi. – Minh cố nói đùa. – Còn ngủ thì không biết trời đâu đất đâu gì nữa.

Cô y tá lúi húi vắt lại cái màn cho Minh rồi buộc túm nó lại bằng một sợi dây ni lông theo kiểu tết nơ cho đẹp.

– Em cho anh biết một tin quan trọng nhé. Nhưng mà anh phải cẩn thận đấy, không thì tim rơi ra ngoài mất.

Minh ngạc nhiên chưa hiểu Hường định nói gì thì cô đã tiếp tục với thái độ hoàn toàn nghiêm chỉnh:

– Anh có người quen ở đây. Người mà hôm nọ em đã nói với anh rồi ấy.

Minh vẫn chưa tin hẳn:

– Ai đấy?

– Thì anh cứ từ từ đã nào. – Hường mỉm cười tinh nghịch. – Em phải giữ bí mật cho đến phút cuối cùng chứ. Anh đã biết khu lán của nữ nhân viên ở đây chưa?

– Chưa.

– Thế à? Nhưng mà không sao. Anh đi ra ngoài, rẽ phải khoảng một trăm mét, sau đó rẽ trái, lội qua suối đi khoảng một trăm năm mươi mét thì rẽ phải thêm lần nữa. Sau đó rẽ trái chừng năm mươi mét là đến.

Đầu óc Minh bỗng rối tung lên trong một cảm giác lạ lùng. Chắc chắn là Hạnh rồi! Tuy vậy, anh vẫn cố gặng hỏi thêm:

– Nhưng người ấy là ai mới được chứ?

Hường vẫn mỉm cười tinh quái:

– Thì em đã bảo, người quen của anh mà! Anh cứ đi đi rồi sẽ biết. Người ấy cũng mong anh lắm đấy.

Cô gái cười to hơn rồi đi ra, bỏ lại Minh ngồi ngơ ngác. Cô bé này đùa tợn thật. Anh thầm nghĩ trong khi Tấc, anh bạn nằm kề bên lên tiếng:

– Thì cứ đi đi xem! Chắc là lại đồng hương đồng khói nào đấy chứ gì. Đi xem có điếu thuốc nào kiếm về cho cánh này hút với.

– Con gái, làm gì có thuốc! Ông nói cứ y như là bảo tôi đi tìm thầy tu mượn lược. – Minh hơi dằn giọng.

– Thì cứ thử xem thế nào. – Hoàng, một anh cụt chân khuyên. – Có mất gì của bọ[11] đâu.

– Đúng rồi!

Minh ngẫm nghĩ một lúc rồi mới đứng dậy, nhồi áo vào trong quần cho gọn:

– Nào thì đi!

Đến bên bờ suối, Minh đang tìm cách xắn quần để lội qua thì Hường từ phía sau đi tới. Cô nửa đùa nửa thật:

– Thế mà em cứ tưởng là anh không đi cơ đấy. Anh nhớ là qua cái nhà đầu tiên kia chừng một trăm mét thì rẽ phải nhé. Sau đó khoảng năm mươi mét nữa, rẽ trái là đến. Em bận sang kho dược một tí, chứ không thì đưa anh đến tận nơi.

Cô gái vén quần lội ào qua suối làm nước bắn lên tung tóe. Minh nhìn theo, chỉ thấy hai bắp chân mập mạp và trắng nõn của cô. Sang đến bờ bên kia, Hường buông ống quần xuống rồi biến ngay đi đằng nào không biết.

Minh đã vào đến sân nhưng trong nhà vẫn hoàn toàn yên lặng. Hình như có một người nào đó đang nằm trên giường thì phải. Anh ngần ngừ, định quay ra. Không, nhầm làm sao được. Hường đã dặn đến thế rồi, mà ở đây cũng chỉ có một lối đi duy nhất… Và đúng vào lúc này Minh mới nhìn thấy một chiếc túi có in hình chữ thập đỏ treo trên cột. Thôi đúng là Hạnh rồi! Trái tim anh bỗng đập loạn lên. Minh cố bước thêm vài bước nữa rồi đứng chôn chân ở cửa.

Một dáng nằm con gái có cái gì đó rất quen, mặt quay vào trong vách lá. Tấm chăn màu cỏ úa phủ từ lưng cô trở xuống để lộ mái tóc xõa dài.

– Hạnh ơi! – Minh khẽ gọi, nhưng tiếng gọi của anh như tắc nghẹn lại trong cổ họng, không thoát được ra ngoài.

Người con gái hơi giật mình quay lại, đánh rơi quyển sách xuống giường. Thì ra là Hạnh đang đọc cái gì đó, nhưng vì chị nằm nghiêng, quay lưng ra cửa nên Minh không nhìn thấy quyển sách ấy ngay. Chị vội vàng ngồi dậy:

– Anh… Minh.

Hạnh bỗng thấy giọng nói của mình lạ hẳn. Lần đầu tiên chị gọi tên Minh với chữ anh. Chị gấp vội tấm chăn và sửa lại mái tóc cho đỡ rối. Gương mặt chị cũng hồng lên trong khi Minh tự kéo ghế, ngồi xuống bên bàn.

Im lặng, im lặng quá. Ngoài kia, chỉ có mấy con bướm chập chờn bay trong nắng và tiếng chim kêu lích chích. Nhưng át đi tất cả, có lẽ là tiếng trái tim dồn dập của cả hai người.

– Hạnh… bị sốt à?

– Hạnh đỡ rồi. Còn anh…

Trời, cái chữ anh nghe mới ngượng nghịu làm sao. Minh nhận ra ngay điều ấy và anh bỗng yên tâm hẳn.

– Thôi, bọn mình cứ gọi nhau như ngày trước đi. Đừng ngại. Thế… Hạnh vào trong này đã lâu chưa?

– Gần một năm rồi. Nhưng ở chỗ này mới được hơn ba tháng. Tại vì chỗ cũ bị ném bom, tan nát hết.

– Thảo nào mình thấy nhà cửa, mọi thứ còn mới thế. Hạnh ở đây có một mình thôi à?

– Không, còn một người nữa. Cái Hường đấy. Sáng nay nó có đến chỗ Minh không?

– Có chứ. Chính nó chỉ lối cho mình đến đây mà.

– Cái con bé này! Đã dặn đi dặn lại bao nhiêu lần rồi… – Hạnh khẽ càu nhàu, vẻ bất bình ra mặt.

– Khiếp, làm gì mà đanh đá cá cầy ghê thế! – Minh cười trêu chọc. – Lẽ ra mình phải cảm ơn nó chứ. Không thì làm sao gặp được người ta.

Lại cái giọng ấy rồi, chẳng khác đi một tí nào. Hạnh thầm nghĩ nhưng không nói. Minh đứng dậy, thử dùng cánh tay phải khẽ ôm lấy chị, nào ngờ Hạnh vội vàng ngăn lại:

– Đừng! Cái Hường nó đang về kia kìa.

Minh ngoái lại và thấy đúng là cô y tá ấy đang về thật. Thì ra Hạnh vừa nhìn qua vai anh và thấy Hường, tay xách phích nước, miệng khe khẽ hát như định đánh tiếng cho hai người biết. Hạnh bỗng cười và khẽ hỏi:

– Thế Minh có biết là buổi tối hôm ấy ở bên cạnh tháp Hòa Phong, có hai đứa trẻ con nó rình nhìn bọn mình không?

– Ô thật à? – Minh ngạc nhiên thật sự.

– Lại còn không thật!

– Thế sao không nói ngay lúc ấy?

– Nói để làm gì! May mà không bị chúng nó ném cho viên gạch vỡ hay cục đá. Đằng nào thì cũng đã thế rồi.

– Thế nào anh Minh? Ngạc nhiên chưa? – Hường nói to ngay từ cửa.

– Chả ngạc nhiên tí nào. – Minh hơi nhún vai một cái.

– Hừ! – Cô gái khẽ giậm chân, làm ra vẻ dỗi. – Bận sau thì đừng hòng em nói cho anh biết nữa.

– Không có lần sau nào nữa đâu, Hường ơi! – Minh cười to. – Chỉ có đúng một lần này thôi và không bao giờ lặp lại nữa đâu!

Hường im bặt vì thấy Minh nói đúng. Làm sao còn có lần thứ hai nữa chứ. Cô pha chè rồi rót ra mấy chiếc ca cho cả ba người:

– Anh uống nước đi. Sâm đất đấy, uống vào cho dễ ngủ.

– Thế không ai mời tôi à?

– Em chỉ mời một người đại diện thôi, thủ trưởng ơi.

– Hay thật! Nhớ đấy nhé. – Hạnh giơ nắm đấm lên, đe dọa. – Tí nữa rồi tao sẽ cho mày biết tay vì cái tội đi mách lẻo.

– Í, em chả sợ. Tại vì em đã có đồng minh đây rồi. Đúng không anh Minh?

– Đúng! – Minh gật đầu khẳng định.

Cả ba cùng cười vui vẻ. Rồi lấy cớ là phải sang khu điều trị, Hường đi ra để cho hai người ngồi lại với nhau. Cũng chỉ chờ có thế, Minh liền dùng tay phải ôm lấy Hạnh và đặt lên môi chị một cái hôn dài. Bao nhiêu ngày khao khát! Cơ thể Minh rạo rực hẳn lên. Nhưng qua cái ôm, anh cũng nhận thấy ngay là Hạnh đã gầy đi và bộ ngực của chị cũng không còn nở nang như trước mà hình như lép xẹp mất rồi. Ôi, chiến tranh… Minh bỗng thở dài não nuột.

Thấy anh dừng lại giữa chừng, Hạnh lo lắng hỏi:

– Sao thế?

– Không, có sao đâu. Cái tay mình… nó hơi bị vướng ấy mà.

– Thôi chết, tại mình vô ý quá! – Hạnh lo lắng định nhấc cánh tay của Minh lên xem thử mà không biết rằng anh vừa nói thác ra như thế. – Có đau lắm không?

– Không sao. – Minh hơi hối hận với chính mình và thử ngọ nguậy cánh tay cho Hạnh thấy. – Hình như đang liền xương rồi thì phải. À, lâu nay mình có hay nhận được thư nhà không?

Hạnh lắc đầu buồn bã:

– Họa hoằn lắm mới được một lá, mà có khi phải mất vài ba tháng mới vào đến đây. Được cái cậu mợ mình vẫn khỏe. Cái Thảo thì lên lớp mười rồi và đã được kết nạp Đoàn, còn cái Hòa lớp sáu.

– Nhanh thế nhỉ.

– Ừ. Thì tính từ lúc Minh đi B, đã gần ba năm rồi còn gì. À, ảnh của chúng nó đây này.

Hạnh kiễng chân, hạ chiếc ba lô từ trên giá xuống. Chị lấy một bọc nhựa mềm, mở ra rồi đưa cho Minh quyển album cỡ nhỏ. Minh lần lượt xem từng tấm ảnh một. Ảnh gia đình. Một anh bộ đội đeo quân hàm thiếu úy với cô vợ trẻ đang bế đứa con nhỏ, đầu trọc lốc chắc là Hạnh đây. Minh tủm tỉm cười. Con người ta ai chẳng có một thời quần thủng đít, ngồi bô, chân đất! Ảnh hai đứa em của Hạnh. Những gương mặt mới hồn nhiên, tươi tắn làm sao. Cái thì chụp chung với bố, với mẹ. Cái thì chỉ có hai chị em. Cái chụp với bạn bè cùng lớp và cả một vài tấm chân dung toát lên vẻ thật trong sáng và thánh thiện. Anh chăm chú xem lại lần nữa trước khi trả lại quyển album cho Hạnh:

– Nom hai chị em nó hiền lành dễ thương ghê. Mong sao sau này chúng nó không phải như Hạnh hoặc mình lúc này, Hạnh ạ.

– Còn cái này nữa. – Hạnh đưa thêm cho Minh tấm ảnh cỡ chín mười hai[12] được tô màu cẩn thận.

Minh không lấy làm lạ vì anh đã từng được xem tấm ảnh ấy một lần. Năm tôi mười sáu tuổi, Hạnh viết ở mặt sau như thế. Tấm ảnh được cắt cúp ngang ngực với gương mặt hơi nghiêng có cái gì đó thật trong sáng và thánh thiện, không bợn chút âu lo. Ánh sáng ngược khiến cho mái tóc dày của cô như tỏa sáng. Một đôi mắt tròn to và môi trên hơi cong lên như đang làm nũng với ai. Minh cố tình trêu Hạnh bằng cách khẽ hôn lên tấm ảnh.

– Giả đây!

– Thì giả! – Minh đưa tấm ảnh cho chủ nhân của nó. – Cô bé của ngày xưa với Hạnh hôm nay không khác nhau lắm nhỉ.

– Có chứ, khác nhiều nữa ấy. Nhưng những cái gì cần thiết thì vẫn thế.

– …

– Minh có nhận được thư nhà luôn không?

Đến lượt Minh lắc đầu:

– Không. Kể từ ngày đi đến nay chả nhận được tin tức gì của gia đình, nhiều lúc như phát điên lên ấy. Thư của Hạnh cũng không.

Ngỡ là Minh có ý hơi trách móc nên Hạnh vội thanh minh:

– Mình chỉ nhận được có đúng một lá thư của Minh thôi. Nhưng vì không có hòm thư nên không viết trả lời được. Lá thư ấy mình vẫn còn giữ đây này.

Hạnh chìa ra trước mắt Minh chiếc phong bì đã ố vàng. Đấy, chính là lá thư mà Minh đã đòi hôn Hạnh nhiều, nhưng chưa có dịp nào thực hiện. Vậy thì bây giờ truy lĩnh nhé! Minh thầm nghĩ và mỉm cười ranh mãnh.

– Thế thì hơn hai năm rồi. Mình nhờ một người được ra Bắc gửi hộ đấy. Lúc ấy mình vừa mới ở viện ra sau trận sốt rét ác tính, phải nằm liền ba tháng tưởng chết. Còn đang ở đơn vị thu dung nên chưa có hòm thư. Với lại, lính tráng cứ thay đổi nơi đóng quân liên tục ấy mà. Mình cứ tưởng…

– Cứ tưởng là Hạnh đã thay lòng đổi dạ mất rồi?

– Không, làm gì có chuyện ấy. – Minh hơi lắc đầu, nghiêm nghị. – Cứ tưởng là Hạnh được ở lại ngoài miền Bắc cơ, nhưng vì bận học hành công tác nên không viết được, hoặc là do quân bưu và giao liên chuyển chậm. Mà Mĩ nó ném bom như thế…

– Bận gì thì bận nhưng đâu đến nỗi không viết được thư.

Hạnh chợt nhớ đến những điều có thể kể cho Minh biết, tuy đến lúc này đã là quá muộn:

– Khu phố nhà mình vẫn an toàn. Bị tàn phá nặng nhất là khu vực An Dương, Khâm Thiên và Bạch Mai. Có gia đình chết hết, không một người nào sống sót. Hôm trước khi lên đường vào trong này, mình có đến chào tạm biệt bác nhà Minh. Cái Vinh với thằng Phúc đi vắng, nên mình không gặp được. Chỉ biết là chúng nó đều đã đi làm và vào tự vệ hết rồi. Chị Bình thỉnh thoảng vẫn đảo về. Bác thì vẫn khỏe nhưng mắt hơi bị kém. Bác cũng nói là trước đó có nhận được thư Minh đấy.

– Ừ, mắt cụ nhà mình kém từ lâu rồi nên cứ phải đeo kính suốt. – Minh bỗng buồn thiu. – Nhưng mà thôi, Hạnh ạ. Điều quan trọng nhất là chúng mình gặp nhau ở đây rồi.

Anh nhẹ nhàng cầm tay người bạn gái lên ngắm nghía. Bàn tay trắng trẻo với những ngón búp măng thật đẹp giờ đã chai sần, thô cứng phần nào vì những công việc nặng ở đây. Vẫn còn may là không phải đi cuốc đất làm nương rẫy trồng lúa, ngô hay khoai sắn để tự túc một phần lương thực như ở nhiều nơi khác. Nghe nói ở nhiều nơi, lính mình vẫn thường xuyên bị đói và mỗi năm, đơn vị nào cũng đều phải tự túc lương thực ít nhất là vài ba tháng.

Minh đắm đuối nhìn mãi vào mắt Hạnh. Đôi mắt to với hàng mi rợp bóng lúc này bỗng đượm buồn. Đúng là Hạnh đã gầy đi nhiều và đôi má chị trở nên nhợt nhạt chứ không còn hồng như trước. Mái tóc cũng có vẻ thưa hơn. Minh nao lòng, khẽ thở dài vừa lúc Hạnh rút tay mình ra và nói:

– Cẩn thận không có người nhìn thấy thì chết.

– À, Hạnh có điếu thuốc nào không? – Chợt nhớ đến lời dặn của Tấc, Minh liền  hỏi một cách được chăng hay chớ.

Hạnh ngạc nghiên:

– Ô, Minh hồi này cũng hút thuốc à?

– Ừ, thỉnh thoảng làm một điếu thôi. Lính mà em[13].

– Như thế là không tốt đâu. – Hạnh khẽ lắc đầu trách móc. – Mà phổi Minh đang có vấn đề đấy nhé.

– Mình biết rồi.

Hạnh đứng dậy, lấy ra một bọc ni lông vuông vắn rồi đưa cho Minh. Anh ngạc nhiên khi nhìn thấy bao thuốc Capstan trong đó.

           – Đây, Minh thử xem có hút được không.

Minh cầm bao thuốc gần như vẫn còn nguyên, đưa lên mũi ngửi.

– Còn thơm lắm, chưa bị mốc đâu! Mà Hạnh cũng tích trữ thuốc lá đấy à?

Thấy Minh nhìn mình với một thoáng nghi ngờ, Hạnh liền giải thích:

– Đâu! Của một ông chủ nhiệm hậu cần trên sư đoàn đấy. Hôm nọ ông ấy ngồi đây chơi rồi bỏ quên, mình không biết làm thế nào để trả lại. Nhưng mà thôi, cứ hút đi, không sao đâu. Mình không nghĩ là ông ấy lại mất công đến tận đây để tìm bao thuốc.

Minh nhìn lại bao thuốc màu xanh sẫm với những dòng chữ trắng in tiếng nước ngoài. Loại thuốc lá ngon nổi tiếng đây. Lính mình có mấy ai dám chơi sang, hút loại thuốc đắt tiền và cũng khó mua này. Nhưng rồi anh tặc lưỡi, móc chiếc bật lửa Zippo từ trong túi quần ra, châm một điếu. Thử xem thế nào.

– Thế sao Hạnh lại quen ông ấy? Ông ấy nằm ở viện này à? – Minh nheo nheo mắt, hỏi qua làn khói thuốc.

– Không. – Hạnh lấy tay khẽ phẩy cho khói thuốc khỏi bay vào mũi. – Chuyện thì dài dòng lắm. Ông ấy yêu một chị bác sĩ ở đây. Hai người đã báo cáo tổ chức, định ít lâu sau sẽ cưới. Nhưng bệnh viện bị trúng bom và chị ấy chết mất rồi.

– Trời!

– May mà hôm ấy mình được cử đi lĩnh thuốc từ sáng sớm, chứ không thì chẳng biết thế nào. – Hạnh nói tiếp. – Sau đó ông ấy đến đây, cứ hỏi mãi về vợ sắp cưới, nhưng mình có biết gì đâu. Rồi bây giờ, mới được mấy tháng thôi, ông ấy lại đang định tán cả mình…

Minh lặng lẽ bập thêm một hơi thuốc rồi mới làm ra vẻ hững hờ:

– Ông ấy là người ở đâu mà hay thế?

– Chả biết nữa. Hình như là Thanh Hóa hay Nghệ An gì đấy.

– Được đấy nhỉ! – Minh nửa đùa nửa thật và chính thái độ ấy của anh lại làm cho Hạnh cảm thấy yên lòng. – Thế mình sắp ra viện đươc chưa hở Hạnh?

– Chưa, ra làm sao được! – Hạnh khẽ kêu lên, không hiểu tại sao Minh lại hỏi như vậy. – Mới chưa đến chục ngày, mà vết thương của Minh đã lành đâu.

– Nằm mãi nóng ruột quá. Mình định…

– Định về, đem quân vào giải phóng Sài Gòn ấy hả? Thôi đi ông ơi, không đến lượt ông làm việc ấy đâu! – Hạnh tỏ ý hơi giễu cợt. – Có cô thì chợ thêm đông. Cô đi lấy chồng thì chợ vẫn vui… Phải điều trị cho khỏi đã, vội gì.

Chị đắn đo một lát rồi mới tiếp:

– Minh có biết, hôm người ta đưa mình đến đây như thế nào không? Mê man bất tỉnh, phải cho vào nằm ở lán điểm đấy! Mà lán điểm là thế nào, ông có biết không?

– Biết. Cho những người được ưu tiên như tôi. Hoặc là lên thẳng thiên đường, hoặc là xuống ngay địa ngục. – Minh đáp bằng giọng tỉnh bơ. – Nhưng mà mình đã quay về lán thường rồi đấy thôi.

– Thì cũng mới được ba bốn ngày chứ có nhiều nhặn gì đâu.

Qua phiếu chuyển thương binh và trực tiếp khám cho Minh, Hạnh rất biết tình trạng của anh là như thế nào. Vết thương ở cánh tay có nguy bị rò xương hoặc nhiễm trùng, lại còn bị sập hầm, giập phổi. Vậy mà hôm nay, mới hơi đỡ anh đã nghĩ đến chuyện ra viện. Cái gì đang giục giã, kêu gọi anh đến thế! Anh có biết tôi đã lo lắng cho anh như thế nào không? Hạnh băn khoăn tự hỏi. Chẳng lẽ anh lại không nghĩ gì đến mình sau từng ấy tháng ngày xa cách!

Minh bước đến bên giường, cầm quyển sách mà Hạnh đang đọc dở lên xem. Trời đất ơi, Sông Đông êm đềm của Sôlôkhốp! Ai lại có thể kì công đem được nó vào tận trong này! Cuốn tiểu thuyết lừng danh bị mất đầu mất cuối nên chỉ còn mỏng dính nhưng Minh vẫn nhận ra ngay. Và khi anh lật giở, tình cờ lại đúng vào đoạn trung đoàn phó kị binh Grigôri Mêlêkhốp quên không đóng sẵn yên cương cho ngựa nên đến khi được lệnh tấn công vẫn còn loay hoay mãi. Đó cũng là lần đầu tiên, toàn trung đoàn xung phong mà không có chàng. Cuộc đời khốn khổ đầy những bi kịch của Grigôri từ lúc đó rẽ sang hướng khác vì người ta nghi ngờ chàng tìm cách tháo lui, chạy sang phía quân Bạch vệ.

Hơn hai chục ngày nữa đã trôi qua. Chuyện một thương binh đang điều trị tại đây bất ngờ gặp lại cô y sĩ vốn là bạn học cùng lớp cũ lan nhanh khắp viện. Người ta bàn tán xôn xao vì dù sao cũng là chuyện xảy ra lần đầu tiên ở đây. Hơn nữa, lính tráng nằm viện có việc gì để làm đâu, nên càng có điều kiện để mà tọc mạch. Thậm chí có những người chẳng biết Minh hay Hạnh là ai cũng xầm xì nhiều giai thoại về họ cứ y như thật.

Mấy anh cùng lán với Minh, lúc này đã khá hơn một chút cũng tán lếu tán láo ra trò. Thôi thì trêu đùa, gán ghép, bình phẩm đủ điều. Minh chỉ cười cười cho qua hoặc im lặng trước những lời lẽ đôi khi hơi thô bạo và dung tục ấy.

Ngoài những ngày thăm khám định kì, Hạnh vẫn thường xuyên đến các lán để gặp gỡ thương bệnh binh. Chị không có gì tỏ ra thân mật hay dành cho Minh sự quan tâm đặc biệt nào, nhưng không vì thế mà mấy ông tướng trời gầm ấy ít trêu anh hơn trước. Còn Minh thì không bao giờ hé môi kể về mối quan hệ của anh với Hạnh. Nhưng sau lần gặp đầu tiên, anh thường xuyên lên chỗ chị chơi và nhiều người đã quen với điều đó. Tất nhiên, để có được những giây phút riêng tư, đôi bạn cũng phải chờ lúc Hường đi vắng hoặc kéo nhau vào rừng, ra bờ suối, tránh không để ai bắt gặp. Hường cũng ý tứ nên mỗi khi có thể được lại chủ động lảng đi để cho hai anh chị nói chuyện với nhau.

Sáng nay, vừa mới thấy bóng Hạnh từ xa, Hoàng đã gọi Minh cùng với cái nháy mắt đầy ý nghĩa:

– Này, trung trưởng ơi, nàng đang đến kia kìa.

Không hiểu tại sao cái gã này cứ gọi mình là trung trưởng nữa, Minh làm như không nghe thấy. Biết rằng cô y sĩ sẽ còn ngồi lâu ở lán bên, Tấc bèn khơi chuyện:

– Trông cũng đẹp đôi ra phết, nhỉ! Cứ như là Dômêô và Duyliét ấy!

– Rômêô và Juyliét, giời ạ! – Phước rít một hơi thuốc lào rõ dài, phun khói ra đằng mũi rồi mới ề à sửa lại cho anh chàng nói ngọng. – Ai lại gọi tên người ta như thế bao giờ!

– Ôi dào, gọi thế nào mà chẳng được. Cứ ô với ét là xong chứ gì!- Tấc thản nhiên.

– Thế như tên ông, cứ gọi là Bấc hay Cấc hay Nấc, Khấc gì cũng được à? Đều là ấc cả mà! Có đúng không?

– Tên tôi thì khác, hiểu chưa? – Tấc gào lên.

Cả lán được phen cười nghiêng ngả. Hoàng thấy thế lại dồn thêm:

– Nhưng mà ông có biết Dômêô và Duyliét là ai không?

– Thì chắc là… – Tấc đưa mắt nhìn quanh, sợ có đứa nào đấy xỏ xiên giễu cợt mình. – Trong truyện của Liên Xô chứ gì. Tôi còn lạ!

– Đúng rồi! – Phước vỗ đùi đánh đét một cái, cười hô hố. – Đấy là một đôi bạn thân như kiểu ông Minh với bà Hạnh này này trong tiểu thuyết Đội thanh niên cận vệ của Víchto Huygô. Chuyên trị mặc áo màu trắng nhé. Cái cô “ét” ấy.

Cả lán lại lăn ra cười ầm ĩ, nhưng Phước vẫn điềm nhiên cứ như không:

– Mà cái ông… Đítto Huygô này cũng hay lắm nhé! Ông ấy đã từng sang Việt Nam làm chuyên gia tên lửa đến mấy năm giời đấy. Chứ không á, còn lâu mình mới bắn rơi được B 52!

Đến đây thì có lẽ là Tấc đã nhận ra mình đang bị chơi khăm. Anh ta hết hoài nghi nhìn Phước đang cố giữ vẻ mặt lạnh như tiền lại hỏi Minh cũng đang cười đến đỏ mặt:

– Có đúng không hở ông Minh?

Minh cố nhịn cười nhưng không được:

– Không! Đó là hai nhân vật trong vở kịch cùng tên của Sếchxpia, người Anh. Từ thế kỉ mười sáu mười bảy cơ mà.

Tấc hơi ngớ người ra trong khi Phước đã chuyển đề tài rất ngọt:

– Kể ra lấy vợ làm y sĩ cũng được. Bố mẹ con cái ốm đau “đở” phải lo. Còn chồng, hơi nhức đầu sổ mũi một tí là đã có người hỏi ngay “anh làm sao thế” rồi. – Phước giả giọng con gái ỏn à ỏn ẻn. – Tha hồ mà sung sướng nhé.

– Thôi đi ông tướng. Chỉ được cái nói bậy nói bạ là không ai bằng! – Thức xen vào, mặc dù nhiều khi anh ta còn nói quá hơn.

– Ơ hay, thế thì có gì là bậy với chả bạ nào? Rõ là hâm! Phước trừng mắt lên đe dọa.

– Chào các anh!

Hạnh bước vào trong lán. Không nghe nhưng chị cũng đoán ra được những người này vừa nói chuyện gì. Chị mở cặp, lấy tập bệnh án rồi bắt đầu đến từng giường khám cho mọi người. Bắt đầu từ Phước và bao giờ cũng vậy, Minh sẽ là người cuối cùng.

– Này Hạnh ơi, sao em không ưu tiên cho anh ấy một tí nào thế? Cứ bắt người ta phải chờ. – Anh chàng Thức bỗng nhiên bị ngứa mồm.

Hạnh không lúng túng trước câu hỏi ấy.

– Nguyên tắc là ai nặng hơn thì người ấy sẽ được khám trước. Ở đây không có ưu tiên nào khác đâu anh ạ.

Thức cụt hứng, đành phải ngồi im. Còn Hạnh, sau khi đã khám cho Minh xong, chị cảm thấy yên tâm hẳn vì tình trạng của anh đã khá hơn trước rất nhiều. Sắp sửa ra viện được rồi. Chị thầm nghĩ và chợt thấy lòng mình se lại vì biết rằng hai người lại sắp phải xa nhau đến nơi mà chẳng làm gì được. Nhân lúc không ai để ý, chị ghé vào tai Minh nói nhỏ:

– Tối nay nhé.

Minh đoán ra hơn là nghe được, nhưng anh vẫn gật đầu. Hạnh nhẹ nhàng đứng dậy, ôm tập bệnh án đi sang lán khác.

Chiều tối, sau khi cơm nước xong Minh thay bộ quần áo đang mặc rồi lặng lẽ bước ra ngoài. Anh không đem theo đèn pin vì biết tối nay, trăng sáng. Thấy thế, Tấc liền nháy mắt với Hoàng bên cạnh:

– Lại lên chơi chỗ “nàng” đấy.

Câu nói ấy lọt vào tai Minh nhưng anh không thèm chấp. Chả có vấn đề gì, kệ chúng nó thôi. Nói lắm thì mỏi miệng. Nhưng khi đến chỗ Hạnh rồi, anh không thấy chị đâu mà chỉ có Hường đang ngồi chải tóc bên bàn. Trước mặt cô là chiếc gương nhỏ hình chữ nhật được dựng lên. Một mùi thơm của lạc rang từ đâu đó bay vào đầy hấp dẫn.

– Anh vào đây. Chị Hạnh sắp về ngay đấy.

 – Chào em. – Minh giữ ý, ngồi ghé xuống cuối chiếc giường bỏ trống.

Hường treo tấm gương lên chiếc đinh đóng trên cột, gài cái lược sừng màu đen ra phía sau rồi ngoái lại phía Minh:

– Hôm nay trăng đẹp quá anh nhỉ. Thế này mà đi chơi thì tuyệt.

– Ừ, mà trông em hôm nay khác với mọi ngày ghê.

– Khác cái gì hở anh? Em thì ngày nào chẳng thế.

Đúng là Hường không có gì khác thật, ngoài mái tóc đuôi sam đã được gỡ ra và cặp lại bằng chiếc cặp i nốc nhỏ quấn len. Nhưng Minh vẫn cảm thấy có cái gì đó khác thật, tuy không biết tại sao. Có thể là do mái tóc vừa xõa ra, hay cả tấm áo quân phục đã bạc màu kia nữa? Anh mỉm cười nhớ lại chuyện người ta truyền tai nhau, phải bọc lại những chiếc cặp cho nó khỏi sáng lóe lên, không thì máy bay địch sẽ nhìn thấy mất. Và tiếng máy địch gầm rú rất to là vì bọn chúng lắp thêm máy tăng âm để làm điếc tai dân mình.

– Hường… Em phải đi đâu bây giờ à?

Cô gái cười lấp lửng:

– Vâng. Sao anh đoán tài thế?

Minh còn chưa nói gì thêm thì Hạnh đã bưng một đĩa kẹo lạc bước vào. Mùi thơm của nó tỏa ra khắp căn lán tuềnh toàng như giải thích cho cái mùi lạc rang lúc nãy. Hạnh đặt chiếc đĩa ấy lên bàn:

– Minh đến lâu chưa?

– Chưa. Mới độ ba bốn tiếng thôi chứ mấy.

– Khiếp, đàn ông con trai làm gì mà điêu thế! Hường lại đây uống nước em.

– Ơ, thế chị không cho em ăn kẹo lạc hay sao mà chỉ mời uống nước thôi?

– Người nhà thì không cần phải mời, đã hiểu chưa? – Hạnh khẽ phủi những tàn tro vương trên áo. – Chị không muốn cho bác này hút thuốc, nên phải thay thế bằng kẹo lạc. Ăn đi Minh. Vừa may là hai chị em nhà này mới được lĩnh cả một cân đường bồi dưỡng.

Ba người cùng ăn những miếng kẹo lạc giòn tan và uống nước chè sâm đất. Hường cứ xuýt xoa khen chị Hạnh sao mà khéo tay thế và hẹn lúc nào đó phải dạy cô cách làm kẹo lạc. Minh thì thêm vào, là em còn có thể học thêm nhiều món nữa, như nem rán hay thịt kho tàu chẳng hạn. Rồi chả biết thế nào câu chuyện lại quay sang việc đến bao giờ mới hết chiến tranh.

Minh kể, sau khi có Hiệp định Paris, đã có lúc đơn vị anh chỉ cách đám lính Sài Gòn có vài chục mét với hàng rào dây thép gai làm ranh giới. Có những lúc đôi bên còn xin thuốc lá của nhau và cùng đi tát cá ở đìa. Nhưng rồi đến lúc có lệnh, lại phải bắn nhau không thương tiếc. Tội nhất là trường hợp của một người lính tên Hòa. Sau khi bí mật báo tin cho trung đội của Minh là tối nay quân Sài Gòn sẽ nổ súng thì anh ta bị chính cấp trên của mình bắn chết.

Nghe đến đấy cả hai chị em Hạnh đều khẽ giật mình, còn Minh thì lấy làm tiếc vì đã kể ra chuyện đó. Chẳng để làm gì! Có những chuyện còn đau lòng hơn. Như trường hợp có anh biết vợ con của lính cộng hòa đang trốn ở dưới hầm trú ẩn liền quăng thủ pháo xuống luôn. Thiếu gì nơi chúng nó xả súng, ném lựu đạn vào Quân giải phóng. Anh khác, bảo tù binh là đi đi, nhưng lại xả súng từ phía sau, giết chết luôn. Ôi dào, bọn ngụy ấy mà! Bắt giữ làm gì cho mệt! Cơm đâu mà nuôi. Xưa nay, chiến tranh có nương nhẹ ai đâu! Và sự tàn bạo vô luân của nó thì đúng là thiên hình vạn trạng, không sách báo nào tả xiết.

Như để xua đi bầu không khí nặng nề, Hường gợi ý:

– Anh Minh ơi, chúng mình ra ngoài chơi đi.

– Ừ thì đi. Trăng sáng thế này…

Cả ba người đứng dậy, đi vòng ra phía sau nhà, lội qua suối rồi cùng leo lên một quả đồi. Dưới ánh trăng, những bụi sim xòe nở hoa chi chít. Gió thổi về mát rượi làm cho những bụi cây cũng rung rinh. Những bông hoa nở sớm đã bạc màu cứ chập chờn như cánh bướm. Nhưng mới được một quãng, Hường đã bấm Hạnh dừng lại, trao đổi với chị điều gì đó. Minh ngoái lại vừa đúng lúc cô quay gót.

– Kìa, sao em lại về?

– Em xin lỗi vì quên mất một việc cần. Anh chị cứ đi trước đi. – Cô gái đáp rồi thoăn thoắt bước xuống chân đồi.

– Có lẽ mình ở đây chờ nó một lát, Hạnh nhỉ.

– Không phải chờ, vì nó không ra nữa đâu. – Hạnh trả lời ngắn gọn rồi bước lên phía trước trong khi Minh chợt nhận ra, mình đúng là thằng ngốc. Và cũng đúng vào giây phút ấy, anh không thể nào ngờ được rằng đấy là lần cuối cùng anh nhìn thấy Hường còn sống.

Trăng từ trên cao rọi xuống khắp núi đồi. Một làn sương rất nhẹ đang lặng lẽ lan ra trên mặt đất. Có cả tiếng sột soạt của những con thú nhỏ nào đó chạy qua. Hạnh và Minh dừng lại bên một bụi sim có tảng đá khá to dưới gốc cây và lại hôn nhau cuồng nhiệt thật lâu.

– Chúng mình ngồi ở đây thôi, Minh ạ.

Cả hai cùng ngồi xuống. Đến lúc này Hạnh mới vuốt lại tóc, nói như phân trần:

– Cái Hường nó phải về trông nhà vì sợ có người đi kiểm tra đột xuất vào buổi tối. Ở đây vẫn thế mà. Người ta thấy vắng cả hai chị em là sẽ thành chuyện ngay, mệt lắm.

À, ra thế. Không phải là cô ấy chủ động bỏ về để hai anh chị được tự do vui vẻ với nhau. Minh nghĩ bụng.

– Mình đã định kéo nó đi cho bằng được vì sợ lại xảy ra chuyện khác cơ. Nhưng sau, đành chịu vậy.

– Chuyện khác là chuyện gì hở Hạnh?

– Minh không biết thật à?

– Không.

– Là… – Hạnh hơi bối rối. – Sợ có người nhìn thấy hai chúng mình đi với nhau buổi tối lại bị đồn thổi không hay. Đã hiểu chưa?

Minh hơi giật mình, không nói. Ừ, mà kể ra cũng phải. Trời tối, một nam một nữ không ngồi trong nhà trong cửa đàng hoàng lại leo lên đồi với nhau để làm gì? Rất có thể sẽ bị vu cho cái tội là quan hệ bất chính hay hủ hóa thì không biết cách nào cãi được. Và kỉ luật nặng sẽ là điều chắc chắn.

– Thế… Hạnh hẹn gặp mình có việc gì không?

– Có mỗi một việc, là để cho đỡ nhớ Minh thôi. – Hạnh bỗng cười khúc khích.

Câu nói và nụ cười của Hạnh làm cho Minh xốn xang trong dạ. Đã hơn ba năm rồi, nụ cười ấy vẫn vẹn nguyên trong tâm trí của anh và cho đến tận lúc này cũng thế. Anh nhẹ nhàng choàng tay ôm lấy ngang lưng Hạnh và chị cũng ngả đầu vào vai anh rất tự nhiên. Trong giây lát, Minh cảm nhận rất rõ mùi hương tỏa ra từ mái tóc của người bạn gái. Anh ghé mặt lên đó, hít một hơi dài sảng khoái.

Trên đầu cặp tình nhân, mặt trăng vẫn im lìm tỏa sáng và gió thì mát đến lịm người, khiến cho Minh chỉ muốn nằm lăn ra mà ngủ một giấc thật dài.

– Thật ra, mình muốn gặp Minh tối nay là để báo một tin quan trọng cơ. – Hạnh nói sau một hồi im lặng.

– Tin gì thế?

– Minh… có muốn ra Bắc không?

– Có chứ! Nhưng làm sao mà ra được? – Minh quay sang, vội đến nỗi va luôn cả mặt mình vào một bên đầu Hạnh.

– À, mọi chuyện là thế này. Vừa có công văn từ trên xuống, yêu cầu bệnh viện mình lập Hội đồng giám định y khoa, tổ chức khám và xếp loại cho tất cả các thương bệnh binh đang điều trị ở đây. Lên danh sách những người không còn đủ điều kiện sức khỏe công tác và chiến đấu lâu dài để có kế hoạch đưa ra Bắc.

Trái tim Minh như nảy lên một cái. Anh nhẹ nhàng buông Hạnh ra:

– Thế bao giờ thì người ta khám?

– Sáng thứ bảy này. – Hạnh bỗng buồn thiu, nhưng Minh lại không nhận ra điều đó. Anh tiếc rẻ:

– Ờ, nhưng như mình thế này thì khó lắm. Nghe nói là phải căn cứ vào từng vết thương cụ thể và chỉ những người bị mất từ bốn mươi lăm phần trăm sức khỏe trở lên mới được xem xét đến mà.

– Thế… Minh quên là có Hạnh ở đây à?

Cơ thể Minh như vừa có một dòng điện phóng qua. Ừ nhỉ, thế mà mình quên mất. Bên cạnh anh, Hạnh cũng đã ngồi thẳng dậy và giọng chị vẫn đều đều:

– Bác sĩ Lương, bệnh viện trưởng ở đây rất quý mình. Ông ấy vẫn gọi mình là con gái. Bây giờ nhờ thì chắc là sẽ được thôi, vì mình chưa bao giờ nhờ ông ấy việc gì. Hơn nữa, đây là lần đầu tiên người ta không hạn chế về số lượng thương bệnh binh được ra ngoài ấy, lại còn giao quyền quyết định cho bệnh viện. Mình nghĩ, rất có thể họ làm thế là để chuẩn bị cho một chiến dịch lớn, cần phải tinh gọn lại, xuống đường cho nhanh.

– Ừ, có lẽ đúng như thế thật. – Minh lại ôm lấy Hạnh. – Nhất là bây giờ, bọn Mĩ nó rút hết rồi, chỉ còn lại người Việt Nam với nhau thôi. Mà tinh thần của bọn lính Sài Gòn đang xuống thấp chưa từng thấy. Chúng nó không muốn đánh nhau nữa  đâu. Chỉ muốn bỏ hết, về làm ăn sinh sống.

Hạnh thì thầm, cứ như là mọi chuyện đã được định đoạt hết rồi:

– Minh ra ngoài ấy, lo việc học hành, nghề nghiệp sau này. Chứ bộ đội hay công an nhân dân vũ trang, theo mình nghĩ thì không phải là một nghề đâu. Như cậu mình ấy, đi biền biệt quanh năm suốt tháng, kể cả giữa thời bình. Chẳng giúp đỡ được gì cho vợ con. Mợ mình thì cứ phải chờ đợi suốt. Còn mình, không biết đến bao giờ mới được về hay là sẽ chết rục xương ở trong này. – Mấy lời cuối của chị bỗng buồn như muốn khóc.

Minh không biết an ủi như thế nào nên chỉ khẽ hôn lên tóc và vỗ nhẹ vào vai Hạnh. Ở mãi tít trên cao, trăng mồng mười chưa đầy lên hẳn trắng như một múi bòng trong mâm cỗ trung thu.

*

*         *

Suốt đêm ấy, Minh không tài nào ngủ được. Trong đầu anh ngổn ngang bao nhiêu suy nghĩ trái ngược nhau. Khả năng trở ra miền Bắc dường như đang rộng mở trước mắt anh hơn bao giờ hết. Ra Bắc, trước hết là được sống và không còn phải bắn giết ai, cũng chẳng lo bị giết. Không còn phải dãi nắng dầm mưa, đào hầm đào hố hay khiêng đồng đội đi chôn. Cũng không còn lâm vào cảnh có khi cả tuần lễ không một hạt cơm, đến lúc chết trong bụng cũng chỉ toàn rau măng, khoai sắn…

Minh biết, miền Bắc hay Hà Nội đều không phải thiên đường và mọi người vẫn khó khăn thiếu thốn đủ bề nhưng ít nhất ở đó anh còn có một nếp nhà che mưa nắng, có mẹ và các em và đấy mới là điều quan trọng nhất. Cơm độn mì hôi thì đã có sao! Điện lúc tỏ lúc mờ cũng được. Mình sẽ cố gắng thi vào đại học. Sẽ bỏ lại sau lưng tất cả những hiểm nguy, chết chóc ở nơi này. Sẽ có một cuộc sống bình yên và không còn lo việc Mĩ ném bom trở lại. Chao ôi, mới chỉ nghĩ đến thế thôi mà Minh đã rạo rực hết cả người. Nhưng còn Hạnh thì sao?

Nghĩ đến đây, Minh lại thấy nôn nao trong dạ. Không biết làm thế nào, vì dù sao Hạnh cũng là lính quân y ở đâu cũng rất cần. Và không dễ có cơ hội cho những người như chị ra miền Bắc, trừ khi được cấp trên cho đi học hay cả bệnh viện chuyển ra ngoài đó. Nhưng điều này rất khó xảy ra. Tự nhiên Minh cảm thấy mình ích kỉ và bất nhẫn thế nào… Đành lòng về Hà Nội để tìm kiếm sự an nhàn mà bỏ quên bạn gái ở đây ư? Cái kiểu người yêu gì lạ thế? Chỉ biết nghĩ đến mình!

Những suy nghĩ lan man lại đưa Minh về với trận đánh gần đây nhất khiến anh suýt chết. Đến lúc này thì anh đã cay đắng nhận ra, trong cái chết của Quảng có một phần lỗi lớn của anh. Chỉ vì mình sơ suất và chủ quan khi chọn vị trí đào hầm thôi, chứ không thì làm sao nên nỗi.

Minh chọn chỗ ấy vì anh thấy đấy là chỗ trũng, đất mềm nên dễ đào và căn hầm sẽ thấp hơn mặt ruộng, quân địch khó phát hiện hơn. Nhưng anh lại quên, ở đó có một gốc cây thốt nốt rất to, phần thân trên của nó đã bị bom đánh gãy từ đời nào. Giữa đồng không mông quạnh bọn địch sẽ có thể lấy phần gốc cây còn lại ấy làm điểm chuẩn để tấn công hay bắn pháo. Thế mà lúc Quảng góp ý, anh còn gạt đi vì ngại mất công đào hầm khác với cái cớ trời sắp sáng mất rồi, lại còn khoảng cách giữa các hầm. Và kết quả là như thế.

Không biết sau đó người ta đã chôn cất Quảng như thế nào, hay cứ để cho diều tha quạ mổ, giòi bọ lúc nha lúc nhúc. Trên thực tế, không phải một đôi lần quân ta không giải quyết được công tác thương binh tử sĩ. Vấn đề là ở chỗ không ai muốn nói ra thôi. Quảng mới được bổ sung vào trung đội của Minh có hai ngày, anh em còn chưa kịp trò chuyện gì với nhau và Minh cũng chỉ biết cậu ta quê Hà Tĩnh. Đó là trận đánh đầu tiên của Quảng, có ai ngờ cũng là trận cuối cùng. Trước mắt Minh như lại hiện ra hình hài người lính đáng thương với tư thế của một đứa trẻ đang tập bò trong cái hầm chữ U nông choèn. Đôi mắt của cậu ta vẫn chưa nhắm hẳn.

Gần sáng, Minh mới thiếp đi được một lúc. Không hiểu tại sao anh lại mơ thấy một khu nhà đổ nát đang bốc cháy đùng đùng, chẳng biết ở đâu. Một phụ nữ trẻ đang vật vã đào bới, kiếm tìm gì đó. Thế mà bên cạnh chị, một đứa con gái mới chừng năm sáu tuổi mặc bộ quần áo may bằng vải hoa, tay vẫn khư khư con búp bê bé tí. Cả hai mẹ con đều không khóc và khi Minh bước tới, họ chỉ nhìn anh bằng đôi mắt sưng vù. Anh cảm thấy nóng quá, định bỏ chạy nhưng không tài nào nhấc chân lên được, mồ hôi vã ra như tắm. Quẫy đạp mãi rồi Minh mới mở được mắt ra thì đã thấy Tấc đứng bên giường:

– Sao? Tỉnh lại được chưa? Mơ cái gì mà giẫy giụa lung tung thế?

– Ông… à… – Minh hơi ngơ ngác nhưng nhanh chóng định thần lại được và biết là mình đang ở đâu. Anh ngồi thẳng dậy, giụi đôi mắt cay sè. Thấy mặt mũi Tấc có vẻ hơi căng thẳng, anh liền hỏi:

– Có chuyện gì thế?

– Cái Hường nó chết rồi!

Minh giật mình, lạnh toát cả người:

– Sao, chết rồi ấy à? Làm sao lại chết? Thế… Hạnh có bị làm sao không?

Tấc lắc đầu, ra vẻ thờ ơ:

– Không biết! Ông đi mà hỏi.

Minh thất thần ngồi lặng đi một lúc. Trời đất ơi, vừa mới tối qua… Sao cuộc sống của con người ta lại vô thường đến thế! Nhưng có lẽ Hạnh không sao, vì nếu có chuyện gì thì thằng Tấc này nó đã nói rồi. Minh tự nhủ nhưng vẫn gần như tê liệt. Lát nữa mình phải chạy lên đấy xem sao. Anh thấy hiện ra ngay trước mắt là hình ảnh Hường đang chải tóc và sau đó, khi cô bước xuống dưới chân đồi. Thế mà bây giờ, Hường đã không còn nữa!

Trong lán, mấy gã đàn ông vẫn đang rì rầm bàn tán về cái chết của Hường. Mỗi người một phán đoán khác nhau, nhưng tất cả đều thống nhất ở một điểm là có lẽ cô bị rắn cắn thôi. Chứ còn gì nữa! Cơ thể vẫn còn nguyên. Nhưng cả một bên bàn chân và bắp chân thì lại sưng vù lên và tím bầm, sùi cả bọt mép ra. Hoàng gật gù, nhận xét lạnh băng:

– Chắc là tại cô nàng đi đâu đó với anh nào lại không cầm đèn theo, giẫm phải nó rồi bị nó đợp cho một phát thôi. Rắn lục hay chàm ngoạp thì phải biết!

– Đèn với đóm cái gì, tối qua trăng sáng thế cơ mà! – Tấc vừa gãi bụng sồn sột vừa nói. – Cứ hỏi ông Minh này thì biết. Có đúng không?

Minh lặng im, chẳng muốn nói năng gì. Tối hôm qua còn đi đứng, nói cười… Sao mà em chết oan chết uổng thế, Hường ơi?!

– Mang tiếng y tá mà dốt quá! – Phước thủng thẳng chêm vào. – Lẽ ra phải buộc  ga rô lại ngay rồi gọi người đưa đi cấp cứu chứ ai lại để như thế bao giờ!

– Thôi ông ơi, lúc bấy giờ cuống lên rồi, còn nghĩ được gì nữa mà ga với chẳng dô! – Tấc cãi. – Mà lấy dây ở đâu để buộc? Chẳng lẽ lại xé quần xé áo ra à? Hay là cắt dây rừng? Nói cứ y như là thật ấy!

– Ờ thì lúc cần cũng phải xé thôi, còn hơn là chết. Khổ cái là nếu hoảng quá, bỏ chạy thì nọc độc nó lại càng mau chạy vào tim, càng khó chữa… – Hoàng thủng thẳng nói như kết luận.

Minh đứng dậy, gấp lại chăn màn. Mấy người kia nhìn anh dò hỏi nhưng Minh mặc kệ vì thật ra, anh nào biết nói gì. Mà nói gì chăng nữa cũng đều vô nghĩa. Một cô gái trẻ trung tươi tắn, nhiệt tình với mọi người là thế, đùng một cái lại lăn ra chết vì một lí do chẳng ai ngờ tới.

Người ta chôn Hường ngay buổi chiều hôm ấy. Không có quan tài, nên phải dùng võng liệm cho cô và một tấm tăng bọc ở bên ngoài. Ba đoạn dây dù buộc ở cổ, bụng và chân người xấu số. Trước đó, Hạnh đã cẩn thận lấy một mảnh giấy, ghi tên tuổi, quê quán, ngày sinh, ngày mất của Hường rồi bỏ vào chiếc lọ pênêxilin rỗng, nhét trong túi áo của Hường. Mấy cậu vệ binh đem đến một cuộn dát bằng tre rồi họ bó chặt cô lại, khiêng ra nghĩa trang chung của bệnh viện. Minh nhìn quanh và đếm được cả thảy mười lăm ngôi mộ, thêm Hường vào nữa là mười sáu. Thì từ hôm anh đến đây đã lần lượt có bốn người được chôn rồi!

Không một vòng hoa cũng không một nén nhang nhưng anh nuôi đã đã kịp biện được bát cơm lồng, đôi đũa bông và quả trứng luộc đặt lên trên mộ. Người khác, thêm bó hoa sim tím chứ ở đây làm gì có nổi lấy một bông hoa trắng!

Hạnh khóc đến không còn nước mắt khi người ta lấp đất. Chao ôi, thân gái dặm trường! Sao mà em chết đau đớn thế hở Hường?! Hạnh vô cùng hối hận khi chị nghĩ, nếu không vì cuộc đi chơi, nếu Hường không về trông nhà để bảo vệ và che chắn cho chị thì cô đã không chết. Nhưng cũng vẫn còn may là sau lúc chia tay Minh, Hạnh về đến nhà không thấy Hường đâu nên thử đi tìm ở các lán xung quanh và báo cho mọi người biết. Lúc ấy chị còn lo Hường bị biệt kích bắt cóc đi rồi, mà như thế thì thật là  khủng khiếp. Không biết chuyện gì sẽ xảy ra đối với cô.

Mãi đến khoảng gần hai giờ sáng, người ta mới tìm thấy Hường đang nằm lịm đi bên một lối mòn chỉ cách chỗ ở chừng vài chục mét. Chưa hoàn toàn hôn mê nhưng cô không thể nói gì được nữa, mồ hôi và sương đêm khiến bộ quân phục ướt đầm.  Tất cả liền xúm vào cấp cứu cho Hường nhưng không kịp nữa.

Rất may cho Hạnh là không ai đặt câu hỏi tại sao Hường ra khỏi nhà vào lúc ấy. Ông phụ trách công tác bảo vệ của bệnh viện đã tra vấn Hạnh về việc đó, nhưng chị trả lời là Hường chỉ nói em ra ngoài một tí. Mà ra ngoài một tí là câu nói cửa miệng của rất nhiều người, chả có nghĩa gì. Không ai nghĩ Hường đang trên đường về. Người ta chỉ đoán là cô định sang lán bên ngồi chơi, nghe đài[14] hay tán gẫu thôi. Vì ở rừng, nhà nọ cách nhà kia khá xa mà nhiều khi rỗi rãi cũng buồn. Hơn nữa, ở đây đã có ai bị rắn cắn đâu!

Cũng không ai nhìn thấy Hạnh và Minh đi chơi với nhau. Vì thế, chị được coi là không liên quan gì đến cái chết của Hường. Nhưng Hạnh vẫn ân hận mãi vì đã hẹn gặp Minh rồi lại còn rủ Hường đi cùng. Nếu không… Đầu óc Hạnh như muốn vỡ tung ra vì bao nhiêu cái “nếu không” như thế.

Không bị ai buộc tội, nhưng Hạnh biết là cho đến hết cuộc đời chị cũng không dễ gì tha thứ cho mình. Càng xót xa hơn khi phải chứng kiến sự ra đi chậm chạp, vật vã, không cách gì cưỡng lại được của Hường. Không có bố mẹ, người yêu hay đứa em nào bên cạnh. Bạn bè thân thiết cũng không. Và cho đến lúc chết, tính cả tuổi mụ cô mới tròn hai mươi. Hạnh nghẹn ngào, muốn khóc nhưng không còn nước mắt. Hường ơi! Chị nấc lên một tiếng.

Buổi khám phân loại sức khỏe thương bệnh binh diễn ra theo đúng kế hoạch. Hơi ồn ào một chút vì đám đông lố nhố đứng ngồi và những lời bàn tán, bình luận mỗi khi có người từ trong phòng khám bước ra. Ai cũng chỉ muốn được xếp loại nặng hơn để may ra có cơ hội nhiều hơn. Nhưng chẳng biết được thế nào, vì đấy là điều bí mật mà các bác sĩ không công bố. Tuy nhiên, Hoàng cụt chân và anh Y hỏng mắt thì không cần phải khám vì vết thương của cả hai người, tự nó đã là lời khẳng định chắc chắn rồi.

Sáng nay, Hạnh đảm nhiệm vai trò thư kí của Hội đồng. Một cô y tá tròn như hạt mít gọi tên. Minh bước vào, thấy một người đàn ông tóc hoa râm, vẻ điềm đạm đang ngồi sau bàn. Có lẽ là bác sĩ Lương đây. Ở bàn bên, Hạnh nghiêm trang trước quyển sổ ghi chép rất to. Trong tay chị là chiếc bút máy Trường Sơn hơi ngọ nguậy. Minh chào cả hai người đúng vào lúc bác sĩ Lương thoáng nhìn anh rồi quay sang phía Hạnh như dò hỏi còn chị thì chỉ kín đáo gật đầu.

– Đồng chí tên là gì? Đặng Văn Minh à?

– Vâng ạ.

– Ngồi xuống đây. Chà, thanh niên Hà Nội đẹp trai ghê… Bao nhiêu tuổi rồi?

– Dạ, hai mươi hai ạ. – Minh hơi bẽn lẽn ngồi xuống chiếc ghế được làm bằng những đoạn thân cây tròn ghép lại.

– Cấp bậc của đồng chí?

– Dạ, trung đội bậc trưởng[15] ạ.

– Thế… đồng chí ở đơn vị nào?

– Dạ, E 174, Công trường Năm ạ.

– À, cũng gần đây… Đồng chí bị thương ở đâu? Cho tôi xem thử nào!

Thêm vài câu hỏi nữa. Bắt Minh co duỗi cánh tay bị thương, giơ lên hạ xuống mấy lần. Xoay cả cổ tay và thử nắm tay vào, xòe tay ra. Rồi vị bác sĩ ấy xem đến vết thương trên đầu của Minh với gần chục mũi khâu, tiếp đó còn nghe cả tim và phổi. Xem vết thương gãy cẳng chân từ trước đó của anh. Ông chậm rãi đọc cho Hạnh ghi vào trong sổ tình trạng của từng vết một. Cuối cùng là một cái gật đầu:

– Thôi, xong rồi!

Thấy Minh đi ra, mấy người đang đứng ở bên ngoài liền xúm lại hỏi ngay:

– Sao, thể nào rồi? Ra Bắc chứ?

– Chưa biết. – Minh lắc đầu. – Người ta có nói gì đến chuyện ấy đâu!

– Ồ, chắc chắn là ra rồi chứ còn gì nữa! – Phước nói cứ như đinh đóng cột.

– Làm sao mà chắc được? – Một người nào đó vặn.

– Lại còn làm sao nữa! – Phước hất hàm vào phía trong, nơi Hạnh đang ngồi với bác sĩ Lương.

– Chu Văn Phước! Có ai là Chu Văn Phước không? – Cô y tá hạt mít quát lên the thé.

– Có tôi đây!

Anh ta lách qua mấy người rồi làm ra vẻ vô tình chạm ngay vào cô y tá, sau đó mới đủng đỉnh bước vào với một cái cười khả ố. Cô này trừng mắt lên giận dữ nhưng không làm gì được nên đành nín lặng, mặt mũi đỏ bừng.

Tối hôm ấy, Minh lại đến chỗ Hạnh, định bụng xem mọi việc thế nào. Vắng Hường, căn lán có vẻ như hoang lạnh hẳn. Riêng chiếc giường của cô thì đã trống trơn, không còn lấy một manh chiếu rách. Đáng lẽ ra cái giường này phải đốt đi, Minh thầm nghĩ. Phong tục của người Việt Nam mình là thế.

– Minh uống nước đi. – Hạnh nói rồi vặn bấc cho chiếc đèn bão sáng lên.

– Mấy hôm nay Hạnh ở đây có một mình thôi à?

– Ừ. Nhưng từ mai có thêm người đến ở cùng rồi. Cái Quỳnh, sáng nay gọi tên mọi người ấy.

– Kể cũng sợ đấy nhỉ. – Minh buột miệng. – Có mỗi một thân một mình…

– Thì biết làm thế nào! Đáng lẽ ra cái Quỳnh nó phải đến đây từ hôm kia, nhưng nó cứ ngại vì nhỡ cái Hường nó về đòi chỗ.

– Ờ thì chuyện như thế, ai mà chẳng sợ. Lại nằm lên giường của người vừa mới chết xong. Có mắc võng đi nữa thì cũng vẫn ở trong cái lán này thôi.

Hạnh khẽ gật đầu:

– Kể cũng sợ, nhưng thật ra có sao đâu. Như thương bệnh binh ấy, vẫn nằm trên giường của người đã chết đấy chứ. Không thì lấy giường đâu phục vụ các anh. Mà nghe nói, con gái chết trẻ là thiêng lắm đấy nhé.

– Thế Hường nó đã về gặp Hạnh lần nào chưa? – Minh làm ra vẻ nghiêm trang.

– Chưa.

– Hi vọng là nó sống khôn chết thiêng, phù hộ cho tất cả chúng mình.

Hạnh không nói gì, nhưng cũng phải mất thêm vài phút im lặng ngần ngừ rồi Minh mới dám động đến cái điều mà anh băn khoăn muốn biết từ nãy đến giờ:

– Thế việc của mình đến đâu rồi?

– Minh được có ba mươi lăm phần trăm thôi. – Hạnh nhìn anh một thoáng. – Hơi ít, nhưng mình đã nói với thủ trưởng Lương và ông ấy đồng ý nâng lên thành năm mươi. Mà chỉ cần bốn mươi lăm phần trăm là đã được rồi.

– Trời! – Minh thốt lên sung sướng.

– Mình phải giữ bí mật đấy, đừng nói cho ai biết nhé. Ngày kia, thứ hai, người ta sẽ thông qua danh sách rồi sau đó mới đánh máy nộp lên trên.

– Nhanh thế nhỉ!

– Ừ, cứ chuẩn bị tinh thần đi là vừa.

– Nhưng mà… liệu có thay đổi gì nữa không hở Hạnh?

– Không. – Hạnh lắc đầu. – Việc thông qua danh sách chỉ là hình thức. Phần quyết định là do bác Lương rồi. Còn đã đem lên trên kia, thì không có ai bị gạt lại bao giờ. Đằng ấy cứ yên tâm.

Minh vô tình ngước nhìn lên cây cột, nơi đã có chiếc gương khác thế vào. Anh đứng dậy và thấy một chiếc lược rất đẹp được làm bằng mảnh xác máy bay Mĩ đang gài ở đó.

– Gương và lược của Hạnh đây à?

– Ừ, bộ kia là của cái Hường, phải để cho nó đem theo chứ. Con gái mà.

– Cái lược này đẹp quá. Ai làm mà khéo thế! – Minh trầm trồ.

– À, một anh thương binh là quân giới. Anh ấy chết trong trận bom cách đây mấy tháng rồi.

Đôi bạn cùng im lặng một lúc lâu. Có thể nghe thấy tiếng lũ mọt đang kêu kèn kẹt và tiếng thạch sùng chắt lưỡi. Rồi thì Hạnh cất giọng buồn rầu:

– Mình… không thể nào quên được cái Hường. Nó tốt ơi là tốt nhưng sao mà vắn số thế! Mới có hai mươi tuổi đầu…

– Thôi Hạnh ơi! Tự dằn vặt mãi làm gì, vì có ai muốn thế đâu. Hơn nữa, chính nó cứ nằng nặc đòi về cho bằng được đấy chứ. Có lẽ chẳng qua là do số phận của nó thôi. – Minh cố tìm cách an ủi Hạnh. – Giá mà nó cứ đi chơi với chúng mình, đừng vội về làm gì…

Hạnh nhìn Minh trách móc:

– Minh nói nghe hay thật đấy! Nó không muốn xen vào giữa chúng mình, hiểu chưa? – Chị dừng lại một lát, giọng bùi ngùi. – Nghe nói nhà nó nghèo lắm mà nó có tận bảy tám đứa em… Lúc nó chết rồi, bọn mình mới mở ba lô của nó ra kiểm để còn nộp lên trên, thấy chả có gì ngoài một bộ quân phục còn mới nguyên, quyển sổ tay và ít mì chính[16] được gói ghém cẩn thận. Có lẽ là nó định để dành đem ra ngoài Bắc.

Sáng hôm sau, đúng vào lúc Hạnh vừa mới cầm chổi lên để quét sân thì đã thấy Minh lò dò đi đến. Chị hơi giật mình, hỏi vội:

– Có chuyện gì gấp mà lên đây sớm thế? Trông Minh có vẻ phờ phạc quá. Mất ngủ à?

Minh đưa tay vuốt lại mái tóc bù xù và bỗng hơi lúng túng:

– Hạnh ơi, liệu bây giờ muốn thay đổi kết quả khám thương hôm qua có được không?

– Thay đổi thế nào, mà tại sao Minh lại hỏi thế?

– Mình… không muốn ra nữa Bắc đâu, Hạnh ạ. – Nói đến đấy, Minh liền lảng tránh cái nhìn của bạn.

– Trời đất ơi, sao lại thế? – Hạnh khẽ kêu lên thảng thốt. – Minh đã nghĩ kĩ chưa? Lại có ai nói gì à?

– Không ai nói gì hết, trái lại người ta còn bảo mình chắc chắn sẽ ra Bắc đợt này. Nhưng mình đã nghĩ kĩ rồi, nên quyết định là sẽ không ra nữa.

Hạnh lặng đi một lúc. Lần đầu tiên, chị cảm thấy Minh khó hiểu. Một cơ hội hiếm hoi như thế… Vậy mà anh lại định bỏ qua ư?

– Hạnh biết không, suốt đêm vừa rồi mình không ngủ được. – Minh nói khẽ nhưng rành rọt. – Mình suy nghĩ mãi rồi mới đi đến quyết định này, chỉ sợ là không kịp nữa. Nói thật, mình không đành lòng ra Bắc vào lúc này đâu. Mình sợ như thế là không công bằng, vì chắc là Hạnh cũng biết rồi. Ở đây có nhiều người còn xứng đáng hơn mình.

Hạnh hơi cau mày suy nghĩ nhưng chưa biết nói sao.

– Vì thế, nên mình nhờ Hạnh nói với ông Lương xếp lại hạng cho mình. Đúng như thực tế, là ba mươi lăm phần trăm. Có được không?

– Thật ra, vấn đề là như thế này, Minh ạ. – Hạnh cố trả lời một cách nhẹ nhàng. – Tất cả mọi người, nếu đủ tiêu chuẩn thì vẫn được ra Bắc đợt này đấy chứ, có ai bị gạt lại đâu! Còn trường hợp của Minh, cứ coi như là một sự ưu tiên hay châm chước gì đi. Đấy là điều rất bình thường, ở đâu cũng vậy thôi. Thế thì tại sao lại không công bằng? Và Minh định ở lại để làm gì? Trở về đơn vị cũ để chiến đấu à?

– Đúng. – Minh gật đầu khẳng định.

Hạnh sửng sốt, nhìn Minh trân trối. Không có bất ngờ nào lớn hơn. Hâm ơi là hâm! Hóa ra anh chàng này không sợ gì khó khăn hay nguy hiểm, cũng chẳng cần nghĩ đến ai. Có lẽ chỉ biết tôn thờ lí tưởng. Một Paven Coócsaghin[17] của Việt Nam đây. Sao lại mù quáng thế! Tay vẫn cầm chiếc chổi bằng lá cây còn chưa quét được nhát nào, chị buồn rầu nói:

– Được thôi. Nếu muốn thay đổi kết luận hôm qua thì bây giờ vẫn còn kịp, vì chưa ai đem ra báo cáo với Hội đồng. Theo lịch, ngày mai mới họp và thông qua danh sách. Nhưng theo mình, có lẽ Minh nên nghĩ lại. Vì quân đội ta không thiếu một hay vài người lính. Hơn nữa, cơ hội này là vô cùng hiếm có. Còn Minh thì chiến đấu như thế cũng đủ rồi, lại bị thương suýt chết mấy lần. Vậy thì bây giờ ra Bắc, có gì là sai đâu. Minh có hiểu không?

– Có, mình rất hiểu. Nhưng mình đã nghĩ kĩ rồi, không có gì thay đổi nữa đâu.

Câu trả lời của Minh như một nhát búa giáng vào trái tim của Hạnh khiến chị ứa nước mắt vì nỗi tủi thân và uất ức:

– Minh không nghĩ đến bản thân mình thì thôi, cũng được đi. Nhưng còn mẹ và các em ở ngoài kia? Còn Hạnh? Sao? Minh có nghĩ đến không? Có yêu Hạnh không?

Minh lúng túng, đưa tay lên gãi mái tóc bơ phờ:

– Mình… xin lỗi Hạnh. Mình vẫn nghĩ đến tất cả mọi người và cũng rất yêu Hạnh. Yêu hơn bất cứ thứ gì ở trên đời… Nhưng chính vì thế mà mình không muốn ra Bắc đợt này. Chưa phải lúc mà cũng không đành lòng. Hạnh có hiểu không? Chiến tranh đã kết thúc đâu! Đồng đội của mình bao nhiêu người chết. Chẳng lẽ mình yên tâm ra Bắc được à?

Không nén được nữa, Hạnh trề môi thương hại:

– Được thôi. Nhưng Minh ở lại, liệu có giảm được con số thương vong của mọi người không hay là vẫn thế? Thậm chí còn nhiều hơn? Và quan trọng nhất, là sau chiến tranh liệu Minh có còn sống để mà về không? Hay có về, nhưng lại què chân cụt tay chẳng hạn? Minh nghĩ thế nào?

Minh lúng túng, không trả lời được câu hỏi ấy. Vì thế, ngay khi thấy có người xuất hiện, anh liền tìm cách lảng:

– Thôi, mình đi về đây.

Hạnh thở dài cay đắng. Bao nhiêu là lo âu và công sức của mình… Chị uể oải đem cây chổi dựa vào một góc. Lạ thật, vừa mới hôm qua hôm kia còn hào hứng thế, mà bây giờ… Chuyện gì đã xảy ra? Cái gì đã làm cho Minh thay đổi nhanh như vậy? Hay thần kinh của anh ta có vấn đề rồi? Hâm ơi là hâm! Hạnh không tài nào hiểu được và bỗng nhớ đến cái nhìn có vẻ nghi ngờ của anh khi chị chìa ra bao thuốc lá  Capstan. Mình biết nói thế nào với bác Lương đây? Và bác ấy sẽ nghĩ gì?

Ôm nguyên cả mớ bòng bong suy nghĩ và nỗi hậm hực trong lòng, Hạnh chẳng làm gì được nữa trong suốt ngày hôm ấy. Nhưng cũng phải đến chiều, không thấy Minh quay lại, chị mới rụt rè đến gặp thủ trưởng Lương. Sau khi nghe Hạnh trình bày

xong, ông suy nghĩ mãi rồi mới nói:

– Thì thôi. Rất có thể là cậu ấy bị ám ảnh mạnh về một điều gì đó, như muốn lập chiến công hay cảm giác hối hận hoặc khao khát trả thù chẳng hạn. Mà cũng có khi là một thứ hội chứng chiến tranh. Thích mạo hiểm, thích được ngửi mùi khói súng, thích nhìn thấy lửa cháy hay người chết. Nó cũng như một thứ thói quen hay cơn nghiện ấy. Thiếu nó thì không chịu được.

Ông ngừng lại, nhìn Hạnh đang xoắn hai tay vào nhau khổ sở:

– Thôi thì con cứ chữa lại tỉ lệ phần trăm cho nó trước khi đem ra báo cáo. Nhưng để đến sáng mai, trước khi họp đã. Phòng khi nó lại đổi ý ấy mà.

Hạnh khẽ vâng một tiếng.

– Này, con yêu thằng ấy thật đấy à? – Bác sĩ Lương bỗng hỏi sang chuyện khác.

– Vâng. – Hạnh hơi đỏ mặt.

– Lâu chưa?

– Dạ, hơn ba năm rồi ạ. Từ trước khi anh ấy đi B.

– Bố thấy nó có vẻ là người có chí. Mà… nó nằm đây được bao lâu rồi?

– Dạ, hơn hai tháng ạ.

Bác sĩ Lương khẽ xoay xoay cái ống nghe vẫn được ông đeo trước ngực và bỗng trầm giọng xuống:

– Thế… có phải tối hôm ấy con đi chơi với nó không?

Hạnh bỗng giật nảy cả mình, choáng váng. Thì ra, không cái gì qua được mắt ông già.

– Vâng. Nhưng làm sao bố biết?

– Ờ thì nghe người ta nói thôi. Tai vách mạch rừng… – Bác sĩ Lương đăm chiêu suy nghĩ thêm một lát. – Đang phấn đấu vào Đảng, việc gì cũng phải cẩn thận không thì phiền lắm. Con có hiểu không?

– Vâng.

Ông bác sĩ nặng nề đứng dậy, hai tay thọc sâu trong túi áo blouse:

– Phải chuẩn bị cho ra viện hết thôi, con ạ. Lại sắp phải di chuyển đấy. Trên vừa thông báo, là theo đài kĩ thuật[18]thì có lẽ ở đây bị lộ rồi. Phải khẩn trương lên chứ không thì không kịp.

Đúng như lời bác sĩ Lương, chỉ ba bốn ngày sau bệnh viện đã được lệnh chuyển đi nơi khác. Theo kế hoạch, sáng mai người ta sẽ đưa những thương bệnh binh nặng chưa thể ra viện được và những người đủ tiêu chuẩn ra Bắc đi trước, tập trung ở Quân khu. Sau đó, giao liên sẽ quay lại đưa nhóm những người ra viện về đơn vị thu dung, cách đây khoảng hơn một tiếng đồng hồ. Còn cán bộ, nhân viên bệnh viện là những người cuối cùng rời khỏi nơi này vào sáng ngày kia. Các loại máy móc, trang thiết bị y tế thì đang được tháo dỡ và vận chuyển đi rồi.

Trong suốt mấy ngày qua, Minh không gặp được Hạnh một lần nào. Có lẽ, phần vì chị đang bận đủ mọi thứ việc trước lúc di dời, phần nữa mà Minh biết chắc, là đang giận anh nên tránh mặt. Anh buồn bã hết đi ra lại đi vào, không biết trò chuyện cùng ai, cuối cùng đành quyết định viết một lá thư cho Hạnh để giãi bày mọi nỗi niềm. Và cũng chỉ đến lúc này, các bạn cùng lán mới ngỡ ngàng thấy Minh không có tên trong danh sách những người ra Bắc.

Lá thư đã được viết xong. Minh đang dùng mấy hạt cơm để dán phong bì lại thì Hạnh tất tả từ xa đi tới. Trái với những lần trước đây, Phước nhấm nháy cho mọi người tản mát ra ngoài hết. Còn Hạnh làm ra vẻ thản nhiên:

– Chào các anh! Sao, mọi thứ xong hết chưa hở đồng hương? Có cần giúp đỡ gì không?

May quá, có người lại làm lành rồi đây, Minh thở phào nhẹ nhõm. Chứ chẳng lẽ lại giận nhau đến hết cả đời à! Anh mỉm cười bảng lảng:

– Có gì đâu mà phải giúp. Nhõn một cái ba lô… À, Hạnh nhớ cho mình gửi lời chào và cảm ơn bác Lương.

– Được rồi. Mấy hôm nay bác ấy đang phải đi khảo sát địa điểm mới, không có nhà. May ra thì đến tối nay bác ấy mới về.

– Mấy ngày nay Hạnh thế nào?

– Thì… vẫn thế.

– Trông có vẻ hơi gầy đi đấy nhé.

– Đâu mà… À, Minh viết thư cho ai thế? – Đôi mắt Hạnh hơi sáng lên khi chị nhìn thấy chiếc phong bì ở trên giường.

– Viết cho Hạnh chứ còn ai. – Minh nói với giọng hoàn toàn nghiêm túc. – Đang định là nếu hôm nay không gặp, thì ngày mai thế nào cũng phải đi tìm cho bằng được để đưa thư.

– Thế… đưa luôn bây giờ có được không? – Một nụ cười đã trở lại trên đôi môi của Hạnh. – Đỡ phải mất công đi tìm mà người ta cũng không phải chờ.

Minh hơi đắn đo một lát:

– Cũng được, nhưng với một điều kiện.

– Cứ nói đi.

– Hạnh phải hứa với mình, là không được đọc vào tối nay hoặc sáng mai. Chờ đến tối mai, sau khi chúng mình chia tay đã. Đồng ý không?

– Đồng ý thôi. – Hạnh miễn cưỡng gật đầu rồi giơ ngón tay ra ngoắc với Minh thay cho lời hứa.

Anh đưa cho chị chiếc phong bì còn chưa kịp ghi tên người nhận và thầm nghĩ, như vậy cũng có cái hay. Hạnh chỉ được đọc sau khi mình đã rời khỏi nơi này. Nghĩa là cô nàng không còn ý kiến gì được nữa về quyết định của mình.

Hạnh cầm lá thư, ngắm nghía một lúc rồi mới khẽ thở dài tiếc rẻ, nhét nó vào trong chiếc xà cột đeo ở bên sườn. Chị lấy từ đó ra một tờ giấy khổ to được gấp làm tư, đưa cho anh:

– Minh đọc thử cái này xem.

– Ngay bây giờ à?

– Ừ. Một bài thơ ấy mà.

– Thơ Hạnh mới làm đấy à, hay của ai? – Minh có vẻ ngạc nhiên.

– Không. Thơ của cái Hường đấy. Nó có một quyển sổ tay, trong đó có hàng mấy chục bài. Mình rất thích bài này nên mới bảo nó chép lại để cho Minh cùng đọc. Nhưng hôm nọ quên đi mất.

Bỗng nhiên, Minh cảm thấy gai hết cả người. Thì ra cô gái ấy cũng làm thơ. Và bây giờ, thơ còn đây nhưng người đã đi rồi. Anh gượng mở tờ giấy ra và đưa mắt theo từng dòng chữ một. Những dòng chữ nghiêng nghiêng hơi gãy góc, không cầu kì nắn nót một chút nào. Tất cả đều giản dị, chân chất như bản thân Hường vậy.

NGÀY XA

(Lời một cô gái có người yêu ra trận)

 

Nước mắt em rơi xuống lá thư

Mảnh giấy nhỏ báo tin người ra trận

 

Vẫn bảo chiến tranh là bất hạnh

Mà bây giờ em mới hiểu, anh ơi!

 

Nhận được thư, anh đã đi rồi

Sao phố nhỏ chiều nay buồn đến thế

Lá bàng rơi trong im lìm quạnh quẽ

Những ô cửa nhìn như trăm mắt dõi theo

 

Gần nhau nào đã nói gì đâu

Để xa cách lại thấy mình da diết nhớ

Đời vẫn trẻ và hoa thì cứ nở

Trong lặng thầm rón rén bước thời gian

 

Chiều nay em không được tiễn anh

Chỉ những chàng trai, những cô gái lạ

Chiều nay, anh để em buồn quá

Cả cuộc đời chỉ mình em vắng anh!

Nắng chiều thu dìu dịu vẫn xốn xang

Bởi tiếng trái tim này mạnh quá

Lúc ra đi liệu anh còn nhớ

Những ngày qua, ngày qua?

Nhận thư này, anh đã đi xa

Chàng trai ấy nay đã cầm khẩu súng

Anh có biết trong em cháy bỏng

Nhớ thương này đọng mãi với thời gian

Anh ra đi, em cũng lên đường

Cô gái của anh thường bướng bỉnh

Ai bảo anh làm người lính

Cho em làm người thương?

 

Nước mắt em rơi trong ánh nắng chiều

Nhỏ xuống giấy làm nhòe đi ít chữ

Nhưng không thể nhòe đi nỗi nhớ

Dài theo Trường Sơn xa…

Nước mắt em rơi xuống lá thư

Xin anh hãy để em buồn chút nữa

Để ngày mai… Em sẽ cười hớn hở

Đón người thương trở về

Chiến trường xa, giờ đây anh có nghe?

5.1972

– Mới chưa đầy hai năm về trước. – Minh ngỡ ngàng trước một tâm hồn lãng mạn nhưng anh cũng buồn đến xé lòng. – Có lẽ đây chính là lí do để cô ấy vào đến tận trong này…

– Sao, có được không?

Hạnh khẽ hỏi khi thấy Minh lật đi lật lại tờ giấy chép bài thơ ấy đến mấy lần trước khi gấp nó lại rồi cẩn thận nhét vào túi ngực. Anh chưa trả lời được ngay vì cả bài thơ và cô gái làm thơ.

– Thế bây giờ, quyển sổ ấy đâu rồi hở Hạnh?

– Gửi lên trên rồi, để người ta chuyển cho gia đình nó.

– Buồn kinh khủng. Thương nó quá, Hạnh ơi!

Hạnh hơi cúi đầu, tay mân mê mãi lọn tóc đuôi sam của chị:

– Hồi còn ở nhà, cái Hường nó yêu một anh là giáo viên dạy cấp ba ở trường huyện, ngay gần nhà nó. Nhưng đến đầu năm bảy hai thì anh ấy phải đi bộ đội, sau đó vào chiến trường luôn. Gấp quá, đến nỗi không kịp báo tin cho nó biết. Nó có đi tiễn chân được đâu! Phải đến hơn một tuần sau nó mới nhận được thư của anh ấy, mà trong đó cũng chỉ có mấy dòng. Đại ý, là anh phải đi đây. Em ở lại, chú ý giữ gìn sức khỏe. Nhớ đợi anh, thế nào anh cũng về…

Minh trút ra một hơi thở dài não nuột:

– Rồi sau đó thì sao?

– Nó vào đây, cứ hi vọng là sẽ gặp được anh ấy cơ. Ai ngờ…

– Thảo nào… Nhưng gặp làm sao được! – Minh lại thở dài lần nữa. – Chiến trường rộng lớn thế này…

– Anh ấy chết ở Quảng Trị rồi! Hồi đầu năm nay, có một đứa em nó viết thư vào, kể cho nó biết. – Hạnh bỗng òa lên khóc. – Người ta báo tử rồi.

Minh lặng người, không còn biết nói gì. Lát sau anh mới choàng tay lên vai chị, vỗ về:

– Thôi, Hạnh ơi, chiến tranh mà. – Đến lúc này thì Minh không còn sợ bị ai bắt gặp anh đang ngồi bên chị. – Có lẽ cái số của nó là như thế. Vượt hàng nghìn cây số dọc Trường Sơn mong được gặp người yêu. Nằm ngất đi ở ngay gần nhà trong khi mọi người lại đi tìm chỗ khác, thế thì làm gì mà chẳng chết. Mà chết cũng là vì người khác… Vì chúng ta! Thêm một lí do cho mình ở lại trong này, Hạnh có hiểu không?

Khác hẳn với mọi ngày, chiều nay Hạnh không mặc quân phục nữa mà thay vào đó là chiếc quần lụa đen và sơ mi trắng. Trong dáng vẻ rất hiếm gặp này, chị như đã thoắt trở lại làm một cô bé Hà Nội thời lớp chín lớp mười. Chiếc áo Hạnh đem từ ngoài Bắc vào nhưng ít khi dùng đến nên gần như còn mới nguyên. Nó được mợ Hạnh khâu tay bằng vải pôpơlin Trung Quốc mua theo tiêu chuẩn phân phối của bà. Trong chiếc áo này, Hạnh dường như cũng đẹp hơn lên và mái tóc đã đen lại càng thêm đen mướt.

Minh bỗng nao lòng trước hình dáng của Hạnh hôm nay vì nó gợi nhớ lại ngày xưa, vào mỗi lần tan học. Cậu bé Minh mười sáu mười bảy tuổi cố tìm cách tụt lại phía sau để nhìn trộm mái tóc dài ngang lưng khẽ đung đưa trong khi cô nàng đang thong thả bước đi trên con đường loang lổ nắng. Những câu thơ vụng dại của Minh cũng bắt đầu từ đấy. Còn bây giờ…

Họ dừng lại bên ngôi mộ của Hường. Không ai bảo ai, nhưng cả Hạnh và Minh đều cúi đầu im lặng. Mới chỉ qua ít ngày nên nấm đất vẫn giữ nguyên màu đỏ quạch. Chiếc bát sắt đổ nghiêng, không còn hạt cơm nào. Bó hoa sim thì đã khô quắt lại, không còn ra hình thù gì nữa. Không một tấm bia, vì người ta sợ lộ bí mật khi quân địch đến đây. Ai mà biết được chúng sẽ làm gì với những người đã chết?

Anh có lỗi với em, Hường ạ. Qua thời gian sống ở đây, anh có hiểu được gì nhiều về em đâu, vì sự quan tâm chú ý của anh đều dành trọn cho người khác. – Minh thầm nói với người nằm trong mộ. – Anh đã vô tình quên mất, bên cạnh chị Hạnh còn có một người bạn, một người em rất tốt với anh. Thế mà bây giờ, em nằm lại đây chỉ có một mình… Sau này, liệu có ai tìm đến đây không?

– Chúng mình đi thôi, Minh ơi! – Hạnh xem lại đồng hồ và khẽ nhắc. – Đừng để người ta chờ.

– Còn sớm mà!

– Sớm gì nữa, hơn bốn giờ rồi đây này.

– Thôi được rồi. Đi!

Minh đội chiếc mũ cối lên đầu rồi bất giác giơ tay lên chào theo điều lệnh:

– Vĩnh biệt em, Hường nhé!

Anh xoay mình, bước đi theo Hạnh. Trước mắt anh lúc này, chị vẫn đang là cô bé ngày nào với mái tóc đung đưa trên tấm lưng thon thả. Chỉ có điều, quang cảnh ở đây đã khác. Không còn những phố phường, nhà cửa, hàng cây… mà là cả một triền đồi thoai thoải, nghiêng nghiêng đầy những vạt hoa sim đang nở rộ. Xa hơn nữa, trảng cỏ và rừng rậm. Một hoàng hôn thanh bình như không hề biết đến chiến tranh với những cánh chim bay chấp chới.

Đông Nam bộ, ngày 14 tháng Tư năm 1974

 

Hạnh thân yêu, 

           Chỉ còn một thời gian ngắn nữa thôi là chúng ta lại xa nhau không biết đến bao giờ gặp lại. Trưa nay, mình không ngủ, ngồi viết gửi đến Hạnh những tình cảm sâu sắc chân thành nhất của mình.

          Gặp Hạnh ở đây là điều rất bất ngờ đối với mình. Chiến tranh là cái gì đó thật khủng khiếp và bất hạnh nhưng đôi khi nó lại đem đến cho mỗi chúng ta những cơ hội khó tin, có đúng không? Hơn ba năm trước, có bao giờ mình nghĩ là chúng ta lại gặp nhau ở chốn này. Trong thâm tâm, mình vô cùng mong muốn một ngày về gặp Hạnh, nhưng không ngờ cuộc gặp gỡ lại nhanh chóng diễn ra như thế.

           Có phải cuộc sống đã dành cho mình sự may mắn quá lớn không? Cho đến bây giờ, có lẽ Hạnh cũng không biết rằng ngay từ khi mới xa nhau, mình đã mong gặp lại để nói với Hạnh tất cả. Nhức nhối, day dứt mãi trong tim mình là những điều chưa kịp nói ra khi hai đứa còn ở bên nhau. Những điều ấy, kể cũng nhiều song tựu trung vẫn có thể gói gọn trong một câu, là mình yêu Hạnh. Nếu chẳng may ngã xuống ở một nơi nào đó thì mình sẽ ân hận và nuối tiếc biết chừng nào.

           Hẳn là Hạnh còn nhớ buổi tối mồng ba Tết hơn ba năm về trước, khi chúng mình dừng chân bên tháp Hòa Phong. Mình không dám nói gì hết, mặc dù hành động của mình đã làm cho Hạnh bị bất ngờ. Cho đến tận lúc chia tay cũng vậy. Nhưng sự thật không phải như vậy ư, mình yêu Hạnh và tin rằng Hạnh cũng yêu mình. Chỉ có điều, lúc ấy cả hai chúng ta còn trẻ quá, mà mình thì vừa vụng về lại vừa nhút nhát nên không dám nói năng gì hết.

          May sao chúng ta đã gặp nhau ở đây và mình đã nói được ra điều đó. Và câu trả lời của Hạnh cũng đã có rồi. Hơn thế nữa, chúng ta còn có những phút giây lãng mạn bên nhau với trăng, với suối, với rừng…, mà nếu ở trong những hoàn cảnh khác thì làm gì có được. Đối với mình, Hạnh là tất cả: tình bạn, tình yêu, niềm tin và những gì tốt đẹp nhất của mình. Dù đi đâu, ở đâu, trái tim và tấm lòng mình vẫn nguyên vẹn dành cho riêng Hạnh.

           Nhưng Hạnh ơi, có bao giờ Hạnh băn khoăn về việc tại sao mình không dám đi xa hơn những gì đã có không? Mình muốn giữ gìn cho Hạnh, cho chúng ta vì mình hiểu môi trường khắc nghiệt ở nơi này. Hơn nữa, chiến tranh vẫn còn chưa kết thúc. Mặt khác, cũng phải thú thật là, mình sợ không xứng đáng với niềm tin và sự mong chờ của Hạnh. Mình sợ không đủ khả năng đem lại cho Hạnh tình yêu và hạnh phúc theo đúng nghĩa của những từ này. Tại sao ư? Tại vì mình chỉ là một người lính bình thường trong chiến tranh.

           Rất cảm ơn Hạnh và bác sĩ Lương đã có thiện ý giúp đỡ cho mình ra Bắc. Nhưng Hạnh hãy tha lỗi cho mình vì mình muốn mọi thứ phải thật đàng hoàng, nhất là trong hoàn cảnh bao nhiêu người vẫn còn đang phải chiến đấu và đổ máu. Chứ tuyệt nhiên không phải vì mình muốn tìm kiếm vinh quang hay ham bắn giết ai. Đối với mình, điều ấy là vô nghĩa. Mình chỉ muốn là, nếu có trở về miền Bắc thì cũng với tư cách của một người chiến thắng hay ít nhất cũng đã hoàn thành nhiệm vụ, chứ không phải nhờ một sự ưu tiên hay giúp đỡ nào. Đơn giản thế thôi.

           Nhưng cũng chính vì lí do này mà mình muốn nói với Hạnh, đừng mất công chờ đợi làm gì. Rất yêu, rất thương và tin Hạnh, nhưng ai mà biết được số phận mình sẽ ra sao. Vì thế, với tất cả sự chân thành mình chỉ mong đến một lúc nào đó, nếu gặp được người ưng ý, Hạnh đừng từ chối mà hãy đón nhận tình yêu mới ấy, cũng như đã từng chấp nhận mình. Hãy tin rằng, dù trong hoàn cảnh nào, mình cũng mừng cho Hạnh. Và lúc ấy, mình sẽ lại trở về làm người bạn thân của Hạnh như xưa.

           Hạnh thân yêu,

           Thư này tuy chưa dài, nhưng mình cũng xin dừng bút vì không biết viết gì hơn nữa. Rất có thể chỉ sau đây vài phút thôi, mình lại lấy làm tiếc về những gì chưa kịp nói ra. Nhưng như thế cũng đủ rồi, Hạnh nhỉ. Chỉ biết rằng mình yêu Hạnh, mãi mãi yêu Hạnh và lúc nào cũng chỉ mong Hạnh được bình yên, hạnh phúc. Dù phải xa nhau dài lâu đến thế nào chăng nữa mình cũng vẫn là Minh của Hạnh hôm nay cũng như những tháng năm về trước.

           Tặng Hạnh bài thơ Hoa sim mình làm trước lúc đi B.

Hôn Hạnh nhiều.

Bạn và người yêu của Hạnh.

 

Hạnh dừng lại, chờ Minh bước tới ngang mình rồi mới chỉ tay về phía trước:

– Đến nơi rồi. Giờ, Minh cứ đi theo đường mòn này, qua con suối cạn độ hai trăm mét, chỗ có chòi gác ấy. Giao liên chờ mọi người ở đấy.

– Nhanh thế nhỉ. – Minh nói, như không thể nào khác được. – Lại đến lúc phải xa nhau rồi. Hạnh có muốn dặn mình gì không?

Hạnh khẽ lắc đầu. Đôi mắt chị đã ầng ậng nước.

– Thế… Hạnh định nói gì với mình qua bài thơ của cái Hường?

– Không nói gì. – Hạnh lắp bắp qua hơi thở gấp.

– Thật không?

– Thật mà.

– Thề đi! – Minh cố gượng đùa, mặc dù đúng vào lúc này anh lại tự nhiên muốn khóc. Và phải cố gắng lắm, anh mới ngăn được dòng nước mắt đang chỉ chực trào ra.

– Thề! – Đôi môi nhợt nhạt của Hạnh vẽ một nụ cười méo xệch.

– Thôi, mình đi đây. – Minh cầm bàn tay Hạnh lên và nhìn sâu vào trong mắt chị. – Ở lại mạnh khỏe, may mắn nhé! Không cần chờ mình đâu.

Hạnh lắc đầu, không nói. Minh bỏ tay chị xuống rồi cẩn thận ôm lấy cái thân hình mềm oặt ấy trong khi Hạnh đã nhắm nghiền mắt lại khiến hai giọt lệ ứa ra, to dần rồi từ từ lăn xuống má.

Minh khẽ hôn lên môi Hạnh một cái rồi bất ngờ siết chặt lấy chị bằng tất cả sức lực của mình. Trong giây lát, anh cảm nhận rất rõ đôi vú mềm mại nhô lên dưới lần vải mỏng ép chặt ào ngực anh. Một cảm giác xốn xang khó tả tràn ngập trái tim Minh làm cho anh bỗng run lên. Ôi, giá như không có chiến tranh, không có những gặp gỡ chia lìa, không có luôn cả buổi chiều nay thì hay biết bao nhiêu! Minh thầm ước nhưng anh cũng hiểu ngay đó là điều không thể. Trời ơi là trời!

– Tạm biệt, Hạnh yêu quý nhé! Mình phải đi đây. – Minh khẽ hôn lên mắt Hạnh một cách đầy nuối tiếc trong khi chị hoàn toàn câm lặng.

Đi được một quãng, Minh ngoái lại nhìn và thấy Hạnh vẫn đứng nguyên chỗ cũ. Thân hình chị đổ nghiêng, màu áo trắng chơi vơi như một vẩn mây trên nền trời xanh thẫm. Anh cố bước nhanh xuống chân đồi.

Cây rừng đã che khuất bóng Minh. Nhưng Hạnh vẫn còn đứng đó nhìn theo anh mãi. Mái tóc chị bị gió làm rối tung, thổi mướt sang bên.

Mặt trời đã lặn rồi, nhưng đỉnh rừng phía Tây vẫn còn hắt lên những mảng màu  ngổn ngang đỏ rực. Gió chiều lồng lộng thổi dài. Xung quanh Hạnh từ từ dâng lên một màu hoa sim tím bâng khuâng…

Yên Tử, 18 – 3- 1971

Đăk Lăk, 10 – 5 – 1974

Sửa chữa và chép lại, xong ngày 30 tháng Mười 1975 tại Hải Phòng

(Bút danh Hoài Thu)

[1] Sau này gọi là Ban chỉ huy quân sự quận..

[2] Loại quân hiệu do Trung Quốc sản xuất và cung cấp cho ta trong nững năm chống Mĩ.

[3] Loại vải xuất hiện ở miền Bắc Việt Nam trong những năm bảy mươi, thường được dùng để may áo khoác.

[4] Màu đồng phục của tất cả các lực lượng Công an nhân dân Việt Nam thời đó.

[5] Sau này là trụ sở Ủy ban nhân dân thành phố và nhà Bưu điện Bờ Hồ.

[6] Lán dành cho thương bệnh binh nặng, khả năng tử vong cao.

[7] Loại thuốc chữa sốt rét phổ biến vào thời đó.

[8] Đơn vị có nhiệm vụ bảo vệ các cơ quan dân chính đảng ở chiến trường và chiến đấu khi cần thiết.

[9] Bôn sê vích, phiên âm tiếng Nga, ý nói là người của Đảng.

[10] Sau này lại tách ra làm hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên như trước khi sáp nhập.

[11] Bố.

[12] 9 cm x 12 cm, được coi là cỡ ảnh loại to vào thời ấy.

[13] Câu nói cửa miệng của nhiều người trong thời gian chiến tranh, bắt nguồn từ lời một bài hát.

[14] Nghe radio.

[15] Chuẩn úy, một cấp bậc nay đã bỏ.

[16] Bột ngọt, được coi là thứ của quý đối với người dân miền Bắc vào thời đó.

[17] Nhân vật trong tiểu thuyết Thép đã tôi thế đấy của nhà văn Liên Xô N. Ôstrovxki (1904 – 1932).

[18] Tình báo vô tuyến điện.